Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Vai trò của nhân tố chính trị trong đời sống xã hội được tổ chức thành nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.82 KB, 11 trang )

Vấn đề 1: Chính trị ? Vai trò của nhân tố chính trị trong đời sống xã hội
được tổ chức thành nhà nước?
Khi nghiên cứu xã hội thì chúng ta nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
bốn lĩnh vực cơ bản, đó là chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Mỗi một lĩnh vực đều
có tính độc lập tương đối và nhiệm vụ nghiên cứu là của từng khoa học chuyên
ngành. Chính trị là một lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhưng đó là xã hội có giai
cấp, có nhà nước. Biểu hiện của chính trị ở một phạm vi rộng, nó không chỉ ở trong
đời sống chính trị, mà nó còn biểu hiện ở các nhân tố khác của đời sống xã hội. Vì
vậy chính trị mang tính đa dạng và phong phú. Quan điểm của chính trị học Mác Lê
nin cho rằng: chính trị là mối quan hệ giữa các dân tộc, giai cấp, quốc gia, đảng
phái trong vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước; là những mục tiêu,
những phương hướng cơ bản được quy định bởi lợi ích của các giai cấp, đảng phái;
là toàn bộ những hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước
nhằm tìm kiếm những khả năng để thực hiện đường lối và những mục tiêu đặt ra.
Xét trên hai phương diện cơ bản thì cấu trúc chính trị với tư cách là những quan
hệ xã hội đặc biệt, các quan hệ xã hội đều liên quan đến nhà nước. Với tư cách là
quan hệ giữa các chủ thể chính trị có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực
nhà nước thì chính trị chỉ xuất hiện trong tổ chức xã hội có nhà nước. Trên phương
diện này chính trị bao gồm quan hệ giữa các giai cấp, giữa các đảng phái chính trị,
quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia, quan hệ giữa các quốc gia với nhau,
quan hệ giữa công dân với nhà nước.
Còn với tư cách là một hoạt động xã hội đặc biệt thì đó là những hoạt động của
các nhóm xã hội cùng theo đuổi những mục tiêu có liên quan đến việc giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước hay gây áp lực với quyền lực nhà nước.
Trên phương diện này cấu trúc chính trị bao gồm: những mục tiêu của các lực
lượng chính trị, mà những mục tiêu này phải phản ánh được những nhu cầu, lợi ích
chính trị của các lực lượng đó, hay đó là phương tiện, phương thức, cách thức mà các
chủ thể chính trị lựa chọn để sử dụng và thực hiện trong các hoạt động chính trị của
mình, các lực lượng chính trị gồm những lực lượng cơ bản và chủ yếu như giai cấp
1
công nhân, nhân dân lao động, dân tộc, các lực lượng tiến bộ xã hội, các lực lượng


đồng minh, các lực lượng đối kháng và các lực lượng này phản ánh sự tương quan,
so sánh lực lượng để có đối sách chính trị của một đảng cầm quyền; những động lực
kích thích và hoạt động định hướng chính trị của các chủ thể chính trị, toàn bộ
những hoạt động chính trị thực tiễn của các chủ thể chính trị, đặc biệt là của nhà
nước nhằm hiện thực hoá các quy luật khách quan và để phục vụ cho lợi ích của giai
cấp, của đảng phái hay của nhóm xã hội nào đó, từng hoạt động đều có mục tiêu cụ
thể, nó cũng có những phương tiện, cách thức cụ thể, có con người chính trị cụ thể
đó là đội ngũ lãnh đạo, lực lượng quần chúng, muốn điều chỉnh các hoạt động thực
tiễn thì cần phải có tính tổ chức, các thể chế chính trị như đảng cầm quyền, nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội mà toàn bộ hoạt động chính trị thực tiễn có yếu tố nền tảng
là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng HCM, là ý thức chính trị, chịu sự chế định, dẫn
dắt của ý thức chính trị.
Chủ nghĩa Mác Lênin coi kinh tế là toàn bộ những mối quan hệ kinh tế liên
quan đến lợi ích của những người tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chật
dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, làm cơ sở cho một chế độ
chính trị-xã hội nhất định.
Mối quan hệ cơ bản nhất, quyết định nhất, đó là mối quan hệ giữa chính trị với
kinh tế, nó quyết định đến sự vận động và phát triển của bản thân chính trị, kinh tế,
văn hoá và xã hội, được các nhà kinh điển Mácxít xem xét trên quan điểm duy vật
lịch sử thông qua phân tích mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng
và nó được phản ánh rõ nét qua các phương diện:
+ Một là, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, điều này khẳng định kinh
tế mang tính thứ nhất, chính trị mang tính thứ hai. Xét đến cùng thì kinh tế là yếu tố
quyết định đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị và nó phải dựa trên
cơ sở đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế. Và xét đến cùng chính trị không
phải là mục đích mà là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Điều lưu ý ở đây
là sự phản ánh của chính trị đối với kinh tế không phải là sự phản ánh có tính chất
2
vật lý đơn thuần và cũng không phản ánh những nhu cầu, lợi ích mang tính chất cá
nhân mà nó chỉ phản ánh những nhu cầu lợi ích kinh tế có tính cộng đồng.

+ Trong khi khẳng định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị thì mặt
khác tuyệt nhiên cũng không nên phủ định vị trí độc lập tương đối của chính trị đối
với kinh tế. Mặc dù là cái phái sinh từ kinh tế, nhưng chính trị đến lượt nó bao giừo
cũng có sự tác động trở lại kinh tế nói riêng và các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội. Chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế. Điều này thể hiện
chính trị trước hết phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính trị đã đạt được
nhằm duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Chính trị có thể tạo ra những nhân tố,
những hình thức và những điều kiện những tác động vào kinh tế, định hướng phát
triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định.
Tác động ngược lại của chính trị, của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội như thế nào là tuỳ thuộc ở nhận thức chủ quan và có khả năng huy động
các nguồn lực chính trị trong quan hệ với những yêu cầu phát triển kinh tế khách
quan. Nếu tác động theo cùng hướng đồng thuận, cùng chiều với tất yếu phát triển
kinh tế thì sẽ làm cho kinh tế phát triển nhanh hơn; nếu tác động ngược lại sẽ kìm
hãm sự phát triển của kinh tế, hoặc tác động đó làm cản trở một vài xu hướng nào đó
của nền kinh tế và quy định những xu hướng phát triển khác.
Vì lẽ đó, trong xã hội hiện đại – nhân tố chính trị, hệ thống chính trị ở mỗi quốc
gia có vai trò then chốt trong việc định hướng quá trình phát triển xã hội cũng như
qui định nhịp điệu, bước đi cho cả quốc gia dân tộc trong việc chủ động hướng tới
các mục tiêu đã vạch ra.
Xét về phương diện kinh tế, lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự thay thế của
những PTSX khác nhau, với nhiều mô hình, cách thức khác nhau. Chính trong sự
vận động phát triển đó của kinh tế, từ khi Nhà nước – chính trị xuất hiện, vai trò của
các nhân tố đó được thể hiện rõ trong việc đưa ra, lực chọn các mục tiêu, mô hình,
giải pháp; các trình tự pháp lý và các chính sách cho sự phát triển của các quá trình
kinh tế. Chúng ta có thể khẳng định, ngày nay ở mọi quốc gia, dân tộc, hoạt động của
3
hệ thống chính trị ( trong đó Nhà nước là trung tâm ) là nhân tố căn bản tạo lập môi
trường, điều kiện cho KT3 thực hiện rộng khắp, mọi lúc,…
Mặt khác, trong lịch sử phát triển của lịch sử loài người, nhân dân lao động đã

từng bị áp bức bởi các giai cấp thống trị. Họ cũng là nạn nhân bị tước đoạt mọi
quyền tự nhiên bởi Nhà nước của một thiểu số người nắm giữ. Bằng cuộc đấu tranh
lâu dài, những cuộc cách mạng xã hội, các tầng lớp bên dưới đã thực sự chứng tỏ sức
mạnh của mình trong việc thúc đẩy sự ra đời và hoàn thiện của những thể chế chính
trị theo hướng ngày càng hợp lý hơn, dân chủ hơn. Chính thông qua con đường đấu
tranh cách mạng ấy, con người nói chung, nhân dân lao động nói riêng đã giành được
những thành quả có ý nghĩa về mặt pháp quyền, về dân chủ, về quyền con người,
quyền công dân, quyền của các cộng đồng người, đặc biệt là cộng đồng dân tộc được
sống trong tự do – bình đẳng – bác ái.
Mỗi bước tiến của chính trị, của dân chủ do vậy trở thành một nội dung, một bộ
phận hợp thành, một điều kiện then chốt bảo đảm tạo lập - kiến tạo nên một xã hội
văn minh, tiến bộ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng ở đâu, lúc nào có được nền
chính trị hợp lý, nền chính trị hợp lòng dân, thực sự của dân, do dân, vì dân thì ở đó,
lúc đó xã hội sẽ ổn định, phồn thịnh và ngược lại.
Để nhân tố chính trị tác động tích cực đối với đời sống XH thì nó phụ thuộc vào
bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền, nó chi phối tính chất, trạng thái của chính
trị. Nếu giai cấp cầm quyền là giai cấp đang lên, lợi ích giai cấp cầm quyền đang phù
hợp với quảng đại quần chúng thì nó sẽ có vai trò tích cực đối với đời sống XH;
ngược lại nếu lợi ích giai cấp cầm quyền đối lập với quảng đại quần chúng nhân dân
thì tất yếu nó có vai trò tiêu cực đối với đời sống XH.
Ở nước ta hiện nay, xét về cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị bao gồm Ðảng
cộng sản Việt Nam, nhà nước CHXHCNVN, các tổ chức chính trị - xã hội của nhân
dân (Mặt trận, Công đoàn, Ðoàn Thanh niên, Hội nông dân, Hội CCB ). Xét về
chức năng hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế hợp lý nhằm bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân.
4
Trong hệ thống đó Ðảng CSVN là một bộ phận trong hệ thống chính trị và
lãnh đạo hệ thống chính trị trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để đề ra cương lĩnh , đường lối, chủ trương, chiến lược sách lược; tổng kết lý
luận và thực tiễn; đào tạo đội ngũ cán bộ cho hệ thống chính trị. Nhà nước

CHXHCNVN là cơ quan nắm và thực thi quyền lực của nhân dân; được nhân dân uỷ
quyền, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý mọi mặt hoạt
động của xã hội bằng hệ thống pháp luật và những thiết chế nhà nước, đặt dưới sự
lãnh đạo của Ðảng CSVN và sự bảo vệ, giám sát của nhân dân. Các tổ chức chính trị
- xã hội đại diện cho các tầng lớp nhân dân, là khâu trung gian nối liền Ðảng CSVN,
nhà nước CHXHCNVN với quần chúng nhân dân, là công cụ để qua đó nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình.
Từ đại hội Ðảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, hệ thống chính trị ở nước ta đã
có những bước tiến quan trọng trên nhiều phương diện, cụ thể là: Ðảng ta không
ngừng được củng cố về chính trị, tư tưởng và tổ chức; vai trò lãnh đạo của Ðảng
trong xã hội được tăng cường, đường lối đổi mới ngày càng được hoàn thiện. Nhờ
vậy, con đường đi lên CNXH ngày càng rõ hơn. Trong bối cảnh quốc tế diễn biến
phức tạp và khó lường, tình hình trong nước có nhiều khó khăn, Ðảng ta đã sáng suốt
chủ trương vừa tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách, vừa giữ vững
ổn định chính sách củng cố an ninh quốc phòng, thi hành chính sách đối ngoại rộng
mở.
Chúng ta cũng đã tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, tiếp tục
xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền XHCN, việc quản lý nhà nước bằng pháp
luật và theo pháp luật từng bước được xác lập và hoàn thiện. Các cơ chế và chính
sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở được xây dựng và
thực hiện. Nhìn chung các bộ phận chủ yếu từ lập pháp, hành pháp và tư pháp đều
được điều chỉnh một bước đáng kể; chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng cao rõ
rệt, góp phần quan trọng hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
5
tiêu cực, giải phóng các năng lực sản xuất, huy động khả năng tiềm tàng của đất
nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân đã từng bước đổi mới về
nội dung và phương thức hoạt động, khắc phục được tình trạng quá nhấn mạnh chức
năng chính trị mà xem nhẹ chức năng xã hội, đã xem việc bảo vệ, thoả mãn những

nhu cầu lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức mình là một chức năng
cực kỳ quan trọng. Nhờ vậy, các hội, đoàn thể quần chúng ngày càng có sinh khí
hơn, hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Trình độ dân trí, ý thức về văn hoá và
chính trị của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Những thành tựu trên chứng tỏ Ðảng ta có đủ bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, phát
huy sức mạnh và hiệu lực của nhà nước và công tác chính trị - xã hội. Trong việc tổ
chức, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng vì lợi ích của nhân
dân, vì sự phồn vinh của đất nước, Đảng là chỗ dựa quan trọng nhất để nhân dân
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng cần thấy hệ thống chính trị
ở nước ta cũng còn tồn tại không ít điểm yếu đó là: Nhiều vấn đề thuộc về lý luận
chưa được làm sáng tỏ nhất là lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN, lý
luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN , đường lối, chiến lược của Ðảng có
những mặt chưa bắt kịp thực tiễn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, Ðảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh
giác, giảm sút ý chí, kém hình thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống, hách
dịch, cửa quyền, tham nhũng, mất đoàn kết, không gần gũi nhân dân ( từ Đại hội IX
đến 2/2004, cả nước có 45000 đảng viên bị kỷ luật, trong đó 27,4% cấp uỷ viên,
13,9% đảng viên bị khai trừ đảng; kỷ luật 650 tổ chức đảng ). Điển hình như ở
Công ty Dệt Nam Ðịnh trong số 14 bị cáo lĩnh án tù chung thân có 12 đảng viên. Vụ
án Epco -Minh Phụng có 10 đảng viên lĩnh án tù từ 20 năm đến chung thân. Vụ án
ma tuý Vũ Xuân Trường có 8 đảng viên trong số 22 bị cáo và có 3 án tu hình, 2 án
chung thân. Vụ án Tân Trường Sanh có 39 đảng viên trong số 74 bị cáo và có 1 tu
6
hình, 4 chung thân. Vụ án buôn lậu ở Long An có 7/15 bị cáo là đảng viên. Vụ án
phá rừng Tánh linh có 18/35 bị cáo là đảng viên…
Việc xây dựng luật tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn thiếu kịp thời so với
yêu cầu của thực tiễn, hoạt động giám sát của cơ quan lập pháp chưa thật sự có hiệu
quả. Việc cải cách hành chính còn nhiều hạn chế, còn dừng lại ở điểm chưa nhận ra
diện (mới có 4/22 Bộ và 36/61 tỉnh, thành thực hiện cải cách hành chính) công tác bổ

trợ tư pháp còn nhiều hạn chế, bất cập. Bộ máy nhà nước chưa thật sự trong sạch
vững mạnh, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu chưa được ngăn chặn, hiệu
lực quản lý, điều hành chưa nghiêm, kỷ cương xã hội còn buông lỏng. Quản lý nhà
nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới. Tổ chức bộ máy nhà nước còn
nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 3
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về chức năng nhiệm
vụ, mối quan hệ phân cấp Trung ương - địa phương còn một số mặt chưa cụ thể. Ðội
ngũ cán bộ công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và tinh thần trách
nhiệm phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của nhiều tổ chức chính trị - xã
hội vẫn chưa thoát khỏi hẳn tình trạng quan liêu; cán bộ của nhiều đoàn thể chính trị
xã hội vẫn trong tình trạng “viên chức hoá”, sự gắn bó của đoàn viên, hội viên với tổ
chức của mình chưa cao, trình độ văn hoá, pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế,
đã làm ảnh hưởng lớn đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật
nhanh, nhạy và có hiệu quả cao.
Từ thực trạng nói trên, vấn đề tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát
huy vai trò các nhân tố chính trị, khắc phục những hạn chế, yếu kém đã trở thành đòi
hỏi bức thiết để hệ thống chính trị nói chung, nhà nước ta nói riêng. Trước hết chúng
ta cần khẳng định rằng mục tiêu của việc đổi mới hệ thống chính trị là nhằm không
ngừng giữ vững ổn định chính trị để đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển đất nước
trong thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển”. Trong quá trình tiến hành đổi mới hệ thống chính trị chúng ta cần đảm bảo
7
nguyên tắc đó là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, nâng cao
khả năng tổ chức và hiệu quả quản lý điều hành của nhà nước, đồng thời không
ngừng phát huy vai trò tích cực của các tổ chức chính trị-xã hội, thực hiện tốt vai trò
làm cầu nối giữa Ðảng, nhà nước với quần chúng nhân dân.
Trên cơ sở mục tiêu và nguyên tắc đó việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị
cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

*Ðối với Ðảng CSVN: Trước hết cần tập trung trí tuệ hoá toàn Ðảng, làm cho
Ðảng thực sự là người lãnh đạo toàn diện mọi mặt đời sống xã hội. Muốn vậy trong
công tác phát triển Ðảng cần phải tuyển chọn những quần chúng thật sự ưu tú, tiêu
biểu về đạo đức lẫn tài năng. Mặt khác, phải không ngừng đào tạo bồi dưỡng nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Ðảng viên, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đào tạo và
đào tạo lại, đề cao vai trò tự học, tự đào tạo, xem việc học tập nâng cao trình độ mọi
mặt là việc làm thường xuyên, liên tục, không có điểm dừng như Lê nin đã nói “Học,
học nữa, học mãi”. Tiếp tục cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn, làm cho Ðảng ta
mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Ðảng phải đề ra được chủ trương, đường lối
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ cách mạng, đồng thời
lãnh đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra. Muốn vậy Ðảng phải đổi mới sinh
hoạt Ðảng theo hướng dân chủ. Những vấn đề đã trở nên lỗi thời, lạc hậu không còn
phù hợp nữa thì cần phải nhanh chóng sửa đổi, thay thế. Ðể đảm bảo cho nền dân
chủ XHCN trước hết cần phải đảm bảo sự dân chủ trong Ðảng. Quá trình chỉnh đốn
Ðảng phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên quyết chống mọi biểu hiện vi
phạm quyền dân chủ, dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích
riêng, cục bộ, bản vị, làm suy yếu sức mạnh của tổ chức Ðảng. Dân chủ trước hết cần
được thể hiện trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách pháp luật
và trong công tác cán bộ, trên cơ sở tập hợp được trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
Ðảng phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân của mình, củng cố mối
quan hệ gắn bó mật thiết giữa Ðảng với nhà nước và nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương
8
của Ðảng, đồng thời không ngừng chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất cao
trong Ðảng, có như vậy Ðảng mới thật sự vững mạnh để lãnh đạo toàn diện đất nước.
*Ðối với nhà nước: Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả
quản lý của nhà nước. Trước hết là đổi mới hoạt động của Quốc hội bằng cách tập
trung vào hai lĩnh vực chủ yếu là hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát. Từng
bước xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật đảm bảo tính quản lý cho
việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan này. Liên quan đến vấn đề này cần: xây

dựng chương trình hợp pháp, phát huy quy trình dự án luật của đoàn thể nhân dân;
nâng cao kiến thức lập pháp của đại biểu Quốc hội; nâng cao trình độ, năng lực thẩm
tra các dự án án luật của hội đồng dân tộc, các Uỷ ban Quốc hội; xác định rõ hơn
quyền lập pháp và lập quy Ðể nâng cao chất lượng và hiệu quả trên lĩnh vực này
cần tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, lấy ý kiến nhân dân nhất là
các đối tượng có liên quan đến việc thi hành luật.
Thực hiện cải cách hành chính một cách cơ bản, trong đó có thủ tục hành
chính, cải cách bộ máy nhà nước, công chức, thể chế và tổ chức kiện, ngăn chặn tệ
quan liêu, tham nhũng, hối lộ Muốn vậy cần phải hoàn thiện thể chế quản lý bằng
pháp luật, đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, giảm tối đa cơ chế xin phép -
cho phép, chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy hành
chính các cấp, xác định rõ vị trí, vai trò từng cấp chính quyền; kiện toàn bộ máy
chính quyền cơ sở, xây dựng đội ngũ công chức có chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ
cao, giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, công tâm và tận tuỵ với công
việc. Ðối với các cơ quan tư pháp , kỷ cương xã hội, lợi ích chính đáng của các tổ
chức và công dân. Ðặc biệt cần đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, làm cho hiến pháp và pháp luật thực sự đi vào cuộc sống của nhân
dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý điều hành toàn diện các lĩnh vực của
chính phủ trên cơ sở luật đã được xác định.
*Ðối với các tổ chức chính trị - xã hội:
Nâng cao trình độ văn hoá chính trị XHCN cho các tầng lớp nhân dân. Xây
dựng và hoàn thiện nền chính trị dân chủ XHCN đòi hỏi công dân phải có được các
9
tố chất dân chủ tương ứng, đồng thời nhờ đó mà tạo lập được bầu không khí văn hoá
chính trị dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khắc phục cho được căn
bệnh hành chính và quan liệu hoá. Không ngừng đổi mới hình thức và phương pháp
hoạt động để thu hút, đoàn kết tập hợp đông đảo quần chúng vào tham gia hoạt động
trong các tổ chức chính trị - xã hội nhằm phát huy trí tuệ và sự đóng góp của nhân
dân vào phát triển đất nước. Xoá bỏ mọi định kiến, mọi mặc cảm, lấy sự tương đồng
vì lợi ích của sự phát triển đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng , dân chủ, văn minh” làm trọng. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ cho
các tổ chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ mới. Tập trung về cơ
sở, hướng về cơ sở, phát triển tổ chức, tăng cường sinh hoạt cơ sở để nhân sức mạnh
to lớn của nhân dân trên nền tảng của cơ chế dân chủ cơ sở. Trong đổi mới phải gắn
nội dung chính trị với các hoạt động kinh tế xã hội của các đoàn thể, quan tâm nhiều
hơn đến việc chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên để tạo động
lực thúc đẩy sức mạnh của nhân dân. Mặt khác cần hoàn thiện các bộ luật để vừa
tăng cường quản lý về mặt nhà nước đối với các tổ chức này, vừa phát huy được sức
mạnh của các tổ chức. Bên cạnh những nội dung trên Ðảng, chính phủ cần có chính
sách quan tâm chăm lo lợi ích đối với những người công tác trong các tổ chức chính
trị - xã hội để động viên khuyến khích họ an tâm công tác, đem hết tâm trí của mình
phục vụ sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Không ngừng mở rộng sự giám sát dân chủ của quần chúng nhân dân đối với
mọi tổ chức, mọi cá nhân đang làm việc trong bộ máy quyền lực. Giám sát dân chủ
phải được xem là cách thức để duy trì chế độ dân chủ, uốn nắn sự lệch lạc, giữ gìn
cân bằng, thực hiện kết hợp sự dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp theo hướng mở
rộng các hình thức dân chủ trực tiêp. “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
tăng cường pháp chế” là con đường, cách thức và cũng là nguyên tắc để hoàn thiện
nền chính trị XHCN. Phát huy dân chủ ở cơ sở để dân chủ XHCN trở thành hiện
thực sinh động, rộng lớn. cơ sở chính là địa bàn cần quan tâm nhất để thực hiện tận
gốc, toàn diện nội dung dân chủ XHCN. Ðể phát huy dân chủ XHCN, việc đổi mới
10
hệ thống chính trị không chỉ dừng ở việc đổi mới từng yếu tố cấu thành, mà còn đòi
hỏi phải đổi mới mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó./.
11

×