Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận Phân cấp quản lí hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.59 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU Trang 2
B. NỘI DUNG 2
I. Khái niệm, hình thức, cơ hội và thách thức về phân cấp quản lí NN 2
II. Đẩy mạnh phân cấp quản lí NN ở Việt Nam 5

1. Khái quát chung về tình hình phân cấp ở Việt Nam 5
2. Xu hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp quản lí NN 7
C. KẾT LUẬN 12

1
A. MỞ ĐẦU :
Quản lí nhà nước là một lĩnh vực quản lí đặc biệt. Đó là loại quản
lí gắn liền trực tiếp với hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy quyền lực
nhà nước; gắn liền với việc sử dụng quyền lực nhà nước- một loại quyền
lực đặc biệt, khác hẳn với các quyền lực khác.
Trong chế độ dân chủ, quyền lực nhà nước chính là loại quyền
lực mà nhân dân trao cho các cơ quan nhà nước. Thông qua các loại cơ
quan này, quyền lực nhà nước tác động đến từng người dân và hương tới
quyết tâm đạt được mục tiêu mà nhà nước đã vạch ra.
Từ khi giành được độc lập (2-9-1945), Nhà nước Việt Nam được
tổ chức theo mô hình cộng hoà với bản chất cơ bản là nhà nước đơn
nhất; quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia. Điều 2, Hiến
pháp năm 1992(sửa đổi năm 2001) đã ghi: “ Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà
nền tảng là là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hành các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Như vậy, việc phân cấp quản lí nhà nước phải dựa trên nguyên


tắc: quyền lực nhà nước ở Việt Nam là thống nhất, không phân chia,
nhưng có sự phân công, phân cấp và phối hợp việc thực thi các ngành
quyền lực nhà nước giữa hệ thống các cơ quan nhà nước.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm, hình thức, cơ hội và thách thức về phân cấp quản lí
nhà nước:
1. Khái niệm về phân cấp quản lí nhà nước (NN) giữa trung ương
và địa phương:
Phân cấp là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ,
quyền hạn cho từng cấp hành chính để việc quản lý đất nước được thuận
lợi và hiệu quả hơn. Bản chất của phân cấp là việc cấp trên chuyển giao
những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định do mình đang nắm giữ và thực
hiện cho cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng
phương thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc bằng cách
chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết
định cụ thể.
Nội dung của phân cấp là giao cho các cấp chính quyền, các bộ
phận trong bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện,
2
giải quyết những công việc nhất định của nhà nước. Những nhiệm vụ,
quyền hạn được giao cho các cơ quan nhà nước mỗi cấp được xác định
sao cho hợp pháp và hợp lý, căn cứ vào vị trí, tính chất và chức năng của
chúng trong bộ máy nhà nước thể hiện dưới dạng các quyền, trách
nhiệm của cơ quan nhà nước đó. Cụ thể là:
+ Quyền, trách nhiệm về các công việc quản lý hoặc quyền cung
ứng các dịch vụ công trong những lĩnh vực, với quy mô nhất định theo
nguyên tắc các công việc được trao trọn gói cho từng cấp quản lý, có
nghĩa là, việc của cấp này sẽ không thuộc việc của cấp khác.
+ Để thực hiện các quyền, các công việc tương ứng thì từng cấp
được trao quyền về ngân sách, tài chính độc lập với cấp khác.

+ Quyền về tổ chức nhân sự để đảm bảo việc thực hiện các
nhiệm vụ, công việc quản lý hoặc cung ứng các dịch vụ công do mình
đảm nhiệm.
Phân cấp thực chất là trao cho từng cấp hành chính- lãnh thổ
những quyền tự quyết định, tự quản lý những công việc cụ thể nhất định
trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các cấp chính quyền có
những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và nguồn lực của mình tùy
theo khả năng thực tế của địa phương để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được trao. Nhiệm vụ, quyền hạn tự quyết đó được thực hiện thông qua
các pháp nhân công quyền như cơ quan đại điện, cơ quan hành chính…
Chẳng hạn như ở nước ta là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các
cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên hoạt động của các
cơ quan chính quyền địa phương vẫn phải luôn đặt dưới sự kiểm tra,
giám sát cần thiết của các cơ quan chính quyền trung ương.
Phân cấp thường được thực hiện ở các phương diện cơ bản như:
Phân cấp về chính trị; phân cấp về hành chính; phân cấp về tài chính;
phân cấp về kinh tế… Tùy theo mỗi quốc gia và tùy theo từng giai đoạn
mà việc phân cấp được tiến hành ở những phương diện nào và đến đâu.
- Phân cấp về chính trị: Là việc chuyển giao thẩm quyền ban
hành quyết định cho các cấp chính quyền bên dưới, khuyến khích công
dân và đại biểu dân cử tham gia nhiều hơn vào các quá trình ra quyết
định.
- Phân cấp hành chính liên quan đến việc gthực hiện các chức
năng quản lí hành chính NN của các cơ quan thực thi quyền hành pháp.
- Phân cấp tài chính là trao cho chính quyền địa phương các
cấp nhiệm vụ, quyền hạn nhất định về thu, chi ngân sách địa phương.
Tạo cho chính quyền địa phương được phân cấp có thể chủ động, hiệu
quả hơn trong việc tạo và sử dụng nguồn lực cho các hoạt động được
phân cấp.
3

-
2. Cơ hội và thách thức của phân cấp quản lí NN giữa trung ương
và địa phương
* Cơ hội
-Việc phân cấp quản lí NN giữa trung ương và địa phương: Một
mặt, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính
quyền nhà nước; mặt khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và
thông suốt của chính quyền trung ương, tăng cường kỷ luật, kỷ cương để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu
và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở từng địa phương phát
triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương trong một nhà
nước thống nhất. Do vậy, việc phân cấp hợp lý, chính xác sẽ có những
tác dụng tích cực như:
- Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những
cơ hội tốt hơn để người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các
quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước các cấp.
-Tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công cho
nhân dân thông qua việc ủy quyền cho chính quyền địa phương thực thi
chức năng cung cấp dịch vụ công, từ đó hạn chế sự quan liêu và trì trệ
của các cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan trung ương.
- Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ công
được cung cấp cho người dân dựa trên trách nhiệm giải trình và sự nhạy
cảm trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của dân chúng của chính
quyền địa phương.
- Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu
chính xác điều kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư…
của chính quyền địa phương, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có
những chính sách đúng đắn cho việc phát triển đó, phát huy được thế

mạnh của mỗi địa phương.
- Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và
năng lực giải quyết các công việc của các cơ quan chính quyền địa
phương.
- Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia
thông qua việc cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và
hiệu quả hơn các chương trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền
nhà nước ở địa phương thuộc các cấp khác nhau.
4
- Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội…
mới nảy sinh, từ đó có được những chương trình, hoạt động quản lý nhà
nước có tính sáng tạo hơn đối với mỗi địa phương.
*Thách thức:
- Thông qua việc trao cho những người cầm quyền ở địa phương
nhiều quyền lực hơn, nhiều khi vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính
quyền trung ương có thể dẫn đến làm tổn hại nền dân chủ xã hội.
- Làm giảm hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công cho các tổ
chức và cá nhân do thiếu sự kiểm soát và giám sát có hiệu quả việc thực
thi chức năng này từ phía các cơ quan cấp trên, cơ quan trung ương.
- Chất lượng của những dịch vụ công được cung cấp cho người
dân bị ảnh hưởng vì chính quyền địa phương thiếu năng lực hoặc những
nguồn lực cần thiết để đảm bảo việc cung cấp những dịch vụ đó.
- Làm tăng nguy cơ tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở các
địa phương và khả năng phát triển bất bình đẳng giữa các vùng miền,
khu vực khác nhau của đất nước, có thể gây ra những mâu thuẫn giữa
các địa phương với nhau hoặc giữa địa phương với trung ương.
- Có nguy cơ khiến các cơ quan ở các cấp chính quyền địa
phương bị quá tải vì phải thực hiện quá nhiều công việc khi nguồn nhân
lực không đáp ứng được. Hoặc làm cho đội ngũ cán bộ, công chức của
bộ máy chính quyền địa phương tăng lên quá nhiều dẫn đến lãng phí

nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước.
- Làm giảm tính sáng tạo trong quản lý nhà nước do việc trao
quyền cho những người cầm quyền bảo thủ ở một số địa phương.
II. Đẩy mạnh phân cấp quản lí NN giữa trung ương và địa phương ở
Việt Nam.
1. Khái quát chung về tình hình phân cấp quản lí NN ở Việt Nam
trong thời gian qua:
Vấn đề phân cấp quản lí NN ở Việt Nam đã được đặt ra ngay từ
những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều này
được thể hiện ngay trong những văn bản đầu tiên của chính quyền lâm
thời Việt Nam (Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 76 ngày
21/12/1945 quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban hành chính nhà nước ở các địa phương). Tiếp đến là hệ thống
chính quyền địa phương được quy định trong Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992 và các luật tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay. Những năm gần đây phải kể đến Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày
5
30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục phân cấp quản lý giữa Chính phủ
và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó đã định
hướng ưu tiên phân cấp đối với các lĩnh vực như: Quản lý quy hoạch, kế
hoạch và đầu tư phát triển; quản lý ngân sách nhà nước; quản lý đất đai,
tài nguyên và tài sản nhà nước; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý
các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công; quản lý về tổ chức bộ máy và cán
bộ, công chức… Trên cơ sở các quy định của pháp luật hoạt động phân
cấp quản lí nhà nước ở Việt Nam đã được tiến hành khá thành công đáp
ứng được những nhu cầu, đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển
nhất định.
- Đất nước được phân chia thành nhiều cấp, các cấp chính
quyền đều là bộ phận cấu thành của nhà nước Việt Nam thống nhất, ở

mỗi cấp chính quyền đều có cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân. Mỗi địa phương đều có ngân
sách, song chúng phải được cơ quan đại diện cao nhất ở trung ương là
Quốc hội phê duyệt trong tổng thể ngân sách của nhà nước.
- Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Ủy ban nhân
dân) đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “ song trùng trực
thuộc”: Vừa trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cấp trên vừa trực
thuộc cơ quan đại diện cùng cấp là Hội đồng nhân dân.
Có thể nói, việc phân cấp quản lí NN giữa trung ương và địa
phương ở Việt Nam thời gian qua đã tạo ra bộ máy nhà nước khá thống
nhất từ trung ương đến địa phương, ở một mức độ nào đó là phù hợp với
điều kiện cụ thể của nước ta những năm vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được thì vấn đề phân cấp quản lí NN ở nước ta
cũng còn những hạn chế nhất định. Cụ thể là:
- Những năm trước đây do ảnh hưởng của cơ chế tập trung cao
độ dẫn đến quyền lực nhà nước tập trung vào các cơ quan trung ương
quá nhiều nên nhiều cấp, nhiều bộ phận có biểu hiện quan liêu, không
sát thực tế, thực hiện các công việc kém hiệu quả. Quá trình thực hiện
phân cấp quản lí NN còn chậm và thiếu kiên quyết, nhiều bộ, ngành còn
do dự, chưa thực sự mạnh dạn phân cấp, vẫn không muốn phân cấp,
phân quyền cho địa phương vì sợ mất quyền lực và lợi ích.
- Hệ thống chính sách, pháp luật và quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quốc gia và mô hình tổ chức chính quyền địa
phương thiếu đồng bộ và chưa rõ ràng. Điều này dẫn đến mô hình tổ
chức chính quyền địa phương ở các cấp, các địa phương gần giống nhau
dùng cho các đơn vị hành chính- lãnh thổ rất khác nhau (không có sự
phân biệt giữa chính quyền ở nông thôn với thành thị…) nên rất khó
hoạt động, chưa phát huy được thế mạnh của mỗi địa phương, hạn chế
6
tính đa dạng trong sự phát triển của các địa phương. Tương tự như vậy,

mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ cũng chưa được quy
định rành mạch, cụ thể.
- Thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương được phân định không rõ, quyền lực không đủ mạnh, các điều
kiện về tổ chức cán bộ, tài chính, ngân sách, cơ sở vật chất để thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp của chính quyền địa phương
chưa bảo đảm. Các cơ quan chính quyền địa phương, nhất là Hội đồng
nhân dân một số cấp hoạt động mang nặng tính hình thức, hiệu quả thấp.
Nhiều cơ quan chính quyền địa phương thiếu năng động, thiếu chủ
động, thiếu sáng tạo trong công việc. Nhiều công việc cơ quan chính
quyền địa phương có khả năng giải quyết nhưng không có quyền giải
quyết, các cơ quan cấp trên không có khả năng giải quyết hiệu quả
nhưng lại có quyền giải quyết, dẫn đến nhiều công việc ùn tắc, chậm trễ,
kém hiệu quả. Do trật tự hình thành của chính quyền địa phương với
nhiều cơ chế phức tạp, tế nhị nên dẫn đến tình trạng trong bộ máy nhà
nước có biểu hiện “trên bảo nhưng dưới không nghe”
- Việc kiểm soát của chính quyền trung ương đối với hoạt động
của các cơ quan chính quyền địa phương trong quá trình phân cấp không
tốt dẫn đến nhiều địa phương lợi dụng việc phân cấp để đưa ra các quyết
sách vì lợi ích cục bộ. Chẳng hạn, thời gian qua ở nước ta có một số cơ
quan chính quyền địa phương được phân cấp đã cấp phép khai thác
khoáng sản, cho thuê đất, rừng, xây dựng sân golf hay một số dự án
khác không phù hợp, chạy theo lợi ích cục bộ mà không chú ý đến lợi
ích quốc gia, gây nên những hậu quả bất lợi cho đất nước cả trước mắt
lẫn lâu dài, không đảm bảo tính tổng thể của quy hoạch tổng thể vùng
hay cả nước. Nhiều cơ quan chính quyền địa phương được giao quyền
nhưng chưa chuẩn bị về nhân lực và năng lực để hoàn thành một số công
việc được giao. Thiết chế Hội đồng nhân dân ở Việt Nam là cơ quan đại
diện ở địa phương có chức năng quyết định những chủ trương, biện pháp
quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát

triển địa phương về kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương,
làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước Tuy vậy, về mặt
pháp lý cũng như về mặt thực tế cho thấy tính độc lập của Hội đồng
nhân dân khá hạn chế. Theo các quy định pháp luật thì thẩm quyền của
Hội đồng nhân dân khá rộng, song không cụ thể.
- Sự phân cấp mới chỉ chủ yếu là sự chuyển giao quyền hạn
từ các cơ quan trung ương cho các cơ quan nhà nước cấp tỉnh. Trong
quá trình phân cấp cũng xuất hiện xu hướng xây dựng những quy chế
7
đặc thù cho một số địa phương như quy chế đặc thù cho Thủ đô, Thành
phố Hồ Chí Minh, các khu chế xuất, khu công nghệ cao… Có thể nói
quá trình phân cấp ở Việt nam thời gian gần đây được tiến hành mạnh
mẽ hơn, song đó chỉ như là những thử nghiệm cần được nghiên cứu, rút
ra những bài học cần thiết cho quá trình này trong tương lai.
2. Xu hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp quản lí NN
giữa trung ương và địa phương ở nước ta thời gian tới:
a. Xu hướng. Hoạt động phân cấp quản lí NN ở nước ta hiện nay
cần diễn ra theo những xu hướng cơ bản sau:
- Tiếp tục hoàn thiện về mặt tổ chức các cơ quan chính quyền
địa phương theo tinh thần nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan chính quyền địa phương, tránh hình thức trong
hoạt động của chính quyền địa phương, nhất là đối với các cơ quan đại
diện (Hội đồng nhân dân).
- Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa
phương các cấp. Tạo điều kiện cho các địa phương phát huy được những
điểm mạnh, thế mạnh của mình (về dân cư, địa lý, khí hậu…) trong phát
triển.
- Bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của
trung ương, đồng thời phát huy quyền tự chủ, tính năng động sáng tạo

của chính quyền địa phương các cấp. Phân cấp nhưng phải luôn giữ cho
chính quyền trung ương vững mạnh, đủ khả năng để giải quyết những
vấn đề quan trọng của đất nước. Khắc phục tình trạng không hoặc khó
kiểm soát được của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa
phương.
- Việc phân cấp phải phù hợp với điều kiện, tiềm năng, khả
năng của mỗi địa phương, mỗi khu vực, mỗi vùng, nhưng cũng đồng
thời phải tránh tình trạng phát triển mất cân đối của cả đất nước do sự
tùy tiện phát triển quá mức của mỗi địa phương.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong sử dụng tài chính,
ngân sách, tài sản công và bố trí nguồn nhân lực, tránh lãng phí, sử dụng
kém hiệu quả hoặc để xảy ra tình trạng tham nhũng.
Vấn đề phân cấp quản lí NN giữa trung ương và địa phương ở
nước ta là vấn đề không ngừng nghỉ, sự ổn định chỉ mang tính chất
tương đối và phụ thuộc vào tình hình phát triển của đất nước ở mỗi giai
đoạn nhất định.
b. Giải pháp: Để vấn đề phân cấp quản lí NN ở nước ta được tiến
hành có hiệu quả cần chú ý các giải pháp cụ thể sau:
*Giải pháp về nhận thức.
8
+ Cần tiếp tục nhận thức đúng đắn về phân cấp quản lí NN
trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực, phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước và của mỗi địa phương. Nên sửa đổi Hiến pháp năm
1992 với việc phân định và xác định rõ chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương và như vậy, cần đổi chương IX của Hiến pháp là
chính quyền địa phương, chứ không nên dùng Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân. Theo xu hướng chung hiện nay thì cần nghiên cứu để tiếp
tục phân cấp quản lí NN nhiều hơn cho chính quyền địa phương, nhất là
tăng cường tính tự quản cho Hội đồng nhân dân để phát huy khả năng

sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền.
Tuy nhiên, không nên quan niệm tập trung là xấu, phân cấp là tốt hay
ngược lại, mà vấn đề là ở chỗ phải tập trung những gì, phân cấp những
gì, đến đâu, bao nhiêu là vừa sao cho đúng, cho phù hợp với tình hình và
điều kiện hiện nay là quan trọng nhất.
Vấn đề quan trọng nhất ở nước ta hiện nay là phân công nhiệm
vụ, quyền hạn gì? cho cấp nào? phân công đến đâu là phù hợp… để rồi
từ đó tổ chức bộ máy chính quyền mỗi cấp, mỗi đơn vị để thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn đó. Về nguyên tắc, trung ương phải nắm các vấn
đề quan trọng, có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, những vấn đề
chiến lược lớn, còn địa phương phải giải quyết những vấn đề cụ thể có ý
nghĩa địa phương, trực tiếp cung ứng những dịch vụ công cho nhân dân
một cách tốt nhất. Do vậy, trung ương nên tập trung vào xây dựng chính
sách vĩ mô, pháp luật, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về mặt thể chế,
còn mỗi địa phương được quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn được trao.
+ Việc phân cấp phải bảo đảm nguyên tắc việc của cấp này
không được trùng lặp với cấp khác, việc của trung ương không trùng với
việc của địa phương. Cần có quan niệm đúng về vị trí, vai trò, chức năng
của Hội đồng nhân dân- cơ quan quyết nghị và giám sát những loại việc
được phân cấp ở địa phương, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương để có những giải pháp củng cố thiết chế dân chủ này ở
các địa phương.
Về nguyên tắc, nếu địa phương hay cấp dưới đủ năng lực để
tiến hành các hoạt động nhà nước nào đó có hiệu quả hơn so với trung
ương, so với cấp trên thì cần mạnh dạn phân cấp cho địa phương, cho
cấp dưới để trung ương, cấp trên có điều kiện giải quyết các vấn đề vĩ
mô, mang tính chất chiến lược cho đất nước, không mất nhiều công sức,
thời gian vào những công việc mà trung ương hoặc cấp trên giải quyết ít
9

hiệu quả. Đa dạng hóa việc tổ chức chính quyền địa phương (phân biệt
giữa cơ quan chính quyền ở thành thị, nông thôn, hải đảo, vùng núi…).
+ Bảo đảm sự quản lý thống nhất từ trung ương tới cơ sở
tạo ra chính quyền thống nhất, hùng mạnh, tránh hiện tượng không kiểm
soát được đối với sự phát triển của địa phương, của chính quyền địa
phương. Quá trình phân cấp phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung
ương với địa phương theo chiều dọc, giữa các ngành theo chiều ngang.
Giữa trung ương và địa phương, giữa các ngành và các cấp chính quyền
phải luôn có sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau, kiểm tra, giám sát lẫn nhau
để cùng phát triển vì mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
+ Việc phân cấp giữa trung ương với địa phương, giữa cấp
trên với cấp dưới tất yếu sẽ dẫn đến tranh chấp về thẩm quyền, về lợi
ích. Do vậy, cần phải có cơ chế hiệu quả để giải quyết những mâu thuẫn,
tranh chấp trong quá trình nói trên.
* Giải pháp về xây dựng pháp luật.
+ Cần nhanh chóng sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các luật tổ
chức bộ máy nhà nước trên cơ sở rà soát, tổng kết đánh giá những quy
định pháp luật có liên quan đến vấn đề phân cấp, đến mối quan hệ giữa
trung ương và địa phương thời gian qua.
+ Bổ sung thêm các quy định pháp luật liên quan đến việc bảo
đảm các điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ, vật chất kỹ thuật và các
điều kiện khác để chính quyền địa phương các cấp có thể hoàn thành tốt
những nhiệm vụ, quyền hạn được trao theo tinh thần mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra là: “ xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành
cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”.[1]
+ Cần có những quy định pháp luật đầy đủ về thiết chế, về

nguyên tắc, trình tự, thủ tục để giải quyết những tranh chấp giữa trung
ương với địa phương hoặc giữa các địa phương với nhau trong quá trình
phân cấp.
* Giải pháp về đổi mới tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ của chính quyền các cấp, nhất là chính quyền địa phương các cấp.
+ Đổi mới lại tổ chức của bộ máy nhà nước:Cần nhận thức
đầy đủ và hiện thực hóa nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở tất cả các cấp của bộ máy nhà
nước.
10
Hiện nay ở Việt Nam các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện và
xã được tách ra, được thành lập thêm quá nhiều dẫn đến số lượng các
đơn vị hành chính các cấp, nhất là cấp tỉnh quá nhiều, điều này gây khó
khăn cho trung ương, cho Chính phủ trong quản lý, điều hành ở tầm
quốc gia. Cũng với chủ trương chia tách nên số lượng các bộ và cơ quan
ngang bộ trong bộ máy nhà nước ta khá nhiều nếu so sánh tương quan
với các nhà nước khác có quy mô và dân số tương đương với Việt Nam
càng làm cho việc quản lý hành chính nhà nước của Chính phủ, của Thủ
tướng Chính phủ gặp nhiều khó khăn.
Với những lý do như đã nêu trên dẫn đến các cơ quan trực thuộc
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quá nhiều. Với quá nhiều đầu mối trực
thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ làm cho hoạt động chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ gặp rất nhiều khó khăn. Tình
trạng không quản lý được hoặc quản lý lỏng lẻo trên các lĩnh vực diễn ra
khá phổ biến ở đất nước ta thời gian qua. Do vậy, cần phải: “Cơ cấu lại
bộ máy Chính phủ theo hướng giảm các đầu mối, phù hợp với yêu cầu
đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống
hành chính nhà nước các cấp, ”[2]. Cụ thể là cần phải: Giảm bớt các
Bộ và cơ quan ngang Bộ theo tinh thần là “tổ chức bộ quản lý đa ngành,

đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý” mà Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ X đã đề ra. Từ đó “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm, tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ; khắc phục tình
trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ,
ngành”.[3]
+ Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của các cơ quan
nhà nước mỗi cấp: Phân định rõ nhóm các công việc thuộc thẩm quyền
của mỗi cấp để tránh trùng lặp. Cụ thể là:
- Nhóm công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan trung
ương, nhất là liên quan đến lĩnh vực lập pháp.
- Nhóm công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan ở địa
phương, trong đó cũng phân công theo từng cấp cho phù hợp với khả
năng thực hiện.
- Nhóm các công việc có sự phối hợp thực hiện giữa trung
ương và địa phương, nghĩa là thuộc thẩm quyền của trung ương, nhưng
được thực hiện thông qua các địa phương.Do vậy, cần mở rộng nội dung
phân cấp quản lý cho các cấp chính quyền địa phương trong những lĩnh
vực có thể.
+ Xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm và trách nhiệm báo cáo
các hoạt động quản lí nhà nước. Nâng cao năng lực và tăng cường cơ
chế chịu trách nhiệm cá nhân trong việc thực thi công vụ.
11
+ Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa
phương, nhất là của chính quyền cấp cơ sở để khi phân cấp, phân quyền
cho chính quyền địa phương thì đội ngũ cán bộ, công chức này đủ khả
năng, năng lực nhằm đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động quản lí nhà
nước mang tính chất khu vực hoá, toàn cầu hoá.
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 247.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 254.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Sdd, tr. 249.
C. KẾT LUẬN:
Việc phân cấp quản lí giữa trung ương và địa phương là một vấn đề
phức tạp vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực đến sự phát
triển đất nước. Chỉ khi nào nhận thức đúng, hoạch định đúng và tổ chức
thực hiện hiệu quả thì vấn đề phân cấp quản lí NN giữa trung ương và
địa phương mới có tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước và của mỗi địa phương. Ngược lại, nếu tiến hành vội
vàng, thiếu nghiên cứu, cân nhắc đầy đủ giữa lợi với hại thì việc phân
cấp quản lí NN có thể gây ra những tác động tiêu cực, thậm chí có thể
nguy hiểm cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
Trong quá trình thực hiện việc phân cấp quản lí NN giữa trung ương
và địa phương cần khắc phục tình trạng hoạt động có tính hình thức của
Hội đồng nhân dân ở một số cấp bằng việc phân cấp cho Hội đồng nhân
dân nhiều nhiệm vụ, quyền hạn hơn theo hướng tăng cường tính tự quản
của địa phương. Trong quá trình nghiên cứu phân cấp cần tham khảo
thêm kinh nghiệm và mô hình ở các nước có điều kiện tương tự như
nước ta để việc phân cấp được tiến hành thực sự hiệu quả nâng cao hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền mỗi cấp ở nước ta.

12

×