LI NểI U
Qun Cu Giy l ca ngừ phớa tõy ca th ụ H Ni l a bn cú tc
ụ th hoỏ phỏt trin nhanh. Nhu cu v nh ca nhõn dõn cp thit, mt khỏc
dõn cỏc tnh, thnh ph khỏc v tp trung sinh sng nhiu, trong khi ú qu t cú
hn. Giỏ t cao rt nhiu ln so vi cỏc a bn khỏc, giỏ t Cu Giy cao hn
rt nhiu so vi cỏc a bn cỏc qun khỏc. phc v cho quỏ trỡnh ụ th hoỏ v
phỏt trin ca a phng, qun ó trin khai thc hin cụng tỏc gii phúng mt
bng c 368 d ỏn vi din tớch thu hi 2.589 ha. Mc dự s lng cỏc d ỏn
nhiu, din tớch t thu hi ln, song vi tinh thn quyt tõm ca ng b, chớnh
quyn v cỏc on th qun chỳng cựng s ng h ca nhõn dõn ni cú t thu
hi, nờn hu ht cỏc d ỏn c giao, qun u hon thnh bn giao mt bng
ỳng tin . Hn ch vic khiu ni t cỏo ca cụng dõn, an ninh trờn a bn
c gi vng.
Trong nhng nm tip theo (2010-2015), cựng vi c im tỡnh hỡnh
chung ca c nc v Th ụ, qun Cu Giy Phng Dch Vng ó chuyn
phn ln t nụng nghip sang t xõy dng c bn. Thc tin ny ũi hi cụng
tỏc qun lý nh nc trong lnh vc ny cn phi xỏc nh l nhim v quan
trng v thng xuyờn; phi m bo thc hin ỳng chớnh sỏch phỏp lut ca
Nh nc, hn ch khiu ni t cỏo phc tp, gi gỡn an ninh trờn a bn.
Tuy nhiờn, cụng tỏc gii phúng mt bng do nhiu nguyờn nhõn nờn luụn
l vn phc tp, vic trin khai thc hin thng gp khụng ớt khú khn. Xin
nờu mt thc tin khú trỏnh khi l một số nơi có những chủ trơng hoặc việc làm
sai lầm làm cho nhân dân hiểu rằng Nhà nớc có chủ trơng trả lại đất cũ, trả lại đất
ông cha. Việc Nhà nớc luôn tách, nhập hoặc thành lập các đơn vị hành chính mới,
việc xác định địa giới không làm kịp thời hoặc không rõ ràng, làm cho tình hình
tranh chấp đất đai phức tạp thêm. Trong quá trình đô thị hóa do nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, việc giải phóng mặt bằng ( GPMB ) thu hồi đất để xây dựng cơ sở
hạ tầng diễn ra ở khắp nơi dẫn đến phát sinh khiếu kiện về đền bù cha đúng chính
sách, không đúng đối tợng, thiếu dân chủ công khai, giá đền bù thấp, không nhất
quán,. . .vỡ vy, cụng tỏc gii phúng mt bng phc v cỏc d ỏn khụng ch trờn
a bn qun Cu Giy m nhiu a bn khỏc vn tn ti thc trng l khụng
2
đảm bảo tiến độ về mặt thời gian so với kế hoạch thực hiện đã đề ra của mỗi dự
án.
Với vốn kiến thức đã được học, bản thân tôi đã lựa chọn nội dung: “Giải
quyết tình huống trong quản lý nhà nước về công tác giải phóng mặt bằng ở
phường Dịch Vọng - quận Cầu Giấy” để làm tiểu luận tốt nghiệp lớp bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên; mặc dù đã cố gắng
rất nhiều, nhưng vì điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn
chế, do vậy nội dung giải quyết tình huống chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết,
vì vậy rất mong được sự tham gia góp ý và sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo để
tiểu luận tình huống của tôi được hoàn chỉnh hơn, giúp cho tôi thực hiện tốt
nhiệm vụ trên cương vị công tác của mình.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo đã giảng dạy, và
tập thể thầy, cô trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn, giúp đỡ trong quá trình học tập
.
Bố cục của Tiểu luận bao gồm những nội dung sau :
Phần I : Lời nói đầu.
Phần II: Nội dung
I. Mô tả tình huống
II. Phân tích tình huống
III. Xử lý tình huống
IV. Xây dựng kế hoạch để tổ chức thực hiện phương án được lựa
chọn
VI. Kết nghị, đề xuất.
Phần III. Kết luận
3
PHẦN II
NỘI DUNG
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời tình huống
Thực hiện Quyết định số: 5672/QĐ-UB ngày 18/10/2004 của UBND
Thành phố Hà Nội về việc thu hồi đất tại phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy
(đoạn Cầu Mai Dịch, đường Hồ Tùng Mậu); Tạm giao cho Ban quản lý dự án
Giao thông đô thị (sở Giao thông công chính) để điều tra, lập phương án giải
phóng mặt bằng chuẩn bị thực hiện dự án mở rộng đường quốc lộ 32 (đoạn Cầu
Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường rộng 50m và
hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch.
Lãnh đạo Quận uỷ, HĐND, UBND quận nhận định dự án mở rộng đường
quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở
đường rộng 50m là công trình không lớn, số hộ dân giải phóng mặt bằng không
nhiều, nhưng lại phục vụ cho một dự án trọng điểm của Quốc gia, do đó đã chỉ
đạo phải kiên trì vận động thuyết phục nhân dân tạo điều kiện thuận lợi trong
giải phóng mặt bằng, giải quyết dứt điểm các vấn đề phát sinh trong quá trình
thực hiện dự án. Giao cho Ban quản lý Dự án quận Cầu Giấy, chính quyền
phường Mai Dịch và các cơ quan, đoàn thể có liên quan tổ chức nhiều cuộc họp
với nhân dân để:
- Thông báo quyết định thu hồi đất của UBND Thành phố Hà Nội và các
hồ sơ pháp lý liên quan;
- Trình bày quá trình thực hiện dự án và mục tiêu sử dụng của dự án;
- Giải thích và trả lời các vấn đề liên quan đến việc thu hồi và phương án
đền bù cho những hộ dân bị thu hồi đất;
Để triển khai thực hiện được các Quyết định nói trên, vấn đề đầu tiên là
giao cho các đơn vị tiến hành tổ chức giải phóng mặt bằng. Muốn tiến hành giải
phóng mặt bằng thì nhiệm vụ trước tiên là phải tổ chức điều tra hiện trạng (đo vẽ
hiện trạng thửa đất, đo vẽ các công trình hiện có; xác định số lượng, chủng loại,
4
mật độ các loại cây trồng, điều tra nhân hộ khẩu…) để làm căn cứ lập phương
án bồi thường cho các hộ đang sử dụng đất bị thu hồi.
Sau khi đã có số liệu đo vẽ xác định hiện trạng, Ban quản lý dự án căn cứ
các Quyết định của UBND Thành phố để lập phương án trình Hội đồng giải
phóng mặt bằng quận xem xét và UBND quận trình Hội đồng thẩm định Thành
phố và Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng Thành phố thống nhất.
UBND quận Cầu Giấy đã ban hành Quyết định số: 2216/QĐ - UB ngày
10/7/2008 về việc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án:
Mở rộng quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ
giới mở đường rộng 50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch, trên
địa bàn phường Mai Dịch. Theo Quyết định này:
- Tổng số diện tích đất bị thu hồi là 8.958 m
2
.
- Tổng giá trị phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng về đất,
công trình, tài sản, cây cối, hoa màu là 2.580.000.000 tỷ đồng.
Trong quá trình thực hiện phương án của Quyết định 2216/QĐ - UB đã
phát sinh khiếu kiện, liên quan đến quyền và lợi ích của người dân, làm ảnh
hưởng đến công tác giải phóng mặt bằng. Khó khăn lớn nhất trong quá trình giải
phóng mặt bằng của Dự án là phải làm sao để vừa đảm bảo được quyền lợi của
người dân bị thu hồi đất, vừa đảm bảo quyền lợi của Nhà nước, của xã hội, tiến
độ và hiệu quả thực hiện đúng tiến độ của Dự án.
2. Diễn biến tình huống
Trên cơ sở phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại Quyết định số:
2216/QĐ - UB ngày 10/7/2008, Ban quản lý dự án quận Cầu Giấy đã tiến hành
thông báo trả tiền và đề nghị các hộ dân đến nhận tiền và bàn giao mặt bằng. Về
cơ bản, các hộ dân thuộc diện bị giải phóng mặt bằng do nắm bắt và hiểu được
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Dự án này nên đã nhiệt tình ủng
hộ. Vì vậy, sau các lần thông báo, đa số các hộ dân đã đến nhận tiền đền bù và
sẵn sàng thực hiện bàn giao mặt bằng theo đúng tiến độ, yêu cầu. Duy có 01 hộ
đã không đến nhận tiền đến bù, chưa bàn giao mặt bằng vì không nhất trí với
phương án đền bù cho gia đình mình nên đã có đơn khiếu nại, làm phát sinh tình
5
huống. Đơn khiếu nại gửi UBND quận Cầu Giấy, Hội đồng bồi thường hỗ trợ tái
định cư quận Cầu Giấy, UBND phường Mai Dịch là của gia đình bà NguyÔn
BÝch Ph¬ng (58 tuổi), thường trú tại số nhà 11, tổ 4, phường Mai Dịch, Cầu
Giấy, Hà Nội.
Bà NguyÔn BÝch Ph¬ng và chồng là ông Trần Văn Khánh trong quá trình
chung sống đã mua tổng diện tích đất là 154m
2
tại địa chỉ số số nhà 11, tổ 4,
phường Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội. Sau năm 1986, gia đình bà Phương đã
nhượng lại cho gia đình ông Cao Văn Mạnh người hàng xóm 52 m
2
. Hiện tại
chỉ còn lại 102 m
2
. Trong đó:
+ Diện tích đất trong chỉ giới GPMB là 62 m
2
+ Diện tích đất còn lại là 40 m
2
Năm 2002 bà Phương, ông Khánh ly hôn theo Quyết định của Toà án
nhân dân quận Cầu Giấy. Riêng phần tài sản do 2 bên tự thoả thuận (Không yêu
cầu Toà án giải quyết) là:
- Bà Phương lấy 3,9m mặt phố, tổng diện tích là: 58 m
2
- Ông Khánh lấy 3,5m mặt phố, tổng diện tích là: 44 m
2
Biên bản kiểm tra của Hội đồng giải phóng mặt bằng quận Cầu Giấy, bà
Phương đã kê tách biệt hai hộ sử dụng đất ngày 10/9/2005.
Năm 2008, UBND quận Cầu Giấu đã duyệt phương án đền bù số:
29B/3/PA-BT-HT-TĐC. Gia đình bà Phương chưa nhất trí với phương án vì:
- Mới chỉ bồi thường 22 m2 đất ở, hiện còn thiếu 36 m
2
- Tiền bồi thường hỗ trợ công trình còn thiếu.
- Đề nghị tách rời hai phương án chủ hộ đang sử dụng đất là bà NguyÔn
BÝch Ph¬ng và ông Trần Văn Khánh theo bảng kê khai ngày 10/9/2005 và xin
được cấp hai suất tái định cư.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
1.Cơ sở pháp lý
1.1. Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Dân sự năm 2005 về phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn;
6
- Luật Đất đai năm 2003 quy định việc thu hồi đất và bồi thường khi thu
hồi đất: “Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người sử dụng đất có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì được
bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11
và 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ khoản 1 Điều 43 Luật đất đai 2003”.
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện một số
điều của Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
- Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3-12-2004 của Chính phủ về bồi
thường thiệt hại, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
- Quyết định 72/2001/QĐ-UB ngày 17-9-2001 của UBND Thành phố Hà
Nội quy định về trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện công tác bồi thường thiệt hại,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Quyết định số 100/QĐ-UB ngày 21/8/ 2003 của UBND Thành phố Hà
Nội về việc điều chỉnh bổ sung một số điều tại quyết định số 72/2001/QĐ-UB
ngày 17-9-2001 của UBND Thành phố Hà Nội.
- Quyết định số 18/2008/QĐ ngày 29/9/2008 UBND của UBND Thành
phố Hà Nội ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn
thành phố Hà Nội và thay Quyết định 26/2005/QĐ-UB.
- Quyết định số 199/2004/NĐ-CP ngày 29-12-2004 của UBND thành phố
Hà Nội về việc ban hành giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
- Quyết định số 62/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của UBND Thành
phố Hà Nội, về việc ban hành giá các loại đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm
2009.
1.2. Căn cứ văn bản thực tiễn của Dự án:
- Quyết định 6192/QĐ-UB ngày 17/10/2003 của UBND Thành phố Hà
Nội về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung dự án đầu tư nâng cấp quốc lộ 32
7
(đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường rộng
50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch;
- Quyết định số 1102/QĐ-UB ngày 21/10/2005 của UBND quận Cầu
Giấy về việc kiện toàn Hội đồng giải phóng mặt bằng Dự án mở rộng đường
quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở
đường rộng 50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch;
- Quyết định 2216/QĐ - UB ngày 10/7/2008 của UBND quận Cầu Giấy
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án mở rộng
đường quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ
giới mở đường rộng 50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch;
- Quyết định số 6055/QĐ-UB ngày 09/5/2009, UBND quận Cầu Giấy về
việc Điều chỉnh Quyết định số: 2216/QĐ - UB ngày 10/7/2008 của UBND quận
Cầu Giấy tại Dự án: Mở rộng quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa
trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường rộng 50m và hệ thống đường vòng
tránh cầu vượt Mai Dịch;
- Báo cáo số 422/BC-TNMT ngày 15/6/2009 về việc kiểm tra, thẩm định
xác nhận nguồn gốc đất đai tại phường Mai Dịch, Cầu giấy;
- Báo cáo số 75/BC-QLĐT ngày 10/7/2009 về việc thẩm tra, xác nhận
phần công trình còn lại của bà Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn Khánh;
- Biên bản kiểm tra tình hình sử dụng đất và hiện trạng tài sản trên đất
trong phạm vi cần di chuyển giải phóng mặt bằng thực hiện dự án mở rộng quốc
lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở
đường rộng 50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch; do Tổ Công
tác giải phóng mặt bằng quận Cầu Giây lập ngày 10/9/2005.
- Biên bản phúc tra tình hình sử dụng đất và hiện trạng tài sản trên đất
trong phạm vi cần di chuyển giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án mở rộng
quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở
đường rộng 50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch, ngày
09/10/2009.
8
- Phiếu xác nhận nhân khẩu của Công an phường Mai Dịch ký ngày
25/2/2007;
- Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 65/QĐTTLH của Toà án
nhân dân quận Cầu Giấy ngày 15/11/2002;
- Đơn khiếu nại của bà Nguyễn Bích Phương ngày 09/2/2009 và
25/10/2009.
- Giấy thoả thuận chia nhà của bà Phương, ông Khánh (tự lập, có người
làm chứng nhưng không có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền).
2. Nguyên nhân:
2.1. Nguyên nhân khách quan:
Nước ta, trong đó có thủ đô Hà Nội nói chung và Quận Cầu Giấy nói riêng,
đã trải qua rất nhiều biến động về đất đai.
Qua mỗi thời kỳ chúng ta lại thực hiện chính sách khác nhau. Ngày nay,
bước sang nền kinh tế thị trường, Hà Nội đang trên đà phát triển kinh tế, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện. Hà Nội thu hút rất nhiều dân cư đèn sinh sống,
do vậy đây là thành phố có mật độ dân cư lớn dẫn đến thực tế khan hiếm đất đai.
Đặc biệt tại quận Cầu Giấy là nơi tập trung nhiều trường đại học lớn - nơi đang đô
thị hoá nhanh thì quan hệ đất đai diễn ra hết sức phức tạp. Khi quan hệ đất đai đi
vào cơ chế thị trường sẽ có rất nhiều tình huống quan hệ kinh tế có thể nảy sinh cần
phải được chế định về mặt pháp lý để có cơ sở giải quyết. Đồng thời khi chuyển
sang cơ chế mới, khiếu, kiện về quyền sử dụng đất đai khi thu hồi giải phóng mặt
bằng cũng có nội dung và tính chất khác biệt với các chủ thể sử dụng đất (nhất là
các hộ ở nông thôn cũng như ở thành thị) được cấp sử dụng, ổn định, lâu dài.
Chính sách đất đai thay đổi nhiều lần theo xu hướng ngày càng mở rộng
quyền và lợi ích cho người sử dụng đất, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thường xuyên và không kiểm soát được gây khó khăn cho công việc giải phóng
mặt bằng. Nhiều dự án kéo dài nhiều năm và phải áp dụng các mức giá khác
nhau gây khiếu kiện. Thậm chí chính sách còn nhiều mâu thuẫn, bất cập, khó
thực hiện và chưa có chính sách chung cho các chủ dự án hỗ trợ xây dựng hạ
tầng khi thu hồi đất.
Các quy định về trình tự giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai, đặc biệt
trong giải phóng mặt bằng chưa cụ thể, và chưa đảm bảo tính đồng bộ.
9
Các văn bản pháp luật hướng dẫn về áp dụng khung giá tiền đền bù, khi thu
hồi giải phóng mặt bằng chưa phù hợp với giá đất trên thực tế.
2.2. Nguyên nhân chủ quan:
Việc lập, duyệt phương án đền bù còn có những sai sót dẫn tới khiếu kiện.
Khi phát hiện thì việc xử lý thiếu kiên quyết, không dứt điểm, gây khó khăn cho
việc khắc phục sai sót. Thực hiện chưa đúng trình tự thủ tục nên phải bổ sung
điều chỉnh nhiều lần về giá và phương án đền bù.
Trong quá trình đô thị hóa do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, việc giải
phóng mặt bằng ( GPMB ) thu hồi đất để dự án mở rộng quốc lộ 32 (đoạn Cầu
Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường rộng 50m và
hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch, do công tác đền bù chưa đúng
chính sách, không đúng đối tượng, thiếu dân chủ công khai, giá đền bù thấp, không
nhất quán,. . .
Dự án chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư xây dựng khu Tái định cư cho
người dân bị thu hồi đất giải phóng mặt bằng.
Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân còn yếu (do thiếu
hiểu biết kiến thức pháp luật và do tính toán lợi ích cá nhân) không chấp hành các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Giá cá thị trường biến động quá lớn, theo chiều hướng tăng liên tục (chỉ số
giá tiêu dùng CPI năm 2010 tăng trên 11%, bình quân 4 tháng đầu năm 2011 tăng
gần 14%) đặc biệt là nhóm các mặt hàng chiến lược như điện, xăng dầu, sắt thép, xi
măng … làm giá thành xây dựng tăng nhanh trong khi đó giá đền bù nhà cửa, tài
sản vật kiến trúc, cây cối hoa màu xây dựng theo giá trung bình Quý IV/2009 chưa
được điều chỉnh kịp thời dẫn đến việc người dân không đồng thuận.
3. Hậu quả
So với một số trường hợp xảy ra khiếu kiện trong giải phóng mặt bằng và
vấn đề bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng ở nhiều dự án khác thì đây không
phải là tình huống phức tạp. Song tình huống này có tính khá phổ biến do chính
sách tái định cư mang tính đền bù trong giải phóng mặt bằng của nhà nước ta.
10
Đây là một chính sách ưu việt, nhân văn, vì con người nhưng đã bị lợi dụng khá
phố biến, gây ra nhiều khó khăn cho các dự án. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra trong
quản lý nhà nước là phải phát huy tính tích cực, ưu thế của công tác giải phóng
mặt bằng, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, kẽ hở dễ bị lợi dụng gây thất
thoát, thiệt hại cho nhà nước.
Trong tình huống vừa nêu trên đây, có thể thấy các quyết định về mở rộng
đường quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ
giới mở đường rộng 50m của Thành phố Hà Nội là hết sức đúng đắn, thiết thực
nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội không chỉ của riêng địa bàn quận Cầu
Giấu mà còn của cả Thành phố Hà Nội. Dự án mở rộng đường 32(đoạn Cầu
Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường rộng 50m đã
được người dân Cầu giấy mong đợi từ lâu và đa phần đều có ý thức ủng hộ, chấp
hành nghiêm túc. Vì vậy, trường hợp như hộ nhà bà Phương là hết sức cá biệt.
Thường trực Quận uỷ - HĐND - UBND quận cũng phải trực tiếp xuống
làm việc tại phường Mai Dịch nhằm đảm bảo: Các phương án bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng là đầy đủ, đúng chính sách, pháp luật hiện hành. Cụ thể:
Sau khi UBND huyện đã chỉ đạo Hội đồng giải phóng mặt bằng, chủ đầu
tư và UBND quận Cầu Giấy dựa trên cơ sở chính sách hiện hành của UBND
Thành phố; thực hiện đúng các trình tự, công khai các thủ tục pháp lý; tổ chức
họp dân, giải thích, vận động, hướng dẫn kê khai; phát tờ khai theo mẫu đến
người có đất bị thu hồi để thực hiện việc kê khai (đã thực hiện 4 lần họp); phổ
biến đầy đủ các văn bản chính sách liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Các cuộc họp với dân đều được thực hiện công khai, dân chủ, thiện chí.
Các cơ sở pháp lý như Quyết định phê duyệt dự án đầu tư, Quyết định thu
hồi đất, các Quyết định và các chính sách hiện hành của Thành phố, của quận có
liên quan đều được niêm yết tại trụ sở UBND phường Mai Dịch theo đúng quy
định.
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư… đều được xây dựng trên cơ
sở quy định của pháp luật, chính sách của nhà nước và phù hợp với tình hình
thực tiễn của thị trường.
11
Tuy nhiên, việc khiếu kiện của hộ bà Phương vẫn xảy ra là do:
+ Chưa thống nhất với phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
về cách và mức đền bù đối với tài sản của gia đình bà. Cụ thể, bà Phương cho
rằng:
- Tiền bồi thường, hỗ trợ công trình còn thiếu.
- Còn bỏ sót phần tài sản không tính đến bù: Mới chỉ bồi thường 22 m2
đất ở, hiện còn thiếu 36 m
2
.
+ Do chính sách đền bù tái định cư chưa mang lại lợi ích cá nhân lớn cho
người bị thu hồi đất. Vì vậy, bà Phương cho rằng sau khi vợ chồng bà đã ly hôn
theo quyết định của Toà án và trở thành 2 hộ độc lập thì phải được hưởng 2 xuất
đất tái định cư. Trong khi đó theo phương án chỉ được hưởng 1 xuất đền bù tái
định cư.
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của bà Nguyễn Bích Phương, UBND
quận Cầu Giấy đã chỉ đạo sớm giải quyết sự việc để đảm bảo tiến độ của dự án.
Đề nghị Hội đồng bồi thường và hỗ trợ tái định cư, Trung tâm phát triển Quỹ
đất, phòng Tài nguyên và Môi trường quận Cầu Giấy, UBND phường Mai Dịch
phối hợp tổ chức họp với bà Phương để động viên, khuyến khích, giải thích cho
bà Phương hiểu rõ về phương án bồi thường, hỗ trợ, từ đó nhận tiền và bàn giao
mặt bằng. Tuy nhiên, bà Phương đã không nhất trí (Không nhận tiền bồi thường,
hỗ trợ và chưa bàn giao mặt bằng).
Ngày 15/10/2009, Hội đồng bồi thường và hỗ trợ tái định cư quận Cầu
Giấy đã gửi Thông báo số 765/TB-HĐBTHT&TĐC yêu cầu bà Phương phá dỡ
phần công trình trong chỉ giới GPMB và bàn giao mặt bằng đúng chỉ giới cho dự
án. Bà Phương không thực hiện Thông báo này với lý do “Gia đình chưa tháo
giỡ vì chưa có phương án khiếu nại”. Ngày 25/10/2009, bà Phương tiếp tục gửi
đơn khiếu nại lần 2 với nội dung đúng như đơn khiếu nại lần đầu.
Đến thời điểm này, vấn đề đặt ra là UBND quận Cầu Giấy và các cơ quan
chức năng phải nghiên cứu đề xuất các phương án giải quyết, để bảo đảm tiến độ
thi công của Dự án.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
12
1. Mục tiêu giải quyết tình huống.
Mục tiêu giải quyết tình huống là nhằm hướng tới đạt được những kết quả
mà hai bên trong quan hệ tình huống mong muốn thông qua việc thực hiện
những hành động cụ thể của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Tức là,
phải dựa trên các văn bản, chính sách hiện hành của nhà nước để giải quyết tình
huống vừa có tình nhưng phải đúng pháp luật nhằm:
- Đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch, hiệu quả của dự án, của
việc giải phóng mặt bằng và việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư…
- Đảm bảo tiến độ bàn giao mặt bằng đề ra, đáp ứng tiến độ thi công của
công trình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định trước.
- Đảm bảo được quyền và lợi ích của người dân có đất bị thu hồi phục vụ
cho dự án như: tiền bồi thường, nơi tái định cư, điều kiện sinh sống, học tập, lao
động, việc làm…
- Không được để các hộ dân quá bức xúc; giữ vững an ninh, trật tự an
toàn xã hội; đảm bảo quyền khiếu nại tố cáo của công dân nhưng cũng không để
nảy sinh khiếu kiện vượt cấp, lợi dụng dân chủ để chống phá, cản trở, gây khó
khăn cho việc triển khai thực hiện dự án.
- Giải quyết dứt điểm vấn đề lợi ích và mong muốn của người dân trên cơ
sở các quy định của pháp luật và phù hợp với quyền, lợi ích của nhà nước, của
xã hội và địa phương.
- Việc giải quyết tình huống phải đúng thẩm quyền. Các quyết định của cơ
quan quản lý, hoạt động của cán bộ thụ lý, tham mưu… phải đúng pháp luật, có
tính khả thi cao. Thể hiện rõ vai trò trách nhiệm trong việc giải quyết công việc,
bảo vệ các quyền và lợi ích của nhân dân. Có như vậy mới tạo được niềm tin
trong nhân dân, hoạt động giải quyết tình huống mới có tính thuyết phục với
nhân dân, làm cho dân tin tưởng các dự án của nhà nước, của thành phố và địa
phương thực sự là nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho cuộc sống của chính gia đình
họ và xã hội.
2. Các phương án xử lý
13
Dự án mở rộng đường quốc lộ 32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa
trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường rộng 50m và hệ thống đường vòng
tránh cầu vượt Mai Dịch, là một giải pháp lớn, phục vụ cho nhiều mục đích của
Thành phố Hà Nội và quận Cầu Giấy. Dự án đã thực hiện được tương đối đầy đủ
các thủ tục, trải qua các giai đoạn theo trình tự pháp luật quy định. Vì vậy, việc
bàn giao mặt bằng để thi công dự án là hết sức quan trọng và gấp rút. Trên quan
điểm bảo đảm tiến độ, hiệu quả của dự án, quyền và lợi ích của bà Phương, ông
Khánh. Căn cứ vào diễn biến tình huống, phương án giải quyết tình huống đã
đặt ra như sau:
2.1. Phương án 1:
Trên cơ sở quy định của pháp luật và nếu phương án bồi thường, hỗ trợ do
UBND quận Cầu Giấy phê duyệt là phù hợp thực tế và đúng đắn thì buộc bà
Phương phải bàn giao mặt bằng đúng thời hạn quy định. Nếu tiếp tục không
thực hiện việc bàn giao mặt bằng thì sẽ cưỡng chế theo Nghị định
số197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ; Quyết định 26/2005/QĐ-
UB ngày 18/02/2005 của UBND Thành phố Hà Nội: Trong quá trình tổ chức
thực hiện GPMB người có đất bị thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi
đất, kế hoạch giải toả, có hành vi cố ý gây cản trở thì UBND quận, huyện ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất
đai; tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật để giải phóng mặt
bằng…
+ Ưu điểm: Đảm bảo tính kịp thời, hiệu lực của quyết định giải phóng
mặt bằng và tiến độ, hiệu quả của việc thực hiện dự án.
+ Nhược điểm: Mang tính mệnh lệnh, cứng nhắc, có thể thiếu chính xác
và không đảm bảo được các quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất. Trường
hợp này chưa chắc phương án bồi thường, hộ trợ mà UBND quận Cầu Giấy phê
chuẩn đã là đúng đắn. Vì vậy, nếu cưỡng chế có thể sẽ dẫn đến sự phản ứng
quyết liệt từ phía người dân bị thu hồi đất.
14
3.2. Phương án 2:
Xuất phát từ tình hình thực tế, việc bà Phương và ông Khánh đã ly hôn từ
năm 2002 theo Quyết định của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy và có đủ giấy tờ
hợp pháp đối với phần tài sản được chia (nhà, đất…) và có đủ điều kiện về hộ
khẩu (đã tách 2 hộ) thì có căn cứ pháp lý để xem xét bổ sung mức bồi thường,
hỗ trợ còn thiếu và cấp 2 xuất đất tái định cư.
+ Ưu điểm: Bảo vệ tốt hơn quyền và lợi của người bị thu hồi đất, trên cơ
sở đó cũng đảm bảo đúng tiến độ giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án.
+ Nhược điểm: Có thể tạo sự bất bình đẳng với các hộ dân thuộc diện giải
phóng mặt bằng khác vì công tác kê khai, khảo sát, lập phương án đền bù là như
nhau. Nếu bổ sung tiền hỗ trợ cho bà Phương không phù hợp thực tế sẽ làm phát
sinh khiếu nại từ những hộ dân khác. Mặt khác, nếu sau khi ly hôn nhưng ông bà
Khánh, Phương chưa thực hiện việc tách hộ thì không thể cấp 2 xuất tái định cư
theo quy định của pháp luật.
3.3. Phương án 3:
Đề nghị các cơ quan chức năng của quận Cầu Giấy: Hội đồng bồi thường,
hỗ trợ và Tái định cư; phòng Tài nguyên và Môi trường; Công an; UBND Mai
Dịch… kiểm tra, thẩm định lại các thông tin về nhà, đất, tài sản gắn liền với đất,
nhân hộ khẩu… của gia đình ông bà Khánh, Phương để xác lập phương án bồi
thường, hỗ trợ tái định cư phù hợp với thực tế, đúng pháp luật. Trên cơ sở đó
mới xem xét quyết định việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung hay tăng xuất tái định
cư theo đề nghị của bà Phương đã trình bày trong đơn khiếu nại.
+ Ưu điểm:
- Thể hiện rõ tính cẩn trọng, trách nhiệm, đảm bảo tính chính xác, khách
quan, bình đẳng trong điều kiện hết sức nhạy cảm của vấn đề giải phóng mặt
bằng và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Có thể khắc phục được những sai sót trong phương án bồi thường, hỗ
trợ đã được phê duyệt và kịp thời ngăn chặn được những kết quả không thuận
lợi mà hai phương án đầu gây ra.
15
- Việc kiểm tra, thẩm định lại… để có phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đúng vẫn bảo vệ tốt quyền lợi của người dân bị thu hồi đất, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện dự án sau này.
+ Nhược điểm:
- Phải kéo dài thời gian, có nhiều tổ công tác và phát sinh chi phí.
- Có thể ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án.
IV. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ
LỰA CHỌN.
Trong đó phương án 3 là có tính khả thi và đảm bảo hiệu quả giải quyết
tình huống tốt hơn cả. Các ưu điểm của phương án 3 được xem là quan trọng
nhất và rất cần thiết trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo hay thắc mắc,
kiến nghị của nhân dân. Chỉ khi nào chúng ta có được những thông tin chính
xác, khách quan, kết quả đáng tin cậy thì mới có thể giải quyết tốt những đơn
thư khiếu nại đó. Đồng thời, nếu theo hai phương án 1 và 2 thì những hạn chế
của phương án 3 cũng chưa chắc đã tránh khỏi.
Vì vậy, tôi chọn phương án 3 để giải quyết tình huống này. Tuy nhiên,
việc thực hiện phương án 3 cần tiến hành theo các bước với các quyết định được
ban hành đảm bảo tính chính xác, đúng pháp luật và khoa học.
Để thực hiện được phương án 3, UBND quận Cầu Giấy cần chỉ đạo và tổ
chức họp với Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; phòng Tài nguyên và
Môi trường, phòng Tài chính, phòng Quản lý đô thị của quận Cầu Giấy, Tổ công
tác giải phóng mặt bằng, UBND và Công an phường Mai Dịch, Toà án nhân dân
quận Cầu Giấy để:
+ Đánh giá lại kết quả điều tra, kê khai ban đầu … về đất đai, nhân khẩu,
rà soát lại các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
trong phương án bồi thường, hỗ trợ số 29B/3/PA-BT-HT-TĐC đã không được
bà Phương chấp nhận. Trên cơ sở đó chỉ rõ những điểm phù hợp, chưa phù hợp
và trách nhiệm trong từng khâu của việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ này.
+ Thống nhất cách thức thực hiện phương án 3 và trách nhiệm của các cơ
quan có thẩm quyền theo các bước sau:
16
Bước thứ nhât: Kiểm chứng, đối chiếu các thông tin đã thu thập được để
lập phương án bồi thường, hỗ trợ số 29B/3/PA-BT-HT-TĐC với hiện trạng thực
tế nhà, đất, tài sản trên đất của bà Phương, ông Khánh theo hướng làm rõ và bổ
sung thêm (nếu có) các nội dung:
- Kiểm tra, thẩm định xác nhận nguồn gốc đất đai, diện tích đất của bà
Phương tại địa chỉ số nhà 11, tổ 4, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy;
- Thẩm tra, xác định phần diện tích đất và công trình còn lại ngoài quy
hoạch dự án của bà Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn Khánh.
- Kiểm tra tình hình sử dụng nhà đất và hiện trạng tài sản trên đất trong
phạm vi cần di chuyển giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án mở rộng quốc lộ
32 (đoạn Cầu Vượt Mai Dịch – Nghĩa trang Mai Dịch) theo chỉ giới mở đường
rộng 50m và hệ thống đường vòng tránh cầu vượt Mai Dịch.
- Thẩm định tính hợp pháp của tình trạng hôn nhân và số hộ đăng ký hộ
khẩu tại số nhà 11, tổ 4, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy.
Tổ công tác giải phóng mặt bằng, phòng Tài nguyên và Môi trường,
phòng Tài chính, phòng Quản lý đô thị của quận Cầu Giấy, công an phường Mai
Dịch có trách nhiệm thực hiện các nội dung phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Bước thứ hai
: Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; phòng Tài
nguyên và Môi trường, phòng Tài chính trên cơ sở kết quả công tác ở bước thứ
nhất lập Tờ trình để UBND quận Cầu Giấy ra quyết định điều chỉnh bổ sung hay
không điều chỉnh các mức và hình thức đến bù trong phương án bồi thường, hỗ
trợ số 29B/3/PA-BT-HT-TĐC đối với bà Phương, ông Khánh.
Bước thứ ba:
Thông báo kết quả giải quyết và trả lời đơn khiếu nại của
bà Phương bằng Quyết định điều chỉnh bổ sung hay không điều chỉnh bồi
thường, hỗ trợ của UBND quận Cầu Giấy. Đây vừa là cơ sở đảm bảo quyền lợi
của bà Phương, ông Khánh vừa đảm bảo tính pháp lý của việc thực hiện dự án
(Cơ sở để tiến hành cưỡng chế nếu bà Phương một lần nữa không chấp hành
quyết định giải phóng mặt bằng).
1. Kết quả thực hiện bước thứ nhất:
17
Trên cơ sở thực hiện các nội dung ở bước thứ nhất cho thấy những thông
tin hết sức cơ bản và quan trọng cho việc giải quyết tình huống là:
* Về nguồn gốc, diện tích đất
:
- Bản đồ đo đạc năm 1988:
Hộ gia đình bà Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn Khánh đang sử
dụng thuộc thửa đất số 250, tờ bản đồ số 3, diện tích 154m
2
, sở mục kê ghi tên
Nguyễn Bích Phương.
- Bản đồ đo đạc năm 1994:
Do sai sót của cơ quan đo vẽ lập bản đồ nên thửa đất hộ gia đình bà
Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn Khánh sử dụng không có số thửa, diện
tích, sổ mục kê không ghi tên, chỉ xác định được thuộc tờ bản đồ số 34.
Vì bản đồ năm 1994 không thể hiện, do đó căn cứ vào bản đồ năm 1988
để xác định như sau:
- Hộ gia đình bà Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn Khánh đang sử
dụng thuộc thửa đất số 250, tờ bản đồ số 3, diện tích 154m
2
như đã nêu trên. Sau
đó gia đình bà Phương bán lại cho gia đình ông Cao Văn Mạnh người hàng xóm
52 m
2
. Số diện tích bà Phương bán chỉ có giấy viết tay, không có xác nhận của
cơ quan có thẩm quyền. Sau khi bán 52 m
2
, thửa đất của gia đình ông Hoàng
Mạnh Hùng còn lại là: 102 m
2
.
* Về công tác giải phóng mặt bằng
:
Theo kết quả điều tra của Tổ công tác, diện tích thửa đất được tách thành
hai phần. Phần đất phía Đông thuộc bà Nguyễn Bích Phương, phần đất phía Tây
thuộc ông Trần Văn Khánh (do bà Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn
Khánh năm 2002) nên thửa đất được tính như sau:
- Diện tích nằm trong bản đồ là 66 m
2
(diện tích này bằng số diện tích của
hộ gia đình được thể hiện trên bản đồ sau khi trừ đi phần đã bán là 52 m
2
).
Từ những cơ sở nêu trên có thể xác định như sau:
+ Theo biên bản điều tra hiện trạng của Tổ công tác, Bà Phương có tổng
diện tích sử dụng là: 58 m
2
18
Bà Phương có tổng diện tích sử dụng là: 58 m
2
, được xác định cụ thể
gồm:
Diện tích trong chỉ giới giải phóng mặt bằng là 58 m
2
, trong đó:
- Diện tích đất được bồi thường đất ở: 25 m
2
- Diện tích đất hỗ trợ đất giao thông: 12 m
2
.
Diện tích ngoài chỉ giới giải phóng mặt bằng là: 21 m
2
.
+ Theo biên bản điều tra hiện trạng của Tổ công tác, ông Trần Văn Khánh
có tổng diện tích sử dụng là 42 m
2
, được xác định cụ thể gồm:
Diện tích trong chỉ giới giải phóng mặt bằng là: 42 m
2
, trong đó:
- Diện tích đất được bồi thường đất ở: 18 m
2
- Diện tích đất hỗ trợ đất giao thông: 08 m
2
.
Diện tích ngoài chỉ giới giải phóng mặt bằng là: 16 m
2
* Về quan hệ hôn nhân:
Theo Quyết định số 65/QĐTTLH của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy
ngày 15/11/2002 đã:
+ Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa: Bà Nguyễn Bích Phương và ông
Trần Văn Khánh.
+ Công nhận sự thoả thuận của hai bên về tài sản chung là: Không yêu
cầu Toà giải quyết vì đã tự thoả thuận.
* Về quan hệ sở hữu nhà, quyền sử dụng đất
:
+ Do bà Phương và ông Khánh không yêu cầu Toà án giải quyết phân
chia nhà, đất mà tự thoả thuận với nhau. Sự thoả thuận đó được bà Phương và
ông Khánh lập thành văn bản: Giấy thoả thuận chia nhà ngày 15/12/2002, có 02
người làm chứng.
+ Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất chưa được bà Phương và ông
Khánh chia tách về mặt pháp lý, tức là chưa thực hiện thủ tục đăng ký quyền sở
hữu nhà và quyền sử dụng đất với cơ quan có thẩm quyền (phòng Tài nguyên và
Môi trường, Văn phòng nhà đất quận Cầu Giấy) tương ứng với phần diện tích
mà hai bên đã tự thoả thuận phân chia trước khi ly hôn.
19
Theo kết quả điều tra của Tổ công tác và căn cứ trên bản đồ năm 1988 thì:
Toàn bộ diện tích nhà đất tại địa chỉ số 11, tổ 4, phường Mai Dịch về mặt pháp
lý vẫn đứng tên của bà Trần Bích Phương (chưa có sự chia tách về quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật).
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, trong trường hợp này:
- Giấy thoả thuận chia nhà có người làm chứng là căn cứ xác lập quyền sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất của bà Phương và ông Khánh đối với phần diện tích
mà hai ông bà tự thoả thuận chia.
- Việc tự thoả thuận chia nhà giữa bà Phương và ông Khánh không nhờ
đến Toà án và trong Quyết định số 65/QĐTTLH ngày 15/11/2002 của Toà án
nhân dân huyện Từ Liêm cũng không xác định phần diện tích nhà đất mà bà
Phương và ông Khánh thoả thuận chia trước khi ly hôn. Nhưng trong bản án
này, về phần chia tài sản, Toà án nhân dân quận đã công nhận việc thoả thuận
chia nhà đất của hai bên.
Đồng thời, Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công
sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung…”.
Theo nguyên tắc, khi ly hôn, tài sản của hai vợ chồng phải chia đôi. Vì
vậy, dù ông Khánh có chưa làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử
dụng đất đối với phần tài sản của mình thì vẫn có quyền sở hữu phần nhà và
quyền sử dụng phần đất trong tổng diện tích hiện vẫn đứng tên bà Phương.
* Về đăng ký hộ khẩu
:
Căn cứ vào Phiếu xác nhận nhân khẩu của Công an phường Mai Dịch thì
tại địa chỉ số 11, tổ 4, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy có 2 hộ là hộ của bà
Nguyễn Bích Phương và ông Trần Văn Khánh.
1.2. Thực hiện bước thứ hai:
Kết quả thực hiện bước thứ nhất đã cho thấy việc xác lập phương án bồi
thường, hỗ trợ số 29B/3/PA-BT-HT-TĐC là thiếu chính xác đối với phần tài sản
20
của bà Phương. Đơn khiếu nại của bà Phương là có căn cứ và thiết thực để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Dựa vào kết quả điều tra của Tổ công tác về
hiện trạng nhà, đất… gia đình bà Phương và ông Khánh có hộ khẩu ở Hà Nội
và thoả mãn đủ các điều kiện được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy
định tại Điều 8 Nghị định 197/CP ngày 3-12-2004 của Chính phủ.
Vì vậy, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cần lập Tờ trình để
UBND quận Cầu Giấy ra quyết định giải quyết khiếu nại của bà Phương đúng
pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích của công dân. Tờ trình cần nêu rõ và đầy đủ các
nội dung mà UBND quận Cầu Giấy cần điều chỉnh phương án bồi thường:
+ Điều chỉnh bổ sung phần diện tích đất thuộc diện phải giải phóng mặt
bằng của hộ bà Phương, ông Khánh và số tiền bồi thường, hỗ trợ tương ứng.
+ Do 2 hộ bà Phương và ông Khánh đều thoả mãn điều kiện tái định cư,
phần diện tích đất còn lại nằm ngoài chỉ giới giải phóng mặt bằng là quá nhỏ
(dưới 30m
2
: Hộ bà Phương còn 21 m
2
và ông Khánh còn 16 m
2
, không đủ điều
kiện được xây nhà theo quy định. Vì vậy, mỗi hộ phải được 1 xuất tái định cư.
1.2. Thực hiện bước thứ ba:
- Trên cơ sở kết quả điều tra của Tổ công tác, Tờ trình của Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư quận Cầu Giấy, UBND quận Cầu Giấy đã ban hành
Quyết định điều chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ bà
Phương và ông Khánh, và thông báo bằng văn bản để các hộ này biết.
- Thực hiện chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ.
- Ra quyết định giải phóng mặt bằng đối với phần diện tích đất thuộc diện
giải phóng mặt bằng mới được điều chỉnh. Hộ bà Phương và ông Khánh phải có
nghĩa vụ di dời tài sản, bàn giao mặt bằng phục vụ việc thực hiện dự án.
2. Một số hạn chế trong việc giải quyết tình huống.
+ Công tác tổ chức cho nhân dân tự kê khai và kiểm tra tính chính xác kết
quả kê khai tài sản để bồi thường, hỗ trợ còn gặp nhiều khó khăn.
+ Việc tiến hành điều tra xác định nhà, đất, tài sản, nhân hộ khẩu để làm
căn cứ lập phương án chưa được thực hiện đầy đủ, chính xác, nhiều tài sản
không được xác minh rõ ràng, công tác quản lý nhân hộ khẩu thiếu chặt chẽ…
21
+ Công tác chỉ đạo, phối kết hợp giữa Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư, phòng Tài nguyên Môi trường, phòng Quản lý đô thị quận Cầu Giấy,
Tổ công tác… chưa chặt chẽ. Chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
trong việc triển khai thực hiện các khâu giải phóng mặt bằng của Dự án.
+ Hệ thống bản đồ quản lý đất đai còn chưa đầy đủ, thiếu chính xác, chưa
phán ánh kịp thời tình hình biến động đất đai trên thực tế.
+ Hệ thống văn bản từ Trung ương đến cơ sở quy định về giải phóng mặt
bằng cũng như chế độ, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư… còn nhiều,
hay biến đổi và chưa thực sự phù hợp với quy mô, tính chất, tầm quan trọng và
tình hình thực tế của dự án ở từng địa bàn cụ thể.
+ Đội ngũ cán bộ còn hạn chế về trình độ, kinh nghiệm thực tế và kỹ năng
áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện
công tác giải phóng mặt. Một mặt là do cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính
còn rườm rà, phức tạp, mặt khác là do quy trình còn cứng nhắc, thiếu linh
hoạt…
V. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Qua tình huống trên bản thân xin được đưa ra một số kiến nghị, đề xuất
sau nhằm giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai trong quá trình giải phóng
mặt bằng ở chính quyền cơ sở và góp phần làm giảm các vụ khiếu kiện về giải
phóng mặt băng trong nhân dân:
- Trong công tác giải phóng mặt bằng, vấn đề quản lý nhà nước về công
tác này ngày càng cần phải được nghiên cứu, tổng kết thông qua thực tiễn để xây
dựng những cơ chế, chính sách phù hợp, sát thực hơn. Trong đó, để công tác bồi
thường thiệt hại GPMB được tiến hành nhanh chóng, chính xác và hiệu quả đòi
hỏi phải có một hệ thống pháp luật đúng đắn, thống nhất, rõ ràng, rành mạch,
đồng thời phải ổn định và công bố công khai cho mọi người dân đều biết.
- Thủ tục hành chính càng đơn giản, dễ hiểu, rõ ràng về trách nhiệm thì
công tác giải phóng mặt bằng mới làm nhanh, làm dứt điểm được (Một phương
án bồi thường, hỗ trợ… có khi phải có đến 10 chữ ký và con dấu; nên mất rất
22
nhiều thời gian hoàn tất hồ sơ trình duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư).
- Phát huy tính “Chủ động, sáng tạo, tập trung, kiên quyết, dứt điểm và
hiệu quả” của các cơ quan chức năng trong quá trình triển khai thực hiện giải
phóng mặt bằng phục vụ dự án.
- Đối với mỗi dự án cần giải phóng mặt bằng phải tiến hành công khai,
dân chủ, minh bạch phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hai lần trong
một khoảng thời gian nhất định trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trong đó yêu cầu phải đảm bảo tính công khai, đầy đủ, rõ ràng, đúng pháp luật
các chế độ, chính sách mà các hộ dân thuộc diện giải phóng mặt bằng được
hưởng và phương án phải được tính toán đúng.
- Công khai lần thứ nhất (được thực hiện sau khi đã họp dân, tuyên
truyền, phổ biến để nhân dân biết trước) nhằm tạo điều kiện cho nhân dân xem
xét cụ thể, kiểm tra tính phù hợp, đúng đắn của từng phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư. Nếu có điểm nào chưa đúng, chưa thống nhất… thì kịp thời có
ý kiến để cơ quan có thẩm quyền xem xét điều chỉnh cho phù hợp.
- Công khai lần thứ hai sẽ được thực hiện sau khi cơ quan chức năng đã
xem xét lại một cách toàn diện, thống nhất từng phương án bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư đã được nhân dân có ý kiến. Nhằm tránh tình trạng khiếu kiện không
đáng có xảy ra.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác, tuyên truyền, vận động với nhiều nội
dung và hình thức phong phú, sát thực tế của từng địa phương để mọi tổ chức,
công dân nắm chắc và hiểu rõ về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
thực hiện giải phóng mặt bằng theo đúng quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Khi mà người dân hiểu được mục đích của việc thu hồi đất
là phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, hay trước tiên là lợi ích kinh tế
cho vùng, khu vực đó thì việc thực hiện dự án sẽ thuận lợi và tính khả thi cao
hơn.
- Đối với việc xử lý đơn thư khiếu nại cần:
23
+ Giải thích rõ ràng, rành mạch cho các hộ dân về quy định chính sách
của Nhà nước, về trình tự thủ tục GPMB và giải thích rõ về luật khiếu nại tố cáo.
+ Tổ chức thu thập thông tin, số liệu liên quan đến việc khiếu nại từ đó
có những đánh giá, tổng hợp đưa ra giải pháp cụ thể; nhanh chóng báo cáo với
cấp có thẩm quyền xét duyệt và trả lời các hộ dân một cách thấu tình đạt lý.
+ Chỉ điều chỉnh phương án bồi thường một cách hợp lý, tránh phá vỡ
chính sách làm thay đổi kế hoạch giải phóng mặt bằng của cả dự án, cũng như
tạo tiền lệ xấu cho các dự án tiếp theo như: tăng giá bồi thường lên quá cao so
với kinh phí dự toán dẫn dẫn đến nhà đầu tư không còn đủ vốn để thực hiện các
khâu tiếp theo…
+ Khi đã có chính sách giải quyết phù hợp, cán bộ làm công tác giải
phóng mặt bằng nhiều lần tuyên truyền phù hợp, giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ mà các
hộ vẫn chống đối thì cương quyết thực hiện cưỡng chế.
+ Giải quyết khiếu nại trong giải phóng mặt bằng phải đảm bảo giữ vững
trật tự, ổn định xã hội, không để làm phát sinh thành những điểm nóng về khiếu
kiện đông người, tính chất phức tạp… Khi đó sẽ rất khó đảm bảo được hiệu quả
của công tác này trong thực tế.
- Về đội ngũ cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng đa số là kiêm
nhiệm hoặc các cán bộ chuyển từ các nghành khác sang. Đây chính là một yếu
tố khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng. Vì vậy, cần đào tạo chuyên sâu,
nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, kỹ năng xử lý các trường
hợp phức tạp trong công tác giải phóng mặt bằng hiện nay.
24
PHẦN III
KẾT LUẬN
Thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các khu vực công
cộng, các khu công nghiệp… là nhiệm vụ cấp thiết nhằm đạt được mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Vì thế, công tác giải phóng
mặt bằng đã và đang là vấn đề mà nhiều cấp, nhiều ngành cần quan tâm nhằm
tạo được sự đồng thuận trong nhân dân có đất bị thu hồi sẵn sàng chấp thuận từ
việc tiến hành điều tra hiện trạng, thống nhất phương án bồi thường, nhận kinh
phí bồi thường đến việc bàn giao mặt bằng cho các chủ đầu tư thực hiện các dự
án xây dựng, đặc biệt không để xảy ra những bức xúc, nổi cộm …
Khi các cơ quan quản lý Nhà nước xem xét, nhìn nhận, đánh giá và kết luận
các tranh chấp, khiếu kiện đất đai trong giải phóng mặt bằng đòi hỏi phải chính
xác, khách quan, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan, phiến diện của cá nhân;
phản ánh sự việc phải đúng với bản chất của nó. Đồng thời công khai kết luận giải
quyết vụ việc cho các tổ chức, đoàn thể và nhân dân được biết. Các tổ chức, đoàn
thể có trách nhiệm giám sát và tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về
chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc đền bù, hỗ trợ, tái định cư, khiếu
nại tố cáo về đất đai trong giải phóng mặt bằng, nhằm nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của người dân. Mặt khác nhân dân tham gia giám sát các cơ quan Nhà
nước chấp hành pháp luật trong công tác tổ chức thực hiện các phương án đền bù,
giải phóng mặt bằng.
Quận Cầu Giấy, luôn xác định giải phóng mặt bằng là một nhiệm vụ
trọng tâm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của quận nói riêng và
của Thành phố nói chung, nhằm đảm bảo đúng tiến độ giải phóng mặt bằng của
các dự án trên địa bàn quận.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả của công tác giải phóng mặt bằng, và hạn
chế tối đa các vụ khiếu kiện của nhân dân liên quan đến chính sách đền bù, hỗ
trợ tái định cư trên địa bàn; Lãnh đạo quận uỷ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân quận thường xuyên đôn đốc, chỉ đạo kịp thời đối với những dự án
trọng điểm, có khó khăn, vướng mắc. Trực tiếp tiếp xúc với dân để giải thích
25
tuyên truyền, vận động thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Nhà nước về
công tác giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, lãnh đạo quận thường xuyên quan
tâm đến công tác giải quyết khiếu nại trong giải phóng mặt bằng nhằm đảm bảo
tốt lợi ích của cả chủ đầu tư dự án cũng như của nhân dân một cách thiết thực,
hiệu quả. Để tạo được sự đồng thuận trong nhân dân có đất bị thu hồi, các ban,
ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở phải vào cuộc đồng bộ. Ngoài việc tuyên
truyền trên hệ thống đài phát thanh của quận, truyền thanh của phường về chế độ
chính sách mới, mỗi phường đều thành lập tổ vận động nhằm tuyên truyền, giải
thích đến từng hộ dân để các hộ dân đồng tình, ủng hộ chủ trương giải phóng
mặt bằng của Nhà nước và của Thành phố Hà Nội./.