Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương ở việt nam trong thời gian tới_5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.47 KB, 16 trang )

1
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
CƠ SỞ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH MIỀN TRUNG
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Đề tài: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN
CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC GIỮA TRUNG
ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI”
Giảng viên: TS. HOÀNG MAI
Học viên: Hoàng Thị Thu Hương
Lớp: HCC 16 M
Huế, tháng 4, năm 2013
MỤC LỤC
Mở đầu
Nội dung
I. Quan niệm về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương:
II. Sự cần thiết phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương:
III. Mục đích, vai trò của phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa
phương:
IV. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương ở
Việt Nam hiện nay:
1. Diễn biến về phân cấp quản lý nhà nước ở Việt nam:
2. Xu hướng phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương:
V. Giải pháp đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương
ở nước ta thời gian tới:
1. Về nhận thức của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân:
2. Về xây dựng hệ thống thể chế đối với phân cấp:
3. Đổi mới tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp, nhất
là chính quyền địa phương các cấp:
4. Tăng cường kiểm soát của trung ương đối với địa phương:



Kết luận
2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC GIỮA TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Mở đầu
Mỗi quốc gia thường bao gồm nhiều vùng lãnh thổ với những tộc người khác
nhau và điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội không giống nhau, vì thế hệ thống bộ
máy chính quyền thường được thiết lập ở cả Trung ương và địa phương. Chính
quyền Trung ương quản lý các ngành, lĩnh vực trên toàn bộ quốc gia, còn chính
quyền địa phương quản lý các đối tượng trong phạm vi vùng lãnh thổ theo địa dư
hành chính. Để nâng cao quả quản lý nhà nước, chính quyền trung ương tiến hành
phân cấp cho chính quyền các địa phương thực hiện quản lý các đối tượng, quá
trình phù hợp với khả năng và gắn với các điều kiện cụ thể của địa phương. Phân
cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương vừa là yêu cầu cần thiết
khách quan, vừa là phương thức quản lý hữu hiệu của các cơ quan quản lý nhà
nước.
Trong điều kiện quản lý nền kinh tế thị trường có định hướng hiện nay ở Việt
Nam, Chính phủ Trung ương nên tập trung vào thực hiện nhiệm vụ quản lý vĩ mô
các ngành, lĩnh vực, vì vậy cần tăng cường phân cấp mạnh hơn, cụ thể hơn cho
chính quyền địa phương các cấp để vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của địa
phương trong việc khai thác, sử dụng các nguồn lực tại chỗ, vừa đề cao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả.
Nội dung
I. Quan niệm về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương:
Phân cấp là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ, quyền hạn cho
từng cấp hành chính để việc quản lý đất nước được thuận lợi và hiệu quả hơn. Bản
chất của phân cấp là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất

định do mình đang nắm giữ và thực hiện cho cấp dưới thực hiện một cách thường
xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc bằng
cách chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết định cụ
thể.
Nội dung của phân cấp là giao cho các cấp chính quyền, các bộ phận trong
bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện, giải quyết những công
việc nhất định của nhà nước. Những nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho các cơ
quan nhà nước mỗi cấp được xác định sao cho hợp pháp và hợp lý, căn cứ vào vị
trí, tính chất và chức năng của chúng trong bộ máy nhà nước thể hiện dưới dạng
các quyền, trách nhiệm của cơ quan nhà nước đó. Cụ thể là:
3
+ Quyền, trách nhiệm về các công việc quản lý hoặc quyền cung ứng các dịch vụ
công trong những lĩnh vực, với quy mô nhất định theo nguyên tắc các công việc
được trao trọn gói cho từng cấp quản lý, có nghĩa là, việc của cấp này sẽ không
thuộc việc của cấp khác.
+ Để thực hiện các quyền, các công việc tương ứng thì từng cấp được trao quyền
về ngân sách, tài chính độc lập với cấp khác.
+ Quyền về tổ chức nhân sự để đảm bảo việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc
quản lý hoặc cung ứng các dịch vụ công do mình đảm nhiệm.
Phân cấp thực chất là trao cho từng cấp hành chính- lãnh thổ những quyền tự
quyết định, tự quản lý những công việc cụ thể nhất định trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Các cấp chính quyền có những nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm và nguồn lực của mình tùy theo khả năng thực tế của địa phương để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được trao. Nhiệm vụ, quyền hạn tự quyết đó được
thực hiện thông qua các pháp nhân công quyền như cơ quan đại điện, cơ quan hành
chính… Chẳng hạn như ở nước ta là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các
cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên hoạt động của các cơ quan
chính quyền địa phương vẫn phải luôn đặt dưới sự kiểm tra, giám sát cần thiết của
các cơ quan chính quyền trung ương.
Phân cấp thường được thực hiện ở các phương diện cơ bản như: Phân cấp về

chính trị; phân cấp về hành chính; phân cấp về ngân sách; phân cấp về kinh tế…
Tùy theo mỗi quốc gia và tùy theo từng giai đoạn mà việc phân cấp được tiến hành
ở những phương diện nào và đến đâu.
+ Phân cấp về chính trị được hiểu là việc chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ
chính trị từ chính quyền trung ương xuống cho chính quyền địa phương thực hiện.
Tác dụng của quá trình này là làm cho chính quyền địa phương mạnh lên về mặt
chính trị, đồng thời cho phép người dân và các nhóm chính trị ở địa phương có
điều kiện tham gia và có ảnh hưởng nhiều hơn vào tiến trình xây dựng và thực thi
các chính sách của chính quyền trung ương cũng như của chính quyền địa phương.
Trong quá trình phân cấp về chính trị thường đòi hỏi phải có những sửa đổi nhất
định về hiến pháp hoặc về thể chế nhà nước.
+ Phân cấp về hành chính được hiểu là phân bổ lại thẩm quyền, trách nhiệm và
nguồn ngân sách cho việc bảo đảm các dịch vụ công giữa các cấp chính quyền của
quốc gia. Điều này biểu hiện ở việc chuyển giao quyền và trách nhiệm thực hiện
các chức năng công cộng từ chính quyền cấp trên xuống cho chính quyền cấp dưới.
Phân cấp về hành chính thể hiện ở ba cấp độ cơ bản là: Phi tập trung hóa (tản
quyền), ủy quyền và phân cấp quản lý.
+ Phân cấp về ngân sách được hiểu là sự phân bổ trách nhiệm quản lý về nguồn
ngân sách giữa các cấp chính quyền. Phân cấp về ngân sách thể hiện dưới nhiều
dạng như: Cho phép chính quyền địa phương tự chủ về tài chính (tự hạch toán kinh
phí thu, chi); chính quyền trung ương và địa phương cùng thực hiện các hoạt động
tài chính;cho phép chính quyền địa phương được đặt ra một số khoản thuế, lệ phí
hoặc hưởng toàn bộ hay một phần các khoản thu từ thuế, lệ phí… ở địa phương;
4
chuyển một phần khoản thu từ thuế mà chính quyền trung ương thu được cho chính
quyền địa phương sử dụng; bảo lãnh hoặc cho chính quyền địa phương vay…
+ Phân cấp quản lý về kinh tế được hiểu là chuyển giao quyền điều hành, quyết
định một số hoạt động kinh doanh từ cơ quan cấp trên xuống cơ quan cấp dưới
hoặc từ các cơ quan công quyền sang các cơ quan tự quản hoặc khối tư nhân.
Thông thường việc này gắn liền với quá trình tự do hóa kinh tế và nền kinh tế thị

trường, hạn chế hoặc loại bỏ cơ chế tập trung bao cấp.
Phân quyền giữa trung ương và địa phương (phân quyền theo chiều dọc) là
phân chia quyền lực nhà nước giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có nhiệm vụ,
quyền hạn riêng của mình, các cấp hạn chế việc can thiệp vào nhiệm vụ, quyền hạn
của nhau, nhưng cấp trên có thể kiểm tra, thanh tra cấp dưới theo quy định của
pháp luật. Phân quyền theo chiều dọc cũng có nghĩa là sự phân công trong mỗi loại
cơ quan nhà nước khi cùng thực hiện một loại quyền lực. Chẳng hạn, thực hiện
quyền hành pháp cần có sự phân công giữa Chính phủ với các cơ quan hành chính
nhà nước ở các địa phương; sự phân công giữa các cơ quan tư pháp trong việc thực
hiện quyền tư pháp (giữa công an, viện kiểm sát, toà án); sự phân công giữa các cơ
quan toà án với nhau về thẩm quyền xét xử, giải quyết các vụ việc (giữa Toà án
nhân dân tối cao, toà án nhân dân cấp tỉnh và toà án nhân dân cấp huyện); sự phân
công giữa các toà trong cùng một toà án (giữa toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế,
toà hành chính ). Như vậy, phân quyền theo chiều dọc cũng thể hiện sự phân cấp
giữa trung ương và địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà
nước cấp dưới.
Việc phân quyền nhà nước một cách rõ ràng sẽ tránh được tình trạng đùn
đẩy không muốn thực hiện hoặc tranh nhau thực hiện đối với một số công việc
nhất định của nhà nước. Sự phân công không rõ ràng, quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan nhà nước không chặt chẽ thường dẫn đến hiện tượng không
quy kết được trách nhiệm cho các cơ quan, hoặc gặp khó khăn trong việc phối hợp
công việc giữa các cơ quan. Trên cơ sở sự phân công hợp lí về nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong pháp luật, sẽ là tiêu chí để đánh giá tính hợp
pháp, trách nhiệm, hiệu quả trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước trên thực
tế.
II. Sự cần thiết phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương:
Phân cấp, phân quyền giữa trung ương và các địa phương thường diễn ra với
hai lý do cơ bản: một là, khả năng hạn chế của chính quyền trung ương trong việc
quản lý, điều hành các công việc của đất nước ở các địa phương, nhất là ở những
vùng sâu, vùng xa, ở tầm vi mô; hai là, một số địa phương nhờ có những ưu thế

nhất định (về tài nguyên khoáng sản, về nguồn nhân lực con người…) nên phát
triển khá mạnh nên thường dẫn đến xu hướng không muốn lệ thuộc hoàn toàn vào
chính quyền trung ương, họ đấu tranh để được quyền tự chủ trong một số lĩnh vực
hoặc vấn đề nhất định. Có thể nói, phân cấp, phân quyền vừa là nhu cầu đòi hỏi
khách quan của việc quản lý đất nước rộng lớn, phức tạp vừa là nhu cầu phát triển
lợi ích của mỗi địa phương, nhất là những địa phương có điều kiện phát triển
5
mạnh, mong muốn phải có những quyền, những lợi ích nhất định của địa phương
trong quá trình phát triển của mình. Như vậy, việc phân cấp, phân quyền luôn phản
ánh mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa chính quyền cấp trên và
chính quyền cấp dưới.
Việc phân cấp, phân quyền cho mỗi cấp khác nhau thì khác nhau và cho các
địa phương khác nhau có thể cũng khác nhau và sự phân cấp, phân quyền ở các
thời kỳ khác nhau đòi hỏi phải khác nhau. Thông thường địa phương nào có điều
kiện phát triển tốt thì mong muốn được phân cấp, phân quyền nhiều hơn, nhưng
trung ương khi này lại không muốn phân cấp, phân quyền vì việc phân cấp, phân
quyền sẽ ảnh hưởng đến quyền lực, lợi ích, thu nhập hợp pháp của chính quyền
trung ương, của các cơ quan chủ quản Do vậy, trong thực tế tồn tại tình trạng là
các cơ quan trung ương, cơ quan cấp trên nhiều khi không có khả năng giải quyết
tốt công việc nhưng lại có quyền giải quyết, còn các cơ quan địa phương, cơ quan
cấp dưới có khả năng giải quyết tốt công việc nhưng lại không có quyền giải
quyết… từ đó dẫn đến hiện tượng quan liêu, bao cấp, kếm hoặc không hiệu quả
trong giải quyết các công việc nhà nước.
Ngược lại với tình trạng trên là việc phân cấp, phân quyền cho địa phương
có thể dẫn đến tình trạng địa phương hoặc là không đủ năng lực, trình độ để thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao hoặc là quá nhiều công việc vượt quá
khả năng giải quyết của chính quyền địa phương. Phân cấp, phân quyền cũng có
thể dẫn đến sự tùy tiện sử dụng những gì được phân cấp để làm lợi cục bộ cho địa
phương mình, bất chấp hoặc không tính đến lợi ích của các địa phương khác hoặc
lợi ích của quốc gia trong tổng thể. Chẳng hạn, việc phân cấp quản lý và cấp phép

sử dụng quỹ đất ở Việt Nam thời gian qua đã dẫn đến nhiều địa phương cấp phép
sử dụng đất không hợp lý hoặc khai thác khoáng sản không đúng, ảnh hưởng đến
lợi ích quốc gia và sự phát triển cân đối, bền vững của đất nước. Do vậy, việc phân
cấp, phân quyền còn là giải quyết mối quan hệ giữa trung ương và địa phương một
cách phù hợp nhất, tạo điều kiện cho sự phát triển của cả đất nước cũng như mỗi
địa phương. Việc phân cấp, phân quyền cho các địa phương là vấn đề tất yếu của
các nhà nước, nó phụ thuộc vào khả năng của chính quyền địa phương mỗi giai
đoạn phát triển, nếu phân cấp, giao nhiều quyền quá có thể dẫn đến chính quyền
địa phương sẽ quá tải, không thể thực hiện hết được, nếu phân cấp, giao ít quyền
quá thì hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương sẽ không cao. Xu hướng
chung hiện nay trong các nhà nước dân chủ là khi xã hội phát triển cao thì việc
phân cấp, phân quyền diễn ra nhiều hơn, chính quyền các địa phương được trao
cho nhiều nhiệm vụ, quyền hạn hơn.
III. Mục đích, vai trò của phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa
phương:
Việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương: Một mặt, nhằm
phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính
quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước; mặt khác, bảo đảm sự
6
quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của chính quyền trung ương, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phục vụ
tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở từng địa
phương phát triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương trong một nhà
nước thống nhất. Do vậy, việc phân cấp, phân quyền hợp lý, chính xác sẽ có những
tác dụng tích cực như sau:
- Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những cơ hội tốt hơn để
người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra quyết định của
các cơ quan nhà nước các cấp.
-Tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân thông qua

việc ủy quyền cho chính quyền địa phương thực thi chức năng cung cấp dịch vụ
công, từ đó hạn chế sự quan liêu và trì trệ của các cơ quan nhà nước cấp trên, cơ
quan trung ương.
- Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ công được cung cấp cho
người dân dựa trên trách nhiệm giải trình và sự nhạy cảm trong việc nắm bắt và
đáp ứng nhu cầu của dân chúng của chính quyền địa phương.
- Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu chính xác điều
kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư… của chính quyền địa
phương, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có những chính sách đúng đắn cho
việc phát triển đó, phát huy được thế mạnh của mỗi địa phương.
- Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực giải
quyết các công việc của các cơ quan chính quyền địa phương.
- Cho phép đại điện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của các nhóm lợi ích
như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào quá trình ra quyết định
của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề của mỗi địa phương.
- Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia thông qua việc
cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và hiệu quả hơn các chương
trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền nhà nước ở địa phương thuộc các cấp
khác nhau.
- Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội… mới nảy sinh, từ đó
có được những chương trình, hoạt động quản lý nhà nước có tính sáng tạo hơn đối
với mỗi địa phương.
Hoạt động phân cấp, phân quyền, nếu thực hiện không tốt cũng có thể sẽ dẫn đến
những ảnh hưởng tiêu cực như:
- Thông qua việc trao cho những người cầm quyền ở địa phương nhiều quyền lực
hơn, nhiều khi vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền trung ương có thể dẫn
đến làm tổn hại nền dân chủ xã hội.
- Làm giảm hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công cho các tổ chức và cá nhân do
thiếu sự kiểm soát và giám sát có hiệu quả việc thực thi chức năng này từ phía các
cơ quan cấp trên, cơ quan trung ương.

7
- Chất lượng của những dịch vụ công được cung cấp cho người dân bị ảnh hưởng
vì chính quyền địa phương thiếu năng lực hoặc những nguồn lực cần thiết để đảm
bảo việc cung cấp những dịch vụ đó.
- Làm tăng nguy cơ tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở các địa phương và khả
năng phát triển bất bình đẳng giữa các vùng miền, khu vực khác nhau của đất
nước, có thể gây ra những mâu thuẫn giữa các địa phương với nhau hoặc giữa địa
phương với trung ương.
- Có nguy cơ khiến các cơ quan ở các cấp chính quyền địa phương bị quá tải vì
phải thực hiện quá nhiều công việc khi nguồn nhân lực không đáp ứng được. Hoặc
làm cho đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy chính quyền địa phương tăng lên
quá nhiều dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước.
- Tạo ra những kình địch, cạnh tranh mới, hoặc kích thích những sự kình địch,
cạnh tranh tiềm tàng giữa các địa phương khác nhau trong đất nước về các vấn đề
khác nhau của đời sống xã hội. Thậm chí việc phân cấp, phân quyền còn có nguy
cơ làm suy yếu quốc gia vì có thể dẫn đến gia tăng sự bất bình đẳng giữa các khu
vực hoặc chủ nghĩa ly khai, hoặc làm suy yếu hoạt động quản lý tài chính của quốc
gia.
- Làm giảm tính sáng tạo trong quản lý nhà nước do việc trao quyền cho những
người cầm quyền bảo thủ ở một số địa phương.
Theo các nhà khoa học thì hiện nay trên thế giới có 4 mô hình phân cấp, phân
quyền giữa trung ương và địa phương cơ bản là mô hình Anh - phân cấp cho chính
quyền địa phương theo chức năng; mô hình Pháp - song trùng giám sát; mô hình
Đức - phụ trợ lãnh thổ; mô hình xô viết - song trùng trực thuộc. Như vậy, mỗi quốc
gia có cách thức phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương khác nhau
và mỗi cách thức đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
IV. Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương ở
Việt Nam hiện nay:
1. Diễn biến về phân cấp quản lý nhà nước ở Việt nam:
Vấn đề phân cấp, phân quyền ở Việt Nam đã được đặt ra ngay từ những ngày

đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều này được thể hiện ngay
trong những văn bản đầu tiên của chính quyền lâm thời Việt Nam (Sắc lệnh số 63
ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 76 ngày 21/12/1945 quy định về tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân(HĐND) và Ủy ban hành chính nhà nước ở các địa
phương). Tiếp đến là hệ thống chính quyền địa phương được quy định trong Hiến
pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và các luật tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa và của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Những năm gần đây là Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về
tiếp tục phân cấp quản lý giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, trong đó đã định hướng ưu tiên phân cấp đối với các lĩnh vực
như: Quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; quản lý ngân sách nhà
nước; quản lý đất đai, tài nguyên và tài sản nhà nước; quản lý doanh nghiệp nhà
8
nước; quản lý các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công; quản lý về tổ chức bộ máy và
cán bộ, công chức…
Xét về mô hình phải khẳng định là vấn đề tổ chức chính quyền địa phương ở
Việt Nam được tiến hành theo mô hình của Nhà nước Xô Viết nên mô hình tổ chức
chính quyền địa phương ở Việt Nam là mô hình song trùng trực thuộc với các đặc
điểm cơ bản sau:
- Đất nước được phân chia thành nhiều cấp, các cấp chính quyền đều là bộ phận
cấu thành của nhà nước Việt Nam thống nhất, ở mỗi cấp chính quyền đều có cơ
quan đại diện là HĐND và cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân(UBND). Mỗi
địa phương đều có ngân sách, song chúng phải được cơ quan đại diện cao nhất ở
trung ương là Quốc hội phê duyệt trong tổng thể ngân sách của nhà nước.
- Các cơ quan hành chính nhà nước(CQHCNN) ở địa phương (UBND) đều được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: Vừa trực thuộc
CQHCNN cấp trên vừa trực thuộc cơ quan đại diện cùng cấp là HĐND.
- Các đơn vị hành chính ở nước ta hiện nay có thể khái quát như sau: Nước chia
thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; Thành phố trực thuộc Trung

ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố
thuộc tỉnh chia thành phường, xã; quận chia thành phường. Ở tất cả các đơn vị
hành chính nói trên đều thành lập HĐND và UBND.
Có thể nói, việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương ở Việt Nam
thời gian qua đã tạo ra bộ máy nhà nước khá thống nhất từ trung ương đến địa
phương, ở một mức độ nào đó là phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta những
năm vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì vấn đề phân cấp,
phân quyền ở nước ta cũng còn những hạn chế nhất định. Đó là:
- Những năm trước đây do ảnh hưởng của cơ chế tập trung cao độ dẫn đến quyền
lực nhà nước tập trung vào các cơ quan trung ương quá nhiều nên nhiều cấp, nhiều
bộ phận có biểu hiện quan liêu, không sát thực tế, thực hiện các công việc kém
hiệu quả. Quá trình thực hiện phân cấp, phân quyền còn chậm và thiếu kiên quyết,
nhiều bộ, ngành còn do dự, chưa thực sự mạnh dạn phân cấp, vẫn không muốn
phân cấp, phân quyền cho địa phương vì sợ mất quyền lực và lợi ích.
- Hệ thống chính sách, pháp luật và quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia và mô hình tổ chức chính quyền địa phương thiếu đồng bộ và chưa rõ
ràng. Điều này dẫn đến chính quyền địa phương ở các cấp chưa phát huy được thế
mạnh của mỗi địa phương, hạn chế tính đa dạng trong sự phát triển của các địa
phương. Mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ cũng chưa được quy
định rành mạch, cụ thể.
- Thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương được phân định
không rõ, quyền lực không đủ mạnh, các điều kiện về tổ chức cán bộ, tài chính,
ngân sách, cơ sở vật chất để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp của
chính quyền địa phương chưa bảo đảm. Các cơ quan chính quyền địa phương, nhất
là Hội đồng nhân dân một số cấp hoạt động mang nặng tính hình thức, hiệu quả
9
thấp. Nhiều cơ quan chính quyền địa phương thiếu năng động, thiếu chủ động,
thiếu sáng tạo trong công việc. Nhiều công việc cơ quan chính quyền địa phương
có khả năng giải quyết nhưng không có quyền giải quyết, các cơ quan cấp trên
không có khả năng giải quyết hiệu quả nhưng lại có quyền giải quyết, dẫn đến

nhiều công việc ùn tắc, chậm trễ, kém hiệu quả. Tình trạng trong bộ máy nhà nước
có biểu hiện “trên bảo nhưng dưới không nghe”
- Việc kiểm soát của chính quyền trung ương đối với hoạt động của các cơ quan
chính quyền địa phương trong quá trình phân cấp không tốt dẫn đến nhiều địa
phương lợi dụng việc phân cấp để đưa ra các quyết sách vì lợi ích cục bộ. Chẳng
hạn, thời gian qua ở nước ta có một số cơ quan chính quyền địa phương được phân
cấp đã cấp phép khai thác khoáng sản, cho thuê đất, rừng, xây dựng sân golf hay
một số dự án khác không phù hợp, chạy theo lợi ích cục bộ mà không chú ý đến lợi
ích quốc gia, gây nên những hậu quả bất lợi cho đất nước cả trước mắt lẫn lâu dài,
không đảm bảo tính tổng thể của quy hoạch tổng thể vùng hay cả nước. Nhiều cơ
quan chính quyền địa phương được giao quyền nhưng chưa chuẩn bị về nhân lực
và năng lực để hoàn thành một số công việc được giao. Thiết chế HĐND ở Việt
Nam là cơ quan đại diện ở địa phương có chức năng quyết định những chủ trương,
biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát
triển địa phương về kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ
của địa phương đối với cả nước Tuy vậy, về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tế
cho thấy tính độc lập của HĐND khá hạn chế. Theo các quy định pháp luật thì
thẩm quyền của HĐND khá rộng, song không cụ thể.
- Sự phân cấp mới chỉ chủ yếu là sự chuyển giao quyền hạn từ các cơ quan trung
ương cho các cơ quan nhà nước cấp tỉnh.
2. Xu hướng phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương:
Hoạt động phân cấp, phân quyền ở nước ta cần diễn ra theo những xu hướng
cơ bản sau:
- Tiếp tục hoàn thiện về mặt tổ chức các cơ quan chính quyền địa phương theo tinh
thần nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan chính quyền
địa phương, tránh hình thức trong hoạt động của chính quyền địa phương, nhất là
đối với các cơ quan đại diện (HĐND).
- Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương các cấp. Tạo
điều kiện cho các địa phương phát huy được những điểm mạnh, thế mạnh của mình

(về dân cư, địa lý, khí hậu…) trong phát triển.
- Bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của trung ương, đồng
thời phát huy quyền tự chủ, tính năng động sáng tạo của chính quyền địa phương
các cấp. Phân cấp nhưng phải luôn giữ cho chính quyền trung ương vững mạnh, đủ
khả năng để giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước. Khắc phục tình
trạng không hoặc khó kiểm soát được của chính quyền trung ương đối với chính
quyền địa phương.
10
- Việc phân cấp phải phù hợp với điều kiện, tiềm năng, khả năng của mỗi địa
phương, mỗi khu vực, mỗi vùng, nhưng cũng đồng thời phải tránh tình trạng phát
triển mất cân đối của cả đất nước do sự tùy tiện phát triển quá mức của mỗi địa
phương.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong sử dụng tài chính, ngân sách, tài sản
công và bố trí nguồn nhân lực, tránh lãng phí, sử dụng kém hiệu quả hoặc để xảy ra
tình trạng tham nhũng.
Vấn đề phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương ở nước ta là
vấn đề không ngừng nghỉ, sự ổn định chỉ mang tính chất tương đối và phụ thuộc
vào tình hình phát triển của đất nước ở mỗi giai đoạn nhất định.
V. Giải pháp đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương
ở nước ta thời gian tới:
Để vấn đề phân cấp, phân quyền ở nước ta được tiến hành có hiệu quả cần
chú ý các giải pháp cụ thể sau:
1. Về nhận thức của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân:
+ Cần tiếp tục nhận thức đúng đắn về phân cấp, phân quyền trong giai đoạn hiện
nay nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, phục vụ
tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của mỗi địa phương.
Theo xu hướng chung hiện nay thì cần nghiên cứu để tiếp tục phân quyền, phân
cấp nhiều hơn cho chính quyền địa phương, nhất là tăng cường tính tự quản cho
HĐND để phát huy khả năng sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi
cấp chính quyền. Tuy nhiên, không nên quan niệm tập trung là xấu, phân cấp là tốt

hay ngược lại, mà vấn đề là ở chỗ phải tập trung những gì, phân cấp những gì, đến
đâu, bao nhiêu là vừa sao cho đúng, cho phù hợp với tình hình và điều kiện hiện
nay là quan trọng nhất.
Vấn đề quan trọng nhất ở nước ta là phân công nhiệm vụ, quyền hạn gì? cho
cấp nào? phân công đến đâu là phù hợp… để rồi từ đó tổ chức bộ máy chính quyền
mỗi cấp, mỗi đơn vị để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đó. Về nguyên tắc,
trung ương phải nắm các vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia,
dân tộc, những vấn đề chiến lược lớn, còn địa phương phải giải quyết những vấn
đề cụ thể có ý nghĩa địa phương, trực tiếp cung ứng những dịch vụ công cho nhân
dân một cách tốt nhất. Do vậy, trung ương nên tập trung vào xây dựng chính sách
vĩ mô, pháp luật, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về mặt thể chế, còn mỗi địa
phương được quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn
được trao.
+ Việc phân cấp phải bảo đảm nguyên tắc việc của cấp này không được trùng lặp
với cấp khác, việc của trung ương không trùng với việc của địa phương. Cần có
quan niệm đúng về vị trí, vai trò, chức năng của HĐND - cơ quan quyết nghị và
giám sát những loại việc được phân cấp ở địa phương, giám sát việc thực hiện
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương để có những giải pháp củng cố thiết chế dân
chủ này ở các địa phương.
11
+ Việc phân cấp giữa trung ương với địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới tất
yếu sẽ dẫn đến tranh chấp về thẩm quyền, về lợi ích. Chẳng hạn, chính quyền
thành phố Hà Nội muốn xây dựng một nghĩa trang trên lãnh thổ của một xã thuộc
thành phố, nhưng chính quyền và nhân dân địa phương đã không đồng ý và có
những phản ứng quyết liệt, đòi hỏi chính quyền thành phố buộc phải xem xét lại.
Do vậy, cần phải có cơ chế hiệu quả để giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp
trong quá trình nói trên.
2. Về xây dựng hệ thống thể chế đối với phân cấp:
+ Cần nhanh chóng sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các luật tổ chức bộ máy nhà
nước trên cơ sở rà soát, tổng kết đánh giá những quy định pháp luật có liên quan

đến vấn đề phân cấp, phân quyền, đến mối quan hệ giữa trung ương và địa phương
thời gian qua. Chẳng hạn, Điều 2 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước(CQNN) trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”. Tuy nhiên, tư tưởng chỉ đạo của quan điểm trên đã chưa được thể hiện một
cách đầy đủ và chính xác ở các quy định khác của Hiến pháp và các luật tổ chức bộ
máy nhà nước của nước ta. Điều 6 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND là các cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân”. Việc xác định các cơ quan nhà nước như trên là chưa thực sự
chính xác. Bởi bầu cử chỉ là một cách thức hình thành CQNN, CQNN có thể được
hình thành bằng nhiều cách thức khác nhau như thông qua bầu cử, bổ nhiệm và các
cách thức khác. Do vậy, bầu cử không phải là hành vi nhân dân (cử tri) trao quyền
lực của mình cho CQNN (Quốc hội và HĐND) mà việc trao quyền lực của nhân
dân cho CQNN là thông qua hành vi ban hành hiến pháp và các luật tổ chức bộ
máy nhà nước. Bằng việc ban hành Hiến pháp nhân dân đã trao quyền lực của
mình cho các CQNN, xác định thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Viện
kiểm sát (Hiến pháp khi này gần giống như văn bản thoả thuận về việc quyền lực
nhà nước được nhân dân giao cho những cơ quan nào, đến đâu). Các cơ quan nhà
nước nhận quyền từ nhân dân thông qua Hiến pháp chứ không phải thông qua con
đường bầu cử của cử tri. Vì vậy, việc Hiến pháp quy định về Quốc hội và HĐND
như trên theo tôi là chưa phù hợp vì: Một là, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân được nhân dân giao cho không chỉ Quốc hội và HĐND mà giao cho cả các cơ
quan khác của nhà nước như Toà án, Viện kiểm sát Tất cả đều nhận quyền lực
trực tiếp từ nhân dân và các cơ quan nói trên chỉ khác nhau ở cách thức thành lập
và quyền lực được giao; hai là,nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước không chỉ
thông qua Quốc hội và HĐND mà thông qua tất cả các CQNN. Các CQNN đều

nhận quyền từ nhân dân trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và thực hiện quyền
lực nhà nước trong khuôn khổ của Hiến pháp. Do vậy, tất cả các CQNN không
12
được ban hành các văn bản pháp luật hoặc có những hoạt động trái với quy định
của Hiến pháp, vì như vậy là trái với ý chí của nhân dân, vượt quá giới hạn quyền
lực mà nhân dân giao cho; ba là, việc xác định chỉ có Quốc hội và HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nước sẽ dẫn đến việc hiểu nhầm về các cơ quan khác của nhà
nước, vì như trên đã khẳng định các cơ quan như Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát
cũng mang và thực hiện quyền lực nhà nước, do vậy các cơ quan đó cũng có thể
được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước.
Từ những phân tích trên cho thấy chúng ta nên quy định trong Hiến pháp
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan cao nhất thực hiện
quyền lập pháp”; “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan
cao nhất thực hiện quyền hành pháp”; “Toà án quốc gia là cơ quan xét xử cao nhất,
cơ quan cao nhất thực hiện quyền tư pháp”; “HĐND là cơ quan đại biểu của nhân
dân ở địa phương”; “UBND là CQHCNN ở địa phương” Bởi lẽ, việc quy định
như vậy sẽ có tác dụng: luôn bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân,
xuất phát từ nhân dân, thuộc về nhân dân; nâng cao được vị thế và vai trò của
quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Toà án) trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bảo đảm
được sự phân công, kiểm soát, phối hợp giữa các CQNN trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các CQNN có thể kiềm chế, kiểm soát
nhau trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của Hiến pháp và
các luật tổ chức bộ máy nhà nước, không trái với ý chí của nhân dân, tránh được
hiện tượng lạm quyền, lộng quyền; bảo đảm được tính dân chủ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc nắm giữ và thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Khi này Chính phủ không phải là cơ quan chấp hành của Quốc hội và UBND
không phải là cơ quan chấp hành của HĐND.
Quy định như vậy mới thể hiện được việc thể chế hoá quan điểm của Đảng về xây
dựng nhà nước pháp quyền.

+ Bổ sung thêm các quy định pháp luật liên quan đến việc bảo đảm các điều kiện
về chuyên môn nghiệp vụ, vật chất kỹ thuật và các điều kiện khác để chính quyền
địa phương các cấp có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ, quyền hạn được
trao theo tinh thần mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là: “ xây dựng, bổ sung các
thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
+ Cần có những quy định pháp luật đầy đủ về thiết chế, về nguyên tắc, trình tự, thủ
tục để giải quyết những tranh chấp giữa trung ương với địa phương hoặc giữa các
địa phương với nhau trong quá trình phân cấp, phân quyền.
3. Đổi mới tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp,
nhất là chính quyền địa phương các cấp:
+ Đổi mới lại tổ chức của bộ máy nhà nước:
13
Cần nhận thức đầy đủ và hiện thực hóa nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các CQNN trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước ở tất cả các cấp của bộ máy nhà nước.
Hiện nay ở Việt Nam, số lượng các đơn vị hành chính các cấp, nhất là cấp tỉnh quá
nhiều, điều này gây khó khăn cho trung ương, cho Chính phủ trong quản lý, điều
hành ở tầm quốc gia. Cũng với chủ trương chia tách nên số lượng các bộ và cơ
quan ngang bộ trong bộ máy nhà nước ta khá nhiều nếu so sánh tương quan với các
nhà nước khác có quy mô và dân số tương đương với Việt Nam càng làm cho việc
quản lý hành chính nhà nước gặp nhiều khó khăn.
Với những lý do như đã nêu trên dẫn đến các cơ quan trực thuộc Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ quá nhiều, điều đó làm cho hoạt động chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng không quản
lý được hoặc quản lý lỏng lẻo trên các lĩnh vực diễn ra khá phổ biến ở đất nước ta
thời gian qua. Do vậy, cần phải: “Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm
các đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ

quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp, ”
.
Cụ thể là cần phải:
- Giảm bớt các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo tinh thần là “tổ chức bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý” mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ X đã đề ra. Từ đó “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm,
tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng
lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ, ngành”.
- Giảm bớt các đơn vị hành chính cấp tỉnh bằng việc phân định lại các đơn vị hành
chính cấp tỉnh theo hướng sát nhập một số tỉnh nhỏ có sự gắn kết chặt chẽ với nhau
một cách hợp lý, trên tinh thần đó “Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho
phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ”. Việc sát nhập các tỉnh lại thành
những đơn vị hành chính cấp tỉnh lớn hơn cần được nghiên cứu kỹ càng hơn, cần
chú trọng đến vấn đề quản lý hành chính nhà nước đồng thời phải chú ý đến cơ cấu
dân cư và sự phát triển kinh tế - xã hội phù hợp. Hoặc là, vẫn giữ nguyên các đơn
vị hành chính cấp tỉnh như hiện nay để đỡ có sự xáo trộn về nhân sự và địa giới
hành chính, đồng thời thành lập thêm một số đơn vị hành chính trung gian có tính
chất vùng (khu vực) để chỉ đạo trực tiếp các tỉnh “khắc phục tình trạng chia cắt,
khép kín theo địa giới hành chính” tỉnh. Thực tế hiện nay bên ngành toà án thì Toà
án nhân dân tối cao vẫn phải đặt trụ sở tại các khu vực khác nhau để giải quyết các
công việc một cách kịp thời và hiệu quả. Chẳng hạn, có thể chia đất nước thành 6
khu vực và thành lập các cơ quan hành chính khu vực (không thành lập Hội đồng
nhân dân) để tiện cho cả địa phương và trung ương trong quản lý hành chính.
Khi các đầu mối trực thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ít đi thì đội
ngũ những người giúp việc cho Thủ tướng sẽ giảm đi đáng kể và Thủ tướng có
điều kiện điều hành, chỉ đạo một cách trực tiếp và tốt hơn. Cần chú ý là việc quản
lý của các Bộ đối với địa phương chỉ là quản lý theo ngành, theo lĩnh vực, còn việc
điều hành, quản lý, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các tỉnh,
14
thành phố trực thuộc trung ương, với Chủ tịch các đơn vị hành chính nói trên là

theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
+ Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của các cơ quan nhà nước mỗi
cấp.
Phân định rõ nhóm các công việc thuộc thẩm quyền của mỗi cấp để tránh trùng lặp.
Cụ thể là:
- Nhóm công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan trung ương, nhất là liên quan
đến lĩnh vực lập pháp.
- Nhóm công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan ở địa phương, trong đó cũng
phân công theo từng cấp cho phù hợp với khả năng thực hiện.
- Nhóm các công việc có sự phối hợp thực hiện giữa trung ương và địa phương,
nghĩa là thuộc thẩm quyền của trung ương, nhưng được thực hiện thong qua các
địa phương.
Do vậy, cần mở rộng nội dung phân cấp quản lý cho các cấp chính quyền địa
phương trong những lĩnh vực có thể.
+ Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương, nhất là của
chính quyền cấp cơ sở để khi phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương
thì đội ngũ cán bộ, công chức này đủ khả năng, năng lực để hoàn thành có hiệu quả
những nhiệm vụ, quyền hạn được trao.
- Cần khắc phục tình trạng hoạt động mang tính hình thức của Hội đồng nhân dân
bằng việc phân quyền cho Hội đồng nhân dân để quyết định được nhiều nhiệm vụ,
quyền hạn hơn theo hướng tăng cường tính tự quản của địa phương. Trong quá
trình nghiên cứu phân cấp, phân quyền cần tham khảo thêm kinh nghiệm và mô
hình ở các nước có điều kiện tương tự như nước ta để việc phân cấp, phân quyền
được tiến hành thực sự hiệu quả nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính
quyền mỗi cấp ở nước ta.
4. Tăng cường kiểm soát của trung ương đối với địa phương:
Về nguyên tắc, nếu địa phương hay cấp dưới đủ năng lực để tiến hành các hoạt
động nhà nước nào đó có hiệu quả hơn so với trung ương, so với cấp trên thì cần
mạnh dạn phân cấp cho địa phương, cho cấp dưới để trung ương, cấp trên có điều
kiện giải quyết các vấn đề vĩ mô, mang tính chất chiến lược cho đất nước, không

mất nhiều công sức, thời gian vào những công việc mà trung ương hoặc cấp trên
giải quyết ít hiệu quả. Đa dạng hóa việc tổ chức chính quyền địa phương (phân biệt
giữa cơ quan chính quyền ở thành thị, nông thôn, hải đảo, vùng núi…). Tuy nhiên
để đảm bảo sự quản lý thống nhất từ trung ương tới cơ sở tránh hiện tượng buông
lỏng kiểm soát đối với hoạt động của chính quyền địa phương. Quá trình phân cấp
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung ương với địa phương theo chiều dọc, giữa
các ngành theo chiều ngang. Giữa trung ương và địa phương, giữa các ngành và
các cấp chính quyền phải luôn có sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau, kiểm tra, giám sát
lẫn nhau để cùng phát triển vì mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
15
Kết luận
Nói tóm lại, phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương là một
vấn đề phức tạp vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực đến sự phát triển
đất nước. Chỉ khi nào nhận thức đúng, hoạch định đúng và tổ chức thực hiện hiệu
quả thì vấn đề phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương mới có tác
dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và của mỗi địa
phương. Ngược lại, nếu tiến hành vội vàng, thiếu nghiên cứu, cân nhắc đầy đủ giữa
lợi với hại thì việc phân cấp, phân quyền có thể gây ra những tác động tiêu cực,
thậm chí có thể nguy hiểm cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.

Qua quá trình học tập và nghiên cứu, bản thân đã cố gắng để hoàn thành
nhiệm vụ của mình nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được sự góp ý của Cô để bản thân học hỏi thêm. Em xin chân thành cảm ơn Cô
nhé!
16

×