HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
BÀI KIỂM TRA HỌC PHẦN:
QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH TỔ CHỨC CÔNG
Giáo viên bộ môn : TS. NGUYỄN THỊ HÀ
Học viên thực hiện : Đặng Hữu Phúc
Lớp : Cao học hành chính - HCC16M
Huế, tháng 4 năm 2013
Trang 1
MỤC LỤC
1. Phân tích mối quan hệ giữa đổi mới phương thức điều hành tổ chức công và Cải cách
hành chính hiện nay? 2
2. Phân tích các yếu tố cấu thành văn hoá tổ chức công và vai trò của văn hoá trong tổ
chức công? 3
Trang 2
1. Phân tích mối quan hệ giữa đổi mới phương thức điều hành tổ chức
công và Cải cách hành chính hiện nay?
Giữa đổi mới phương thức điều hành tổ chức công và Cải cách hành chính
hiện nay có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Những kết quả về cải cách thủ tục hành chính đã trực tiếp góp phần thúc đẩy
quá trình đổi mới quan hệ công tác, phương thức và lề lối làm việc của các cơ
quan hành chính nhà nước các cấp. Việc rà soát thủ tục hành chính, làm bộc lộ
nhu cầu và nội dung đổi mới quy chế làm việc của cơ quan hành chính nhà nước
các cấp theo hướng tập trung năng lực và điều kiện hoạt động vào chức năng
quản lý hành chính nhà nước; phân biệt rõ các hoạt động quản lý nhà nước với
hoạt động sự nghiệp; khắc phục cơ chế "xin - cho"; tăng cường công tác phối
hợp, bảo đảm thông tin thông suốt; hạn chế tình trạng đùn đẩy công việc. Những
kết quả về cải cách thủ tục hành chính trên thực tế là tiền đề, là điều kiện bảo
đảm để triển khai thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết công việc của
công dân, tổ chức - bước đột phá trong đổi mới phương thức, lề lối lĩnh vực của
cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Thông qua rà soát thủ tục hành chính đã
phát hiện nhiều bất hợp lý trong quy định về chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ
chức của các cơ quan trong bộ máy hành chính. Đây là những căn cứ quan trọng
để điều chỉnh nội dung chức năng nhiệm vụ, điều chỉnh sự phân công phân cấp
cũng như sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu
mối. Quá trình cải cách thủ tục hành chính, đổi mới quy trình, lề lối làm việc của
các cơ quan hành chính nhà nước một mặt vừa làm tăng nhu cầu, đòi hỏi, mặt
khác vừa tạo điều kiện để nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng chuyên môn,
trước hết là kỹ năng hành chính và trách nhiệm thực thi công vụ của đội ngũ cán
bộ, công chức. Cải cách thủ tục hành chính gắn liền với việc mở rộng tính công
khai, minh bạch của các quyết định hành chính tạo điều kiện để nhân dân và các
doanh nghiệp - các đối tượng quản lý kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan chuyên môn và cán bộ, công chức với tư cách là những chủ thể quản lý.
Chính yếu tố này góp phần hạn chế và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực,
tham nhũng, thờ ơ, vô trách nhiệm trong việc thực thi công vụ. Kết quả của công
tác cải cách thủ tục hành chính những năm qua có tác động trực tiếp đến việc đổi
mới quy trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước, trong đó có quá trình ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Trước hết là gắn mục tiêu quy định với điều
kiện bảo đảm tính khả thi, chú ý xử lý mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
giữa đặc điểm đặc thù của pháp luật nước ta và những vấn đề mang tính thông lệ
chung… Hay nói cách khác, Cải cách hành chính đã buộc các tổ chức hành
chính Nhà nước phải đổi mới phương thức điều hành, cách thức quản lý với mục
tiêu hiệu quả đặt lên hàng đầu.
Bên cạnh đó, Cải cách hành chính phải gắn với đổi mới phương thức điều
hành tổ chức công. Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi sự
thay đổi vai trò của Nhà nước và đẩy mạnh cải cách hành chính. Nhà nước phải
tự điều chỉnh tổ chức và phương thức quản lý thích ứng với quá trình đổi mới
phương thức điều hành tổ chức công. Mục tiêu chính của cải cách hành chính là
Trang 3
xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiện đại, đủ năng lực, sử dụng đúng
quyền lực để quản lý có hiệu lực, hiệu quả các công việc của Nhà nước. Tuy
nhiên cải cách hành chính là quá trình chuyển đổi, không chỉ gồm một vài cải
tiến cục bộ, mang tính kỹ thuật mà thường liên quan đến những vấn đề cơ bản
của hệ thống thể chế, tổ chức bộ máy và quản lý nguồn nhân lực của nền hành
chính. Cải cách hành chính vừa có tính cấp bách vừa có tính phức tạp, lâu dài
nên phải triển khai thường xuyên, liên tục. Có thể mục tiêu cơ bản không thay
đổi nhưng cách thức cải cách hành chính phải linh hoạt theo sự biến đổi của tình
thế. Nội dung tổng thể của cải cách hành chính phải gắn với mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, theo một chiến lược toàn diện, nhất quán, có sự chỉ đạo thống
nhất từ trung ương tới cơ sở, với bước đi vững chắc, có trọng tâm và phương
pháp làm điểm, nhân rộng khoa học để tránh gây xáo động, mất ổn định chính trị
- xã hội. Để tạo động lực cho đổi mới phương thức điều hành tổ chức công, cần
đẩy mạnh cải cách hành chính trên ba phương diện chủ yếu:
- Hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật nhằm thúc đẩy đổi mới phương
thức điều hành tổ chức công nhanh và hiệu quả phù hợp với xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế;
- Xây dựng bộ máy hành chính năng động, cởi mở, hiệu quả, nhạy bén với
yêu cầu của nền kinh tế thị trường;
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ mới.
Cải cách hành chính đã trở thành yêu cầu chung của phần lớn các nước trên
thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Mối quan hệ gắn bó hữu cơ
giữa cải cách hành chính và đổi mới phương thức điều hành tổ chức công là tất
yếu trong tổng thể đổi mới đất nước. Sự gắn bó ấy diễn ra trên nhiều mặt, đòi
hỏi một loạt các biện pháp cải cách liên hoàn về hoàn thiện hệ thống thể chế,
thực hiện quản lý theo pháp luật, tổ chức hệ thống các cơ quan hành chính, và
tăng cường năng lực cho cán bộ, công chức để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy nhà nước. Cải cách hành chính tạo động lực để đổi mới phương
thức điều hành tổ chức công, hoàn thiện nền hành chính nhằm thích ứng với quá
trình hội nhập nền kinh tế thị trường. Đổi mới phương thức điều hành tổ chức
công và cải cách hành chính phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam; đồng thời kế
thừa có chọn lọc các mô hình quản lý tiên tiến trên thế giới, từ đó huy động mọi
nguồn lực và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để phát triển đất nước.
2. Phân tích các yếu tố cấu thành văn hoá tổ chức công và vai trò của
văn hoá trong tổ chức công?
Để có thể tồn tại phát triển trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang ngày
càng trở nên gay gắt trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, mọi loại hình thiết chế
tổ chức xã hội phải tái cấu trúc lại chính mình để thích nghi và phát triển, dựa
trên cơ sở phát huy nguồn lực nội sinh và tìm kiếm, kết hợp các nguồn lực ngoại
sinh. Lý luận và thực tiễn cho thấy, văn hóa là một nguồn lực nội sinh có thể tạo
nên sự phát triển đột phá và bền vững cho một tổ chức, khi tổ chức đó biết khai
thác, vận dụng các yếu tố văn hóa vào hoạt động của mình. Với những lý do như
Trang 4
vậy, các tổ chức, đặc biệt là các tổ chức cũng cần nhận thức được vai trò quan
trọng của xây dựng văn hóa tổ chức phù hợp để nâng cao sức cạnh tranh và tạo
ra khả năng phát triển bền vững.
Khái niệm "văn hóa tổ chức" (Organization Culture) được tổng - tích hợp
từ hai khái niệm "văn hóa" và "tổ chức”. Xét trong khuôn định nghĩa văn hoá tổ
chức thì văn hóa được hiểu là những hành vi ứng xử, thái độ, suy nghĩ của con
người, trình độ văn hóa, giao tiếp của con người trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Và tổ chức công là một bộ phận hợp thành tất yếu của thiết chế bộ máy
quản lý nhà nước, luôn gắn với một chức năng chuyên biệt, đảm bảo thông tin
cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, nơi phối hợp hoạt động thực hiện
một nhiệm vụ được nhà nước giao. Vậy thì, ta có thể hiểu văn hoá tổ chức công
là một hệ thống những giá trị, những niềm tin, sự đối xử, giao tiếp của các thành
viên trong tổ chức được hình thành trong quá trình hoạt động của tổ chức công,
tạo nên niềm tin giá trị về thái độ của các nhân viên làm việc trong tổ chức công,
ảnh hưởng đến cách làm việc trong tổ chức.
(1) Các yếu tố cấu thành văn hoá tổ chức công rất đa dạng, phong phú
và mỗi yếu tố đều có ảnh hưởng nhất định tới tâm lý, thái độ, tinh thần trách
nhiệm của cán bộ, công chức. Có một số cách để phân loại các yếu tố cấu thành
văn hóa tổ chức, như yếu tố vật thể, phi vật thể; khách quan hay chủ quan Tuy
nhiên, ta sẽ phân loại các yếu tố cấu thành văn hoá công sở thành yếu tố cấu
thành bên trong và bên ngoài công sở.
* Các yếu tố bên trong cấu thành văn hoá tổ chức công bao gồm:
- Con người: là nhân tố quan trọng và then chốt nhất. Trong các nguồn
lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học - công nghệ,
nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những
nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được
phát huy. Văn hoá là thứ được tạo ra bởi con người, được nhận thức và biến đổi
cũng bởi con người. Con người tác động đến việc hình thành văn hóa công sở thì
đồng thời văn hóa công sở với những giá trị bền vững của nó sẽ tác động trở lại
đối với việc hoàn thiện nhân cách, phẩm chất, năng lực của mỗi cá nhân tồn tại
trong nó. Giá trị văn hoá tổ chức được hình thành từ mối quan hệ giữa các thành
viên trong tổ chức mà bản chất cũng chỉ là mối quan hệ giữa con người với nhau
trong khuôn khổ thiết chế tổ chức, công việc… Mối quan hệ đó có thể mang tính
thoả hiệp hay xung đột, được tiết chế bằng quy định tổ chức tạo nên động lực
cạnh tranh và hình thành giá trị văn hoá cho tổ chức.
-Thể chế: Văn hoá tổ chức, đặc biệt là tổ chức công không thể hình thành
một cách tự phát giữa mối quan hệ các cá nhân trong tổ chức mà được hình
thành thông qua các hoạt động, thể chế của tổ chức. Thực tiễn cho thấy hệ thống
thể chế, đặc biệt là thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành chính, thể chế
văn hoá tác động rất sâu sắc đến việc hình thành và hoàn thiện văn hoá tổ chức.
Thể chế trong tổ chức công đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo
các hoạt động của tổ chức giữa các cá thể, bộ phần trong tổ chức.Thể chế được
ví như đường “trung đạo”, “xương sống” cho các hoạt động kỉ luật của tổ chức
công.
Trang 5
- Điều kiện tài chính và vật chất của công sở: Tài chính của tổ chức
công phần lớn xuất phát nguồn ngân sách nhà nước. Nguồn tài chính trong tổ
chức công không chỉ dùng để duy trì đảm bảo các hoạt động của tổ chức mà còn
góp phần xây dựng nên văn hoá tổ chức. Bởi đặc thù tài chính trong tổ chức
công phải tuân theo các nguyên tắc: Công khai; Liên tục; Phân công rõ ràng về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận trong công
sở; Dân chủ hoá trong quá trình điều hành; Tuân thủ pháp luật. Tất cả những
nguyên tắc đặc thù này của tài chính trong khu vực công tạo cho khu vực công
một giá trị văn hoá khó mà xen lẫn với văn hoá tổ chức doanh nghiệp.
-Yếu tố tổ chức: Nền tảng văn hóa của tổ chức là yếu tố ảnh hưởng lớn
đến đạo đức, tác phong làm việc của các thành viên trong tổ chức công. Vấn đề
đạo đức và trách nhiệm của người quản lý và các thành viên trong tổ chức là
nhân tố tinh thần, tác động. Văn hóa tổ chức là cách ứng xử, giao tiếp, cách phối
hợp thực hiện công việc giữa các thành viên trong tổ chức và giữa các nhân viên
với công dân. Phải làm sao để nhân viên trong tổ chức thấy rằng họ có cơ hội để
làm việc tốt nhất. Họ tin rằng ý tưởng của mình được tính đến, họ cảm thấy
những đồng nghiệp của họ có cam kết với chất lượng. Họ tạo ra một sự liên kết
trực tiếp giữa công việc của mình với sứ mệnh của tổ chức. Tạo được niềm tin
giữa các thành viên trong tổ chức với nhau và giữa khách hàng với tổ chức đặc
biệt là coi trọng vấn đề đạo đức công vụ, nhấn mạnh nền hành chính phục vụ
nhân dân thì hiệu quả cũng như chất lượng của tổ chức công cũng theo đó mà
tăng lên.
- Thông tin: trong tổ chức công có vai trò rất khác biệt đối với thông
tin bình thường.Thông tin trong tổ chức công là tài sản của Chính phủ có giá trị
liên tục nhất. Thông tin góp phần tạo nên văn hoá tổ chức công. Bởi tuỳ theo đặc
điểm tổ chức công, mà thông tin công mang những nguyên tắc khác nhau: công
khai hay bí mật, phục vụ cho đối tượng, tầng lớp chính trị nào. Ngoài ra, văn hoá
tổ chức công như đã trình bày ở phần định nghĩa là hệ thống giá trị, niềm tin và
giá trị, niềm tin đó được cổ vũ bởi sự sự tín nhiệm của công chúng rất nhiều. Và
chính sự công khai, cung cấp thông tin đối với công chúng lại tác động ngược lại
vào sự tín nhiệm nhà nước, ảnh hưởng lên văn hoá tổ chức công.
-Mục tiêu tổ chức: Các mục tiêu được đề ra thích đáng và mức độ hoàn
thành công việc theo mục tiêu cao hay thấp. Có những trường hợp đề ra mục
tiêu quá cao trong khi tổ chức đó không có đủ điều kiện để thực hiện thì mức độ
hoàn thành công việc cũng không cao. Cho nên khi đề ra các mục tiêu cần chú ý
tới điều kiện hoàn cảnh ở trong tổ chức đó.
-Cơ cấu tổ chức: Việc sắp xếp bố trí nhân sự trong các tổ chức công có
phù hợp hay không cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng.
Nhân viên làm việc trong các cơ quan tổ chức có được sắp xếp vào đúng vị trí,
đúng ngành nghề, phù hợp với năng lực mà họ có, có phát huy được năng lực
làm việc hay không cũng là vấn đề cần chú ý vì nó liên quan đến chất lượng, đến
hiệu quả làm việc trong các tổ chức công.
* Các yếu tố bên ngoài cấu thành văn hoá tổ chức công bao gồm:
Trang 6
Môi trường chính trị, hệ thống chính sách hay hệ thống cơ sở pháp
luật của Nhà nước liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và cách thức hoạt động
của tổ chức công cho nên ảnh hưởng lên văn hoá tổ chức công.
Xu thế vận động, phát triển của thế giới: Ngày nay, sự bùng nổ của
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và giao tiếp (ICT –
Information and Communication Technology) đã khiến thế giới trở nên ‘phẳng’,
bình đẳng hơn. Điều này khiến cho cơ hội và tốc độ giao tiếp của con người
tăng vượt bậc và cách thức giao tiếp trở nên phong phú hơn rất nhiều ví dụ như
giao dịch diện tử được tăng cường (yếu tố khoa học công nghệ) Văn hóa tổ
chức công cũng là sự dung nạp những cái mới, hiện đại và phù hợp cho nên cùng
với xu thế vận động, phát triển thế giới thì văn hóa tổ chức cũng sẽ phải chắt lọc
những giá trị mới chứ không thể phủ nhận, bởi “lội ngược dòng” thì sớm muộn
cũng sẽ bị “loại bỏ” dù giá trị văn hóa trong quá khứ của nó có tốt đến đâu đi
chăng nữa.
-Các yếu tố của môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội cũng
ảnh hưởng lên văn hoá tổ chức công. Ví dụ như địa lý và khí hậu của vùng miền
khác nhau có thể có ảnh hưởng những phong cách ăn mặc hay giờ giấc hoạt
động của tổ chức công từ đấy mà hình thành nét riêng biệt tổ chức công. Ngoài
ra, các công dân tại nơi tổ chức công hoạt động ảnh hưởng lên văn hoá tổ chức
công liên quan như dân trí và dân ý và văn hóa dân tộc, văn hóa khu vực và văn
hóa của địa phương nơi công sở đóng. Ví dụ như tổ chức công đó hoạt động ở
một dân tộc thiểu số mà phụ nữ không được mặc áo duy nhất một áo sơ mi mà
khi mặc phải từ hai áo trở lên thì tổ chức công đó muốn hoạt động, phục vụ tại
địa bàn đó phải làm sao dung hoà với văn hoá địa phương, và có thể bị biến đổi
cho phù hợp văn hoá địa phương.
Ngoài ra, yếu tố đời sống kinh tế văn hoá của đất nước cũng như văn hóa
hành chính của hệ thống công vụ là không thể không nhắc đến khi đề cập yếu tố
cấu thành nên văn hoá tổ chức công.
Trong các yếu tố bên trong và bên ngoài cấu thành nên văn hoá tổ chức
công, có
hai điểm cần lưu ý là:
Một là, có thể nói yếu tố con người (bao gồm cả các cán bộ công chức,
các nhà quản lý, công dân, nhân viên của các tổ chức đối tác của tổ chức công)
là yếu tố mang tính quyết định. Nó quyết định việc các thời cơ được kịp thời
nắm bắt, các nguy cơ và các vấn đề được kịp thời phát hiện; các chiến lược và
bước đi cụ thể để tận dụng thời cơ, hạn chế nguy cơ, phòng ngừa rủi ro cũng như
sai lầm. Nói cách khác, nó quyết định các truyền thống của quá khứ được tiếp
nối, các sai lầm của quá khứ tránh bị lặp lại và các cơ hội của tương lại được
nghênh đón và tận dụng tốt nhất vì sự phát triển của mỗi thành viên trong công
sở, sự phát triển của công sở và lợi ích của công dân.
Hai là, trong khi có thể nhìn nhận các yếu tố trên với tư cách là các yếu
tố cấu thành nên văn hoá tổ chức công thì ta không thể bỏ qua một thực tế là
chúng cũng đồng thời là sản phẩm, là kết quả của hiệu quả điều hành tổ chức
công và tác động ngược lại lên tổ chức. Nói cách khác, ở đây luôn có mối quan
hệ hai chiều giữa hai yếu tố này.
Trang 7
(2) Từ các phân tích trên, ta có thể thấy các yếu tố cấu thành văn hóa tổ
chức công không hề đơn giản. Để có thể khơi dậy, phát huy hết nguồn nội lực
của tổ chức công thì cần xác định vai trò của văn hóa tổ chức công. Sơ lược thì
vai trò văn hóa tổ chức công bao gồm ba nội dung, đó là:
Thứ nhất, văn hóa tổ chức công cũng như ở văn hóa các lĩnh vực khác,
cũng có sự kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những tính văn hóa từ bên trong và
bên ngoài tổ chức công, từ quá khứ đến tương lai cho nên trong một chừng mực
nào đó sẽ giúp tổ chức công tạo nên những chuẩn mực, phá tính cục bộ, sự đối
lập có tính bản thể của các thành viên. Hướng các thành viên trong tổ chức công
đến một giá trị chung, tôn trọng những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực văn
hóa của tổ chức công. Đó chính là làm cho các thành viên trong tổ chức hoàn
thiện mình. Yếu tố dân tộc, hiện đại và hệ giá trị này thấm nhuần trong mỗi
thành viên tổ chức công, được chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy theo quá
trình đi lên của tổ chức công, được vật chất hoá trong các cấu trúc thiết chế hành
chính và công nghệ hành chính.
Thứ hai, trình độ học vấn và trình độ văn minh trong hoạt động của các tổ
chức
công thể hiện và chuyển hóa vào văn hóa tổ chức công.
Trong đó, trình độ học vấn và văn minh trong tổ chức công chính là trình
độ của những con người trong tổ chức ấy. Và trình độ văn minh ấy thể hiện qua
các tiêu chí, chuẩn mực trong hoạt động công sở, quan hệ ứng xử và môi trường
chính trị mang đậm màu sắc văn hoá nhân văn, nhân ái và nhân bản, với các giá
trị chân, thiện, mỹ. Cho nên, các tổ chức công rất khuyến khích, thậm chí bao
cấp việc học tập cho các thành viên là nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động của tổ
chức để từ đấy mà phát triển, nâng văn hóa tổ chức lên tầm văn minh mới.
Những kết quả của việc nâng cao trình độ học vấn và văn mình ấy là thứ tài sản
vô hình ở các tổ chức công hiện nay bao gồm các yếu tố như: thông tin khoa học
- công nghệ, tổ chức bộ máy và nghệ thuật quản lý, sự tín nhiệm của nhân dân
đối với cán bộ, công chức nhà nước. Những điều này có thể coi là sự chuyển hoá
các năng lượng tinh thần của con người vào hoạt động tổ chức công, đó chính là
văn hoá trong tổ chức công.
Thứ ba, vai trò của văn hóa thể hiện là nền tảng mang tính nhân bản
(chân),
tính nhân ái ( Thiện), tính nhân văn ( Mĩ) trong tổ chức công.
Tính nhân bản biểu hiện qua giá trị của "cái thật" trong hoạt động tổ chức
công, đó là: giá trị của cái đúng, của chân lý; giá trị của tri thức khoa học, sự
hiểu biết, trí tuệ; giá trị của các qui phạm pháp lý, các qui phạm đạo đức, hướng
về cội nguồn của mỗi cán bộ, công chức. Tất cả các giá trị ấy là giá trị đặc thù
bắt buộc trong tổ chức
công.
Văn hóa là chiếc nôi nuôi dưỡng giá trị "cái thiện" trong hoạt động công
sở với hệ thống giá trị của cái tốt, của lương tâm, đạo đức và tâm hồn cao đẹp
của mỗi cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Sự vô cảm giữa con người
với con người là thiếu đi lòng trắc ẩn, ít chịu lắng nghe, ít chịu thấu hiểu và
Trang 8
thiếu sự chia sẻ trong công việc. Các căn bệnh tham nhũng, quan liêu, cửa
quyền, hách dịch, đố kỵ, hẹp hòi, vị kỷ, níu chân, kéo áo nhau ngày càng trở nên
trầm trọng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức…đều là biểu hiện
của phi văn hóa, phản giá trị. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh thì
không có sự phát triển công sở bền vững. Vận dụng các yếu tố văn hoá trong
việc thúc đẩy mọi hoạt động của công sở như có hệ thống khuyến khích thi đua
khen thưởng, tạo ra bầu không khí làm việc thoải mái, sẽ kích thích mọi người
hăng say làm việc. Ngoài ra , khả năng phát triển của trí tuệ, của khoa học -
công nghệ là điều kiện giải phóng và phát triển con người.
Và từ cái “Chân”, “Thiện” ấy mà ta hướng đến cái “Mĩ”. Cái đẹp được
biểu hiện trong văn hóa tổ chức công là vẻ đẹp hành vi, ngôn ngữ ứng xử, diện
mạo, trang phục của công chức trong thi hành công vụ. Đồng thời cũng thể
hiện ở việc bố trí trụ sở làm việc khoa học, văn minh, khang trang, sạch đẹp,
thuận tiện, đủ ánh sáng, trang trí, cây cảnh v.v bố trí phòng làm việc minh
bạch, lịch sự, trang trọng của nơi công quyền.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của toàn cầu hóa kinh tế, và môi trường
hoạt động đa văn hóa, chúng ta có thể khẳng định rằng, xây dựng văn hóa tổ
chức là một trong những vấn đề quan trọng đối với sự phát triển bền vững của
mỗi tổ chức. Do vậy, các tổ chức cần phải nhận thức được vai trò của việc xây
dựng và phát triển văn hóa tổ chức phù hợp; có như vậy mới phát huy được sức
mạnh tổng hợp; khai thác các yếu tố văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh; đồng thời khắc phục những xung đột, mâu thuẫn mà cốt lõi của nó là sự
khác biệt về văn hóa.