Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận_hội liên hiệp phụ nữ xã quảng lãng - huyện ân thi với công tác xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.03 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Gia đình là các nôi nuôi dưỡng, là tổ ấm của mỗi người là xã hội đầu
tiên của con người nên nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân
cách của mỗi cá nhân.
Gia đình là tế bào của xã hội, một tế bào khoẻ mạnh là nền tảng cho
một xã hội tốt , vì vậy muốn cho xã hội phát triển trước hết trong mỗi gia đình
phải có trách nhiệm giáo dục con cái cách ứng xử trong gia đình, dòng họ,
thông qua tình yêu, sự gắn bó với làng xóm, quê hương, gia đình là tấm
gương cho con cái noi theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy " Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hật nhân của xã
hội là gia đình " .
( Trích bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận " Dự thảo Luật hôn nhân
và gia đình " ngày 10 / 10 / 1959 ).
Gia đình là điểm khởi phát sự nghiệp và cũng là cái đích cuối cùng của
mỗi người - chính là trường học đầu tiên, in dấu ấn không thể phai mờ trong
suốt cả cuộc đời.
Ngày nay cùng với sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ hội
nhập quốc tế Việt nam là một thành viên chính thức của WTO . Vì vậy vấn
đề gia đình càng cần quan tâm hơn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định : Nâng cao chất lượng của gia đình trong việc xây dựng và bồi
dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hoá làm cho gia đình thực sự
là tổ ấm của mỗi người .
Phát huy vai trò quan trọng của gia đình, đồng thời làm chuyển biến
nhận thức của mỗi người và toàn xã hội về xây dựng gia đình trong Hiến
pháp, Luật pháp như Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật hình sự, Luật chăm
sóc bảo vệ giáo dục trẻ em, có các chương , điều đều đã đề cập đến các vấn đề
1
gia đình như bình đẳng nam nữ, giáo dục gia đình Thủ tướng Chính phủ đã
quyết định lấy ngày 28 / 6 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam.
Đảng đã quan tâm định hướng và chỉ đạo vấn đề xây dựng gia đình


" No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc " , đồng thời tiếp tục đẩy mạnh giáo
dục gia đình trong những năm tiếp theo. Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX
đã phát động phong trào thi đua " Phụ nữ tích cực học tập lao động sáng tạo ,
xây dựng gia đình hạnh phúc " và đề ra một trong 6 chương trình trọng tâm
xây dựng gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc " nhằm hỗ trợ phụ
nữ nâng cao kiến thức về mọi mặt, nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình,
tạo việc làm, tăng thu nhập , nuôi dạy con tốt, ngăn ngừa phòng chống tệ nạn
xã hội từ trong gia đình.
Hiện nay vấn đề gia đình tại xã Quảng Lãng - Huyện Ân Thi là một vấn
đề cấp bách như bất bình đẳng giới, ly hôn, giáo dục con trong gia đình, các tệ
nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Xuất phát từ nhận thức về gia đình và
tình hình thực tế tại địa phương là một cán bộ hội trong quá trình học tập và
qua hoạt động thực tiễn của Hội LHPN xã Quảng Lãng cần quan tâm vấn đề
bức xúc . Vì vậy tôi chọn đề tài : " Hội LHPN xã Quảng Lãng - Huyện Ân
Thi với công tác xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
trong giai đoạn hiện nay " làm Tiểu luận tốt nghiệp nhằm góp phần thúc đẩy
phong trào của Hội không ngừng phát triển.
2
NỘI DUNG
I - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
a. Một số vấn đề chung về gia đình
* Khái niệm gia đình :
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng từ xã hội lạc hậu đến thời đại
văn minh , mỗi con người đều được sinh ra và trưởng thành cho đến khi từ
biệt cõi đời đều gắn bó với gia đình . Theo từ điển tiếng Việt - 1992 : Gia
đình là tập hợp người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã
hội gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ
chồng, cha mẹ và con cái.
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 : Gia đình là tập hợp những

người gắn bó với nhau theo hôn nhân quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo
quy định của luật này.
Theo các nhà xã hội khoa học : Gia đình là một hình thức cộng đồng xã
hội đặc biệt được hình thành duy trì và củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết
thống, nên các yếu tố tình cảm là nét bản chất của gia đình. Gia đình không
chỉ là một đơn vị tình cảm tâm lý mà còn là một tổ chức kinh tế - tiêu dùng,
một môi trường giáo dục văn hoá và là một cơ cấu thiết chế xã hội.
* Vị trí vai trò của gia đình
Gia đình là nền tảng của xã hội có vai trò rất quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện chức năng sinh sản, nuôi
dưỡng, tâm lý, tình cảm, giáo dục hình thành nhân cách con người và là đơn
vị kinh tế, đồng thời gia đình còn có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn
3
và phát huy những giá trị văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác những chuẩn
mực đạo đức và phấn đấu thực hiện.
* Chức năng của gia đình
- Chức năng sinh sản bảo tồn nòi giống : Việc sinh con, nuôi dưỡng
con và tạo cho con cái có thể chất tốt để duy trì và phát triển nòi giống nhầm
đáp ứng yêu cầu tái sản xuất dân số của xã hội, thoả mãn nhu cầu của cha mẹ
tạo ra niềm vui và hạnh phúc cho mỗi gia đình. Hiện nay chức năng sinh sản
của gia đình liên quan mật thiết đến nguy cơ " Bùng nổ dân số " nguy cơ ô
nhiễm môi trường cạn kiệt tài nguyên. Vậy chức năng sinh sản, tái tạo ra sức
lao động phải đảm bảo số lượng và chất lượng cuộc sống của đứa trẻ của các
thành viên trong gia đình là vấn đề khẩn cấp có tính toàn cầu. Ở Việt Nam
chúng ta đang đặt ra trách nhiệm cho mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh đẻ 1 hoặc 2
con nhằm thực hiện triệt để chương trình Dân số - KHHGĐ.
- Chức năng nuôi dưỡng giáo dục : " Con người muốn trở thành người
thì phải có giáo dục ", đó là chân lý đã được đúc kết trong lịch sử phát triển
loài người.

Quá trình nuôi dưỡng, giáo dục con người bắt đầu từ lúc trẻ trong bào
thai của mẹ và khi cất tiếng khóc chào đời là ở trong môi trường gia đình, vậy
trong cuộc sống , gia đình ngay từ thửa lọt lòng, trẻ đã được thừa hưởng
những di sản văn hoá gia đình đó là gia phong bao gồm những kinh nghiệm
truyền thống, tập quán, thói quen, nếp sinh hoạt tốt. Tự tiếp nhận những di
sản văn hoá đó trong quá trình cha mẹ dạy dỗ, chỉ bảo từng lời nói, cử chỉ,
từng thao tác sử dụng đồ vật trong nhà nhờ sự giáo dục của gia đình tạo lên
cho trẻ có đủ khả năng thích nghi và tiếp nhận có hiệu quả tác động giáo dục
của nhà trường, của xã hội , dần dần trẻ tiếp xúc với nền văn hoá xã hội rộng
lớn hơn, phong phú thông qua giao tiếp học tập vui chơi, lao động, hoạt động
xã hội từ cái nôi gia đình. Trẻ lớn lên trưởng thành và trở thành người công
dân, người lao động của xã hội.
4
- Chức năng kinh tế bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mọi thành
viên trong gia đình : Chức năng kinh tế gia đình chính là sự bảo đảm cho mọi
thành viên có cuộc sống ấm no, đó chính là việc ăn, ở, mặc nhu cầu thiết
yếu nhất của con người, những nhu cầu đó ngày càng cao theo sự phát triển
xã hội. Vì vậy gia đình ( người cha , người mẹ ) phải biết tổ chức hoạt động
kinh tế nhằm tăng nguồn thu nhập từ các ngành nghề chính và phụ, biết huy
động và sử dụng hợp lý sức lao động của mỗi thành viên trong gia đình, tổ
chức lao động có hiệu quả cao trong đó có việc giáo dục tình cảm, thái độ lao
động cho con cái và các thành viên khác để phát huy được tinh thần tự giác,
sáng tạo trong lao động làm cho kinh tế gia đình ngày càng dồi dào.
Chức năng kinh tế trong gia đình có ý nghĩa quyết định đối với sự sống
của mọi thành viên đồng thời quyết định chi phối các chức năng khác như
sinh đẻ, giáo dục, văn hoá, quan hệ trong đời sống hàng ngày của gia đình.
- Chức năng thoả mãn tinh thần tâm lý : Chức năng này có vị trí rất
quan trọng trong việc củng cố tính bền vững của gia đình, hạnh phúc gia đình
ngày càng được quyết định bởi sự thoả mãn nhu cầu về tâm lý , tình cảm của
các thành viên trong mối quan hệ gia đình.

Gia đình chính là nơi mọi thành viên có điều kiện quan tâm, chăm sóc
đến nhau, tạo nên sự thoả mãn , những nhu cầu vật chất và tinh thần thiết yếu
cho mỗi con người.
- Chức năng chăm sóc người già cả, ốm đau, tàn tật : Dân tộc ta vốn có
truyền thống đạo lý tôn trọng người cao tuổi " Kính lão đắc thọ ". Đối với gia
đình chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ già là thể hiện đạo đức hiếu thảo của con
cháu trong gia đình là thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những thế hệ đã
vượt qua đã chịu đựng biết bao gian khổ, vất vả , thiếu thốn để chắt chiu
những dòng sữa ngọt ngào, những miếng cơm manh áo nuôi dạy con cháu
trưởng thành và tạo lập nên cơ nghiệp gia đình góp phần xây dựng đất nước
hôm nay.
5
- Bảo vệ chăm sóc ông bà, cha mẹ lúc tuổi già không những là đạo đức
hiếu thảo của con cháu mà còn giáo dục cho thế hệ con cháu lòng biết ơn ông
cha, nhưng trong thực tế có gia đình khá giả đã thuê người ở để chăm sóc bố
mẹ già, hoặc thuê khoán cho gia sư toàn bộ việc nuôi và chăm sóc trẻ.
b. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình
Gia đình là tổ chức cơ sở đầu tiên đối với mỗi cá nhân, là tế bào hợp
thành đời sống xã hội không có gia đình để tái sản xuất ra con người, sản xuất
ra sức lao động thì xã hội không thể tồn tại và phát triển, vì vậy việc xây dựng
và tổ chức cuộc sống gia đình để có được gai đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc không chỉ là mục tiêu mỗi cá nhân cần đạt được mà còn là mục
tiêu chung của toàn xã hội.
Gia đình được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở các mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình đóng góp để đạt được mục tiêu trên cần
phải thiết lập được các mối quan hệ gắn bó trong gia đình và tổ chức tốt đời
sống vật chất ,tinh thần cho các thành viên trong gia đình.
Đảng và nhà nước ta luôn có nhận thức đúng đắn và đánh giá cao vai
trò của Phụ nữ trong việc xây dựng gia đình như trong Hiến pháp, luật
pháp ( Luật hôn nhân và gia đình, bộ luật hình sự, Luật dân sự, Luật chăm sóc

bảo vệ giáo dục trẻ em ). Luật lao động có các chương , điều đều đã đề cập
đến các vấn đề như gia đình nhưu bình đẳng nam nữ, giáo dục gia đình lao
động, sức khoẻ nhiều vấn đề liên quan đến việc xây dựng gia đình " No ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ".
Trong Nghị quyết 04 - NQ/ TW ngày 12 / 7 / 1993 của Bộ chính trị đã
đề ra mô hình gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là " No ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc ", Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa vào Nghị
quyết tạo điều kiện để phục nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ xây dựng
gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ".
6
Vấn đề gia đình cũng là vấn đề quan tâm chung của toàn thế giới. Năm
1994 Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố là năm quốc tế về gia đình với
chủ đề " Gia đình các nguồn lực, các trách nhiệm trong thế giới đang biến
động ", tư tưởng chỉ đạo là sự thay đổi thế giới cần gắn liền với sự tiến bộ, sự
tăng trưởng các phúc lợi cho cá nhân và thúc đẩy sự ổn định của gia đình
Hưởng ứng năm quốc tế gia đình của Liên hợp quốc Chính phủ Việt
Nam đã soạn thảo một chương trình hành động cụ thể cho năm quốc tế gia
đình ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 72 / 2001 / QĐ-
TTg lấy ngày 28 / 6 hàng năm là " Ngày gia đình Việt Nam ".
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII đã đưa vấn đề gia đình vào
nhiệm vụ trọng tâm " Xây dựng văn hoá, gia đình văn hoá mới có ý nghĩa rất
quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực lượng sản xuất ổn
định và cải thiện cuộc sống , thực hiện kế hoạch hoá dân số, giữ gìn và phát
huy truyền thống đạo đức , văn hoá tốt đẹp của dân tộc, nâng cao ý thức và
nghĩa vụ giáo dục với mọi người kết hợp phát huy vai trò của xã hội, các đoàn
thể nhà trường, tập thể lao động , tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng
tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách cao đẹp và nếp sống có văn
hoá".(1)
Và đến Đại hội Đảng lần thứ X : " Nâng cao trình độ mọi mặt và đời
sống vật chất , tinh thần, thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ

thực hiện tốt vai trò người công dân , người lao động, người mẹ, người thầy
đầu tiên của con người, bồi dưỡng đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động xã hội. Các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, bổ sung và hoàn chỉnh các chính
sách về bảo hộ lao động,bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ
kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi và bạo lực xâm hại
và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ ".(2)
( (1) , (2 ) TRích văn kiện Đại hội Đảng VII, X )
7
c. Chủ trương công tác của Hội LHPN Việt Nam về vấn đề gia đình
Trên cơ sở đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của cán bộ , hội viên và các
tầng lớp phụ nữ lần đầu tiên Đại hội phụ nữ toàn quốc đề ra một chương trình
riêng về xây dựng gia đình , đây là một trong sáu chương trình trọng tâm của
Hội giai đoạn 2002 - 2007 và là một bộ phận của phong trào thi đua yêu nước
" Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc".
Tập trung đầu tư tổ chức đồng bộ thống nhất các hoạt động, giải quyết các
vấn đề đang đặt ra ở cấp gia đình có liên quan 4 chuẩn mực : " No ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc " , các chuẩn mực này có nội dung toàn diện cả về
Kinh tế, Văn hoá, Xã hội. Cụ thể :
- No ấm : Là yếu tố đầu tiên gia đình cần đạt tới là biểu hiện phát triển
kinh tế của gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần của các
thành viên. Những yếu tố đảm bảo no ấm, gia đình đủ ăn và đảm bảo dinh
dưỡng, đủ mặc phù hơp với thuần phong mỹ tục, có các tiện nghi sinh hoạt
thiết yếu trong gia đình, kinh tế gia đình phát triển có tích luỹ để mở rộng sản
xuất và cải thiện mức sống.
- Bình đẳng : Trong gia đình không có sự phân biệt đối xử nam nữ, vợ
chồng bình đẳng, bàn bạc, quyết định các công việc gia đình. Mọi người tôn
trọng, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong công việc như học tập, chăm sóc sức khoẻ,
nuôi dạy con cái, nội trợ, phát triển kinh tế gia đình.
Bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá tinh thần, hưởng mọi quyền lợi về

học tập, nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc sức khoẻ và tham gia hoạt động trong
cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến phụ nữ và trẻ em gái không có bảo lực
trong gia đình.
- Tiến bộ : Là yếu tố hướng tới xây dựng gia đình hiện đại, các thành
viên gia đình luôn có ý thức rèn luyện phấn đấu vươn lên về mọi mặt để có
kiến thức trình độ, năng lực , có đạo đức, lối sống lành mạnh phù hợp với
truyền thống văn hoá dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Cụ thể thực
8
hiện tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
thực hiện chính sách Dân số - KHHGĐ, thực hiện tốt quy ước của cộng đồng
dân cư nếp sống mới, tương trợ giúp đỡ mọi người các thành viên trong gia
đình có lối sống lành mạnh, không có người vi phạm pháp luật hoặc mắc tệ
nạn xã hội, tiết kiệm , không xa hoa lãng phí , trẻ em đến độ tuổi đi học đều
đến trường.
- Gia đình hạnh phúc : Gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ là cơ sở của
gia đình hạnh phúc. Trong gia đình mọi thành viên biết kết hợp hài hoà nhu
cầu cá nhân với nhu cầu chung của gia đình, làm tốt bổn phận của mình, thực
hiện mục đích chung của gia đình, nó biểu hiện trong cách sống lành
mạnh,cách ứng xử ,tôn trọng nhau, thương yêu nhau, chân thành, nhường
nhìn, giúp đỡ , khuyên bảo nhau trong cuộc sống làm cho gia đình thực sự là
tế bào lành mạnh của xã hội.
Để làm tốt chương trình công tác xây dựng gia đình theo chuẩn mực
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã xác định mục tiêu và các giải pháp
sau :
* Mục tiêu :
- Xây dựng gia đình chuẩn mực : " No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc ", hàng năm có 60 % trở lên gia đình cán bộ, hội viên đạt các chuẩn mực
nêu trên.
- Góp phần cải thiện sức khoẻ Phụ nữ - Trẻ em, tạo điều kiện để các bà
mẹ sinh con khoẻ mạnh, nuôi dạy con tốt.

- Góp phần hạn chế ngăn ngừa, phòng chống tệ nạn xã hội có hiệu quả
từ trong gia đình.
Các mục tiêu có mối quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau trong khi thực
hiện các mục tiều cần có sự phối hợp chặt chẽ với các chương trình khác đặc
biệt là chương trình 2 để tạo điều kiện cho chị em phụ nữ đạt chuẩn mực " No
9
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ". Kết hợp với chương trình quốc gia về
Dân số - KHHGĐ , công tác phòng chống suy dinh dưỡng và chăm sóc sức
khoẻ sinh sản, chương trình phòng chống tệ nạn xã hội.
* Những giải pháp chủ yếu :
- Xây dựng gia đình theo 4 chuẩn mực, Nghị quyết đưa ra bẩy giải pháp
mang tính chiến lược định hướng cả về tổ chức và quản lý, truyền thống, giáo
dục thay đổi hành vi và công tác nghiên cứu.
1. Tổ chức nghiên cứu xây dựng tài liệu giáo dục giáo dục, tổ chức tập
huấn triển khai các hoạt động tuyên truyền giáo dục gia đình.
2. Tuyên truyền, vận động và tổ chức để phụ nữ đang ký thực hiện xây
dựng gia đình chuẩn mực " No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc " , tổ chức
hội nghị biểu dương các gương điển hình phụ nữ về xây dựng gia đình ở các
cấp hội.
3. Củng cố và nhân rộng các mô hình hoạt động lồng ghép đạt hiệu quả
cao và bền vững, tăng cường công tác tư vấn, phối hợp với các ngành chuyên
môn xây dựng kế hoạch thực hiện chiến lược về dân số và sức khoẻ sinh sản
phòng chống HIV / AI DS.
4. Phối hợp tuyên truyền, vậnđộng phụ nữ thực hiện Luật hôn nhân và
gia đình đẩy mạnh công tác tư vấn, can thiệp để giải quyết những vụ việc vi
phạm luật hôn nhân và gia đình.
5. Phối hợp với Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia tổ chức
thực hiện các hoạt động truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức thay đổi về
hành vi tệ nạn xã hội. Bảo vệ và chăm sóc trẻ em , vệ sinh môi trường.
6. Nghiên cứu đề xuất hỗ trợ chính sách, hỗ trợ phát triển gia đình, tăng

cường kiểm tra giám sát thực hiện chính sách.
7. Phối hợp với các ngành chức năng thực hiện tốt phong trào đền ơn
đáp nghĩa, đẩy mạnh hoạt động nhân đạo từ thiện trong các tầng lớp phụ nữ .
10
2. Cơ sở thực tiễn
Vấn đề gia đình cũng là vấn đề quan tâm chung của toàn thế giới mà ở
nước ta phong trào cuộc vận động về gia đình đã được phát động rộng rãi
trong các tầng lớp nhân dân. Nhằm nâng cao ý thức của mỗi người dân,mỗi
gia đình trong việc xây dựng gia đình nhưu gia đình 5 tốt,gia đình văn hoá,
phong trào xây dựng cuộc sống mới khu dân cư, chương trình xây dựng gia
đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ", đã được Đảng, Nhà nước ta
rất quan tâm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ xây
dựng gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ".
Vấn đề gia đình là một vấn đề phải được thực hiện một cách thường
xuyên và liên tục thực tế vẫn đang đặt ra những vấn đề có liên quan, tác động
chưa tốt đến gia đình, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, tình trạng bất bình đẳng giới
trong gia đình vẫn tồn tại tình trạng bạo lực gia đình, ly hôn có xu hướng
tăng, vấn đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản , sức khoẻ trẻ em trong gia đình còn
chưa được chú ý đúng mức. Tình hình tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức
tạp và nghiêm trọng, mặc dù vấn đề gia đình đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm nhưng trước vấn đề bức xúc của một số gia đình ở địa phương vẫn còn
xẩy ra , làm cho tác động đến các bậc làm cha, làm mẹ phải lo lắng đến vấn
đề gia đình.
Trước vấn đề bức xúc về gia đình . Hội liên hiệp phụ nữ xã Quảng
Lãng đã xây dựng kế hoạch và triển khai xuống đến tận các chi, tổ phụ nữ
trong toàn xã hướng dẫn cho hội viên phụ nữ và các gia đình thực hiện phong
trào thi đua " Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc " và 4 chuẩn mực " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ", mở
lớp tập huấn về chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ từ 18 đến 35 tuổi, dân
số KHHGĐ.

Vận động phụ nữ có thai, các cháu trong độ tuổi đến trạm y tế xã tiêm
phòng đủ mũi, đẩy mạnh công tác tuyên truyền , giáo dục cho hội viên phụ nữ
11
học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh. Tuyên truyền vận
động các tầng lớp phụ nữ thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật Nhà nước và các Nghị quyết của Đảng bộ xã , Nghị quyết của
hội, vị trí, vai trò chức năng của gia đình.
Hội phụ nữ đã tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền phối hợp
với các ngành có liên quan đề xuất các biện pháp , cơ chế quản lý, chính sách
phù hợp khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, mang lại quyền và lợi ích
chính đáng cho phụ nữ và trẻ em.
Hội phụ nữ xã là khách hàng tin cậy nhiều năm liền với Ngân hàng
chính sách xã hội huyện Ân Thi,tạo đìêu kiện vốn vay lãi xuất thấp cho chị
em phụ nữ thiếu vốn sản xuất, chăn nuôi.
- Tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước
của Hội qua các buổi sinh hoạt hội viên, sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ, tổ nhóm
tín dụng tiết kiệm, giao lưu văn nghệ, qua các buổi toạ đạm, tổ chức hội thi
bằng các tiểu phẩm, bài hát, bài thơ tự biên, tự diễn theo các chủ đề : Tuyên
truyền qua sách báo, tài liệu, tuyên truyền hệ thống đài truyền thanh của xã,
của các thôn.
- Tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng kế hoạch mở lớp tập huấn
đề xuất với chính quyền tạo điều kiện kinh phí để tổ chức các lớp tập huấn
cho học viên, phụ nữ tại các chi, tổ.
- Phối hợp với các ngành như văn hoá thông tin, Ngân hàng chính sách
xã hội, Ngân hàng phát triển nông thôn, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp,trạm
y tế xã, Ban công an xã, Ban tư pháp, Uỷ ban MTTQ, Hội nông dân, Đoàn
thanh niên.
- Hội đã chủ động phối kết hợp với các ban ngành đàon thể có liên
quan đề xuất các biện pháp cơ chế quản lý , chính sách phù hợp , khuyến
khích phát triển kinh tế gia đình nhằm mang lại quyền lợi ích chính đáng cho

phụ nữ và trẻ em.
12
Với những kết quả thực hiện công tác xây dựng gia đình " No ấm, bình
đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ", của Hội LHPN xã đã đạt được những kết quả
đáng kể, trong công tác chỉ đạo phong trào phụ nữ chương trình hoạt động
xây dựng gia đình theo 4 chuẩn mực trong thời đại cơ chế thị trường nên các
hoạt động của Họi phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại như việc chỉ đạo
vấn đề gia đình đạt 4 chuẩn mực do kinh tế gia đình còn thiếu chị em phụ nữ
thời gian nông nhàn phải lên thành phố,các tỉnh ngoài để kiếm việc làm ảnh
hưởng đến việc xây dựng tổ chức cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái ,
nhiều gia đình chỉ cho con học hết THCS các cháu mới 15,16 tuổi đã cho đi
làm thuê ở thành phố, tình trạng cố sinh con trai để nối dõi tông đường, tình
trạng bạo lực trong gia đình, các tệ nạn xã hội, trộm cắp vặt ở các thôn xóm
vẫn thường xẩy ra. Chính vì vậy mà vấn đề xây dựng gia đình là vấn đề phải
được thực hiện thường xuyên và liên tục là nhiệm vụ của các cấp, ngành đoàn
thể của mọi cá nhân trong toàn xã hội. Vì vây là một vấn đề cấp bách cần
được giải quyết kịp thời.
II - THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH " NO ẤM, BÌNH
ĐẲNG, TIẾN BỘ , HẠNH PHÚC ", CỦA HỘI LHPN XÃ QUẢNG LÃNG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Đặc điểm tình hình xã Quảng Lãng.
Quảng Lãng là một xã nằm ở phía bắc của huyện Ân Thi giáp với
huyện Kim động . Xã có diện tích tự nhiên là 675,72 ha, diện tích canh tác
442 ha, diện tích dân cư 44,89 ha, toàn xã có 5 thôn , tổng số hộ là 1.487 hộ,
tổng số nhân khẩu là 6250 người.
Quảng Lãng là một xã thuần nông, sản xuất nông nghiệp độc canh cây
lúa, nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp , nghề phụ hạn
chế. Từ khi có nghị quyết của UBND tỉnh năm 2002 về dồn thửa đổi ruộng
đất nông nghiệp, một số hộ gia đình đã mạnh dạn chuyển đổi từ chân ruộng
năng suất thấp chuyển sang làm trang trại, trồng cây nuôi cá và đã có hiệu

quả.
13
Cơ cấu kinh tế : - Nông nghiệp 53 %
- Tiểu thủ công nghiệp 20 %
- Dịch vụ 27 %
Thu nhập bình quân đầu người 5 triệu đồng / năm
Quảng lãng có Đảng bộ gồm 12 chi bộ, trong đó có 7 chi bộ tại các tổ
dân cư, 3 chi bộ nhà trường, 1 chi bộ y tế, 1 chi bộ an ninh. Tổng số đảng viên
có 265 đồng chí,nhiều năm liền Đảng bộ và các ngành đoàn thể được tặng
bằng khen, giấy khen của các cấp đội ngũ cán bộ xã là đảng viên đã được
học trung cấp lý luận chính trị và một số đồng chí đã có bằng đại học, trung
cấp chuyên môn , đội ngũ cán bộ xã tích cực học tập để nâng cao trình độ,
năng lực và kỹ năng lãnh đạo làm tốt nhiệm vụ được giao.
Kết quả trên các lĩnh vực :
+ Công tác giáo dục : Toàn xã có 3 trường học trong đó trường THCS
và trường Tiểu học là nhà 2 tầng kiên cố, riêng trường Mầm non còn đặt tại
các khu dân cư nhưng chất lượng các lớp đều được xây dựng khang trang
sạch đẹp. Cả 3 cấp học đều được các thầy cô thực hiện tốt đổi mới chương
trình nội dung, phương pháp dạy và học, thường xuyên tổ chức hội thi, hội
giảng để đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện : " Nói
không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục ".
+ Công tác y tế : Xã đã được đầu tư xây dựng và trang thiết bị tương
đối đầy đủ, cán bộ trạm y tế có bác sĩ, y tá thường xuyên làm tốt công tác
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân phòng chống dịch bệnh, thực hiện
tốt các chương trình y tế quốc gia và trẻ em suy dinh dưỡng, chương trình
chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em.
+ Công tác an ninh quốc phòng : Công tác an ninh được Đảng bộ xác
định là nhiệm vụ quan trọng bảo đảm sự vững chắc cho sự phát triển Kinh tế
xã hội , vì vậy hàng năm BCH Đảng uỷ có chuyên đề về công tác an ninh
quốc phòng.

14
+ Ban công an xã : Đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ Đảng,
chính quyền duy trì tốt trật tự an ninh an toàn xã hội và thực hiện tốt Nghị
quyết số 09/CP của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm và ma tuý trên địa bàn không để trọng án xẩy ra, tổ chức giúp đỡ các
đối tượng đi cai nghiện.
+ Công tác quân sự địa phương : Thực hiện Nghị quyết chuyên đề về
công tác an ninh quốc phòng, ban chỉ huy quân sự xã đã triển khai kế hoạch tổ
chức phổ biến giáo dục luật nghĩa vụ quân sự, pháp lệnh dân quân tự vệ cho
các tầng lơp nhân dân nhất là các nam thanh niên trong độ tuổi khám tuyển .
Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã phân công trách nhiệm cho các thành viên trực
tiếp động viên thanh niên đi khám tuyển và có biện pháp xử lý kiên quyết đối
với những trường hợp trốn tránh nghĩa vụ.
2. Thực trạng vấn đề gia đình tại xã
Trong những năm qua Đảng bộ, nhân dân nói chung, Hội phụ nữ nói
riêng trong toàn xã luôn đoàn kết quyết tâm thực hiện các mục tiêu kinh tế -
văn hoá - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã đề rả, phấn đấu thực hiện
những mục tiêu " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ", là hầu hết các gia
đình Việt Nam hiện nay mong muốn.
* Các loại gia đình ở Việt Nam.
Trong xã hội hiện nay có nhiều loại hình gia đình khác nhau :
Căn cứ vào số thế hệ :
- Có gia đình 1 thế hệ ( chỉ có 2 vợ chồng )
- Gia đình 2 thế hệ ( gồm cha mẹ và con cái) đây là gia đình hạt nhân
- Gia đình đa thế hệ là gia đình mở rộng ( bao gồm ông bà, cha mẹ, con
cái ).
Ở tại xã loại gia đình hạt nhân chiếm tỷ lệ lớn hơn loại gia đình đa thế
hệ. Gia đình chính là nơi mọi thành viên có điều kiện quan tâm chăm sóc đến
nhau , tạo lên sự thoả mãn những vật chất và tinh thần thiết yếu cho mỗi con
15

người và tình yêu thương ruột thịt. Để phấn đấu các tiêu chuẩn xây dựng gia
đình :
- No ấm : Là đủ ăn, đủ mặc, có tiện nghi sinh hoạt thiết yếu trong gia
đình kinh tế gia đình phát triển và có tích luỹ để phát triển sản xuất.
Ở tại địa phương là một xã thuần nông nghề phụ hạn chế đời sống của
nhân dân còn eo hẹp, bình quân 1 người là 2 sào ruộng cấy 2 vụ lúa, gần đây
do dịch cúm gia súc gia cầm đã làm ảnh hưởng đến kinh tế của nhân dân sản
phẩm thóc gạo làm ra giá rẻ, vật tư và các dịch vụ nông nghiệp đầu tư sản
xuất thì cao đã làm tư tưởng của người nông dân không muốn cấy ruộng, nhà
máy xí nghiệp đóng trên địa bàn không có, lao động dư thừa, tình trạng phân
biệt giữa người giầu, người nghèo còn xẩy ra. Tỷ lệ hộ nghẹo theo tiêu chí
mới chiểm 19 %, nhiều gia đình phụ nữ phải đi làm ăn xa, ít có điều kiện để
chăm sóc con cái và tổ chức cuộc sống gia đình.
Theo tiêu chuẩn bình đẳng thì nhiều gia đình ở nông thôn chưa thực sự
bình đẳng như con gái phải nghỉ học để đi làm, con trai được đi học hoặc một
số gia đình vợ đi làm thuê kiếm tiền ở thành phố, chồng ở nhà trông con và
vấn đề cố phải sinh con trai để nối dõi nhất là năm nay 2007 người ta cho
rằng năm con heo vàng nên cố sinh thêm . Chính vì vậy mà từ đầu năm đến
nay toàn xã đã có 7 ca sinh con thứ 3.
- Tiến bộ : Các thành viên trong gia đình luôn ý thức vươn lên về mọi
mặt để có kiên thức, trình độ năng lực như qua các buổi tập huấn khoa học kỹ
thuật thâm canh lúa hoặc các lớp phòng trừ sâu bệnh cho lúa và các loại cây
rau màu hoặc giao lưu văn nghệ tại các thôn nhất là việc chấp hành chủ
trtương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nươc và các nội
quy của thôn, của xã đề ra như đóng góp vệ sinh môi trường, ủng hộ nạn
nhân chất độc da cam hoặc các khoản đóng góp theo páp lệnh và dịch vụ khác
đều đúng thời gian quy định nên hàng năm không có đơn thư vượt cấp .
16
- Hạnh phúc : Hiện nay xã có 4 / 5 thôn đã được công nhận Làng văn
hoá, danh hiệu đó đã được các thành viên trong các gia đình học tập nhau,

ông bà, cha mẹ mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền đã được Uỷ ban
MTTQ xã bình xét hàng năm, các gia đình đã được trao tặng giấy khen, đã
làm gương cho các gia đình khác nọi theo và hiện nay chỉ có tiêu chuẩn bình
đẳng là khó khăn nhất.
- Vấn đề bình đẳng giới ở nông thôn còn nhận thức chậm bởi phong tục
tập quán từ xưa để lại, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền chưa được
đào tạo và không có phụ cấp, kinh phí để dùng cho công tác tuyên truyền còn
hạn chế, tài liệu để tuyên truyền vấn đề bình đẳng giới còn thiếu. Chính vì vậy
mà trong quá trình thực hiện khi bình xét gia đình đạt 4 chuẩn mực là rất ít, so
với mục tiêu của đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 9 đã đề ra.
Đối chiếu với tiêu chuẩn " Gia đình văn hoá " của Bộ trưởng Bộ văn
hoá - Thông tin ra ngày 23 / 6 / 2006 thì tiêu chuẩn của gia đình văn hoá chỉ
cần đạt 3 tiêu chuẩn gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc là đã đạt
được còn thực tế ở địa phương chuẩn mực bình đẳng thì nhiều gia đình chưa
đạt được.
Vấn đề xây dựng gia đình không chỉ riêng của Hội phụ nữ mà là trách
nhiệm của các cấp, các ngành và trách nhiệm của toàn xã hội. Hội LHPN xã
Quảng Lãng trong những năm qua thường xuyên được sự quan tâm giúp đỡ
định hướng của Hội cấp trên, sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của cấp
uỷ Đảng, sự phối hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể để cùng thực hiện
được chính quyền tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí để hoạt động , đội ngũ cán bộ
hội đoàn kết nhiệt tình giầu kinh nghiệm, năng động đặc biệt là tinh thần đoàn
kết tích cực phấn đấu của hội viên và các tầng lớp phụ nữ trong xã, thực hiện
chương trình xây dựng gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ".
3. Hội LHPN xã Quảng Lãng với công tác xây dựng gia đình " No
ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc ".
17
a. Công tác chỉ đạo của Hội LHPN xã.
Ban chấp hành Hội LHPN xã đã tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
phụ nữ các cấp, thực hiện Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, thực hiện chỉ thị

Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng thời thực hiện
tốt định kỳ báo cáo tình hình hoạt động của Hội phối hợp với các ngành đoàn
thể, các tổ chức có liên quan giải quyết những vấn đề có liên quan đến quyền,
lợi ích của phụ nữ, trẻ em.
BCH Hội LHPN xã làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ , tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách mỗi uỷ viên BCH đều có quyền phát biểu thảo
luận và biểu quyết tại các hội nghị BCH.
BCH Hội LHPN xã là cơ quan quyết định nhiệm vụ của hội, công tác
phong trào hàng năm, thường xuyên lắng nghe tâm tư nguyện vọng của hội
viên, phụ nữ và giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của BCH.
- Mỗi uỷ viên BCH đều được phân công 1 nhiệm vụ và phù hợp với
chức năng trình độ của mình để phát huy được tính chủ động và sáng tạo
trong khi thực hiện chương trình công tác.
- Tổng số hội viên trong toàn xã là 1.083 họi viên được phân chia sinh
hoạt theo địa bàn dân cư gồm 11 tổ. BCH có 13 chị, Ban thường vụ gồm 3
chị, độ tuổi trung bình của BCH là 40 tuổi, chị cao tuổi nhất là 50 tuổi, chị ít
tuổi nhất là 32 , có 10 / 13 chị tái cử.
- Cơ cấu BCH : 11 chị chuyên trách, 2 chi cơ cấu các ngành. Trong đó
1 chị là Phó ban Dân số GĐ - TE, 1 chị là giáo viên Tiểu học. Các chị trong
BCH trực tiếp làm tổ trưởng để chỉ đạo các hoạt động của hội, mỗi tổ gồm có
1 BCH là tổ trưởng, 1 tổ phó, 1 thủ quỹ. Trong tổ còn phân ra các xóm và bầu
1 chị ở xóm đó làm nhóm trưởng ,có trách nhiệm đôn đốc theo dõi các hội
viên của nhóm mình. Hiện nay 11 tổ phụ nữ của 5 thôn trong toàn xã đã có hệ
thống loa truyền thanh riêng nên khi sinh hoạt hoặc viết bài tuyên truyền đều
18
thông báo trên hệ thống truyền thanh, cán bộ hộ không phải đúng từng gia
đình để mời dự họp như trước .
Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương Hội LHPN xã với chức
năng nhiệm vụ của mình đã có nhiều nôi dung hình thức hoạt động phù hợp
để thu hút được đông đảo các tầng lớp phụ nữ tham gia vào tổ chức hội.

Thực hiện Nghị quyết của hội cấp trên , hưởng ứng các cuộc vận động
của Hội, Ban thường vụ đã xây dựng kế hoạch hoạt động cho từng tháng,
từng quỹ phù hợp với từng thời điểm của địa phương như phong trào thi đua "
Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc "
vào quý I nhất là công tác xây dựng gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ ,
hạnh phúc ". Ban thường vụ trực tiếp xuống từng tổ triển khai phân tích các
tiêu chuẩn để hội viên hiểu được ý nghĩa của 4 chuẩn mực, sau đó cán bộ, hội
viên mở sổ cho hộ viên ký kết để theo dõi cuối năm bình xét.
Các phong trào thi đua đã được hội viên và các tầng lớp phụ nữ tích
cực hưởng ứng giúp cho chị em xác định rõ vị trí vai trò của mình trong gia
đình và xã hội để phấn đấu xây dựng gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ ,
hạnh phúc ", cũng là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của xã hội.
b. Các hoạt động xây dựng " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh phúc"
của Hội LHPN xã.
* Hoạt động tuyên truyền : Công tác tuyên truyền giáo dục được các
cấp hội đặc biệt quan tâm là cơ sở để giúp chị em có kiến thức cần thiết để
nâng cao trình độ mọi mặt bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức truyền
thống văn hoá dân tộc tạo điều kiện cho chị em tham gia vào các hoạt động xã
hội và tổ chức tốt cuộc sống gia đình.
Hội phụ nữ xã bám sát định hướng chỉ đạo của Hội cấp trên , của BCH
Đảng uỷ chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền về xây dựng gia đình theo
chuẩn mực, phong trào thi đua " Phụ nữ tích cực học tập lao động sáng tạo
xây dựng gia đình hạnh phúc ", Luật hôn nhân gia đình, pháp lệnh dân số, vai
19
trò phụ nữ trong gia đình, nâng cao kiến thức nuôi dạy con, KHHGĐ, viết bài
tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã, truyên truyền qua các buổi
sinh hoạt hội viên theo định kỳ hoặc lồng ghép sinh hoạt câu lạc bộ gia đình
phát triển bền vững. Mở lớp tập huấn ,tổ chức giao lưu văn hoá văn nghệ với
các tiểu phẩm tự biên tự diễn nhằm thu hút được quần chúng nhândân tham
gia hưởng ứng. Tuyên truyền bằng các tiểu phẩm là một hình thức dễ hiểu và

nhớ lâu hấp dẫn người xem. Hội thường xuyên phối hợp với Ban văn hoá
thông tin cùng nhau tuyên truyền vận động các gia đình thực hiện gia đình
văn hoá , gia đình đạt 4 chuẩn mực.
* Hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình
Chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế giảm nghèo vươn lên làm
giầu cải thiện điều kiện sống có ý nghĩa quan trọng đối với vai trò, vị thế của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội, làm tốt chương trình này để giúp cho
phụ nữ có điều kiện xây dựng gia đình " No ấm, bình đẳng, tiến bộ , hạnh
phúc ".
Hội phụ nữ xã bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng
bộ xã để xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm tập trung chỉ đạo trực tiếp
xuống chi, tổ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình bằng các hoạt động sau
+ Hoạt động vay vốn : Có tác động tích cực và rõ nét nhất trong công
tác xoá đói giảm nghèo , trong những năm qua của Hội Phụ nữ là hoạt động
khai thác nguồn vốn bằng các hoạt động giúp nhau phát triển kinh tế gia đình,
hội đã khơi dạy được truyền thống nhân ái " lá lành đùm lá rách " của dân tộc
tạo lên phong trào sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ như tín chấp với Ngân
hàng CSXH huyện cho vay vốn lãi xuất thấp, thường xuyên hướng dẫn kiến
thức khoa học kỹ thuật đẻ biết cách làm ăn, giúp đỡ công lao động, huy động
chị em gia đình khá cho vay, cho mượn như con giống, vật tư sản xuất, không
lấy lãi tạo điều kiện cho chị em thoát nghèo.
20
- Hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật : Trong những năm qua Hội
LHPN xã đã kết hợp với HTXDV nông nghiệp , khuyến nông, nông dân mở
15 lớp chuyển giao KHKT với 1.450 lượt người được tiếp cận những kiến
thức mới về trồng trọt, chăn nuôi, mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật đưa các
giống lúa hàng hoá có giá trị kinh tế vào thâm canh.
- Hoạt động hỗ trợ việc làm : Với phương châm tạo việc làm cho phụ nữ
tại địa phương vừa tăng thu nhập lại có điều kiện nuôi dạy con và chăm lo cu
sống gia đình, hội vận động chị em tích cực tham gia chương trình chuyển đổi

cơ cấu kinh tế, đầu tư phát triển cây con có giá trị kinh tế cao, khôi phục phát
triển nghề truyền thống và nghề mới như khôi phục nghề tráng bánh đa, nghề
làm bún và hiện nay có cơ sở nhận đan hạt gỗ thành các tấm đệm ghế xe ô tô
hoặc đan thành chiếu để xuất khẩu, hiện cơ sở của gia đình chị Lê Thị Nga là
1 cán bộ hội , gia đình chị đã mở xưởng sản xuất trang bị máy móc để làm các
công đoạn ra hạt không phải nhập ở nơi khác và chị đã nhận 150 chị em vào
làm.
Trong những năm qua với sự cố gắng nỗ lực sáng tạo vươn lên của cán
bộ, hội viên các tầng lớp phụ nữ trong xã , sự nhạy bén trong chỉ đạo của các
cấp hội , đồng thời bám sát vào sự chỉ đạo của BCH Đảng uỷ - HĐND xã và
chủ trương của hội cấp trên để tổ chức các hoạt động thiết thực đời sống việc
làm của phụ nữ đặc biệt phụ nữ nghèo được cải thiện rõ rệt góp phần đáng kể
vào việc giảm tỷ lệ hộ nghèo của xã là 19 %, không còn hộ đói, năm 2005
toàn xã đã xoá xong nhà tranh vách đất, riêng Hội đã vận động quyên góp ủng
hộ 1 nhà tranh tre cho chị Nguyễn Thị Hoa - thôn Bình Cầu, năm 2006 Hội đã
giúp 3 chị thoát nghèo, 1 gia đình vươn lên làm giầu, công tác giúp phụ nữ
nghèo làm chủ có địa chỉ đã được Hội phụ nữ chỉ đạo và thực hiện tốt. Từ đó
vai trò của Hội LHPN xã tham gia các hoạt động hỗ trợ phát triển kinh tế gia
đình ngày càng được đánh giá cao, đóng góp xứng đáng vào thành tựu phát
triển kinh tế của địa phương, đảm bảo 1 gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ
hạnh phúc.
21
- Hoạt động chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ em và thực hiện kế hoạch
hoá gia đình : Sức khoẻ là vốn quý, là hạnh phúc của mỗi gia đình và xã hội ,
có sức khoẻ tốt là điều kiện đảm bảo sự tiến bộ, bình đẳng, phát triển của phụ
nữ , chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ thực hiện dân số - KHHGĐ là trách nhiệm
của các thành viên trong gia đình của nam giới và phải được coi là một nội
dung xây dựng gia đình : " No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ".
Hội đã tuyên truyền giáo dục hội viên , phụ nữ biết cách chăm sóc sức
khoẻ cho bản thân, cho gia đình, đồng thời tham gia các chương trình Dân số

- KHHGĐ , chăm sóc sức khoẻ sinh sản , phòng chống suy dinh dưỡng cũng
là điều kiện tốt để thực hiện chức năng của hội. Thực hiện phương châm mỗi
án bộ hội , mỗi hội viên là 1 cán bộ tuyên truyền vận động, truyền thông thay
đổi hành vi CSSK phụ nữ, trẻ em là hoạt động phối hợp giữa Hội phụ nữ với
ngành y tế, cùng đề xuất với chính quyền hỗ trợ kinh phí để tổ chức khám
chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho phụ nữ trong các chiến dịch truyền
thông lồng ghép. Hội kết hợp với Ban dân số gia đình và trẻ em tuyên truyền
vận động các gia đình có trẻ trong độ tuổi đi tiêm phòng đủ mũi và vắc xin
phòng bệnh đạt 100 %. Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 7 %
năm 2006, tuyên truyền cho các gia đình thường xuyên quan tâm giáo dục con
cái là hết sức quan trọng trong vấn đề buôn bán tình dục của phụ nữ nói
chung và trẻ em gái nói chung.
- Hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội từ trong gia đình : Ngày nay
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường một vấn đề hết sức
bức xúc đặt ra không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách mà còn đối
với mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội. Đó là tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã
hội đã và đang từng bước xâm nhập vài gia đình, làm cho gia đình dần suy
yếu không đảm bảo được các chức năng vốn có của mình đứng trước vấn đề
trên Hôị LHPN xã Quảng Lãng đã kết hợp với các ngành chức năng để ngăn
chặn đầy lùi các tệ nạn như ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS tới tất cả các tổ phụ
nữ.
22
Kết hợp với công an xã xây dựng kế hoạch hoạt động thực hiện Nghị
quyết số 01 / 2003 về quản lý giáo dục con em trong gia đình không vi phạm
pháp luật và tệ nạn xã hội trên địa bàn.
BCH đã triển khai xuống 100 % các tổ ký cam kết để thực hiện, đồng
thời vận động gia đình có người nghiện hút đi cai nghiện. Tuyên truyền lồng
ghép qua các buổi sinh hoạt hội, tổ chức hội thi về nội dung phòng chống ma
tuý được nhân dân đồng tình hưởng ứng, không những vậy hội còn phát động
tới hội viên , điểm danh phát hiện kịp thời những tụ điểm mua bán chất ma

tuý để công an và các cơ quan kịp thời giải quyết.
Kết hợp với các ngành tổ chức quản lý giáo dục giúp đỡ người lầm lỗi
tại địa bàn dân cư, trẻ em nghèo có hoàn cảnh khó khăn hoặc đối tượng mãn
hạn từ hay đi cơ sở giáo dục về.
Kết quả đã phát hiện kịp thời 3 ổ nhóm cờ bạc, 12 đối tượng trộm cắp
trên địa bàn xã báo cho công an. Tổ chức kết hợp cùng công an biểu dương ,
khen thưởng kịp thời những cá nhân, đơn vị làm tốt công tác phòng chống tệ
nạn xã hội.
* Triển khai phong trào thi đua : Cùng với hoạt động khác việc
triển khai phát động phong trào thi đua " Phụ nữ tích cực học tập, lao động
sáng tạo , xây dựng gia đình hạnh phúc ". Phong trào " Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống mới ở khu dân cư " và phong trào " Phụ nữ làm kinh tế giỏi ".
Ngay sau khi các phong trào được phát động Hội phụ nữ đã hưởng ứng
phong trào và triển khai xuống 100 % các tổ. BCH Hội phụ nữ xã đã tổ chức
cho hội viên học tập 3 nội dung của phong trào để hội viên hiểu và đăng ký.
Toàn xã có 90 - 95 % hội viên đăng ký vào dịp 8 / 3 hàng năm, tổ trưởng theo
dõi hàng tháng qua các hoạt động và cuối năm bình xét hội viên đạt tiêu
chuẩn của phong trào thi đua vào ngày thành lập hội 20 / 10, năm 2006 có
856 đạt 79%. Thông qua các hoạt động của phong trào thi đua BCH Hội
LHPN xã còn vận động hội viên tích cực thi đua lập thành tích chào mừng các
23
ngày lễ lớn của Đảng, của đất nước của hội và các phong trào thi đua đặc biệt
trong những năm qua hưởng ứng đợt thi đua đặc biệt do Thủ tướng Chính
phủ phát động, Hội đã tổ chức ký giao ước thi đua giữa các tổ trưởng với Ban
thường vụ Hội phụ nữ xã. Kết quả là 100 % các tổ ký cam kết sau đó triển
khai cho hội viên tham gia ký kết với tổ trưởng. Để thực hiện tốt phong trào
tổ chức tuyên truyền lồng ghép các hội nghị như hội nghị gặp mặt cán bộ,
hộiviên tiêu biểu, hội nghị điển hình tiên tiến 5 năm gắn với kỷ niệm 40 năm
phát động phong trào phụ nữ 3 đảm đang đã được diễn ra sôi nổi thiết thực,
kịp thời động viên biểu dương các tập thể, cá nhân có nhiều cố gắng trong

phong trào phụ nữ 3 đảm đang cùng với phong trào thi đua yêu nước đã có ý
nghĩa giáo dục truyền thống đối với cán bộ, hội viên phụ nữ trong toàn xã.
c. Một số tồn tại và nguyên nhân
* Tồn tại : Bên cạnh những kết quả đạt được phong trào của Hội phụ
nữ xã còn một số hạn chế nhất là công tác xây dựng gia đình " No ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ".
- Hoạt động phong trào chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới phong trào chưa phát triển đồng đều.
- Một số bộ phận phụ nữ chậm tiến vi phạm chính sách dân số còn sinh
con thứ 3, chưa chấp hành luật hôn nhân và gia đình.
- Tình trạng thanh niên có hành vi vi phạm pháp luật chưa được ngăn
chặn và giáo dục kịp thời, vai trò của Hội phụ nữ ở một số tổ trong việc giáo
dục con cái còn coi nhẹ, gây bức xúc trong tình hình an ninh của xã như còn
tụ tập ở các quán điện tử, cầm xe, bỏ học
- Hoạt động dạy nghề chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của chị
em, hoạt động của tổ phụ nữ tín dụng tiết kiệm còn lúng túng trong việc điều
hành, do trình độ của cán bộ hội còn thấp.
24
- Tình trạng lao động dư thừa đặc biệt là lao động nữ nên chị em phải
đi làm ăn xa ở các tỉnh ngoài.
- Cán bộ hội chưa lồng ghép cộng tác viên dân số nên ảnh hưởng đến
việc tuyên truyền dân số - KHHGĐ
- Cán bộ hội từ BCH đến các chi tổ chưa đều tay, năng lực và lòng
nhiệt tình còn hạn chế , nên chưa tự tin trong khi triển khai. Nhiệm vụ của
BCH xuống hội viên còn lúng túng nên chưa thu hút được hội viên trẻ tham
gia sinh hoạt.
* Nguyên nhân
Những vấn đề tồn tại hạn chế trên do nhiều nguyên nhân nhưng tập
trung vào những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Đội ngũ cán bộ chi tổ thiếu nhiệt tình và nặng về làm kinh tế, chưa

thực sự nhiệt tình với công tác hội.
- Chế độ phụ cấp cho cán bộ hội từ BCH đến chi tổ chưa có, Đảng,
chính quyền cơ sở chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc phát triển kinh
tế gia đình, công việc giáo dục gia đình, cung cấp kiến thức làm cha, mẹ trước
và trong hôn nhân , vấn đề bình đẳng nam nữ chưa được chú trọng một cách
toàn diện.
- Kinh phí hoạt động giành cho công tác tuyên truyền về xây dựng gia
đình theo 4 chuẩm mực còn khó khăn, song tài liệu còn thiếu, mục tiêu 4
chuẩn mực của Trung ương Hội đặt ra còn cao. Sự phối kết hợp với các ban
ngành đàon thể chưa đồng bộ, nên hiệu quả chưa cao.
- Nhận thức của người phụ nữ không đồng đều, một số chị em chưa
thực sự phấn đấu vươn lên, chưa mạnh dạn vượt lên mức cản trở của gia đình,
ngại phấn đấu trong học tập và công tác cũng như tham gia công tác hội, một
số thì họ chưa nắm vững chính sách, pháp luật bị lôi kéo tham gia vào các tệ
nạn xã hội gây mất trật tự, ổn định chính trị củ địa phương. Ngoài ra cũng do
25

×