Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

đề xuất giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương ở việt nam trong thời gian tới_3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.74 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
o0o
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Nội dung:
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC GIỮA TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Giáo viên hướng dẫn: TS Hoàng Mai
Học viên: Trần Thị Hồng Minh
Lớp: CHHCC 16M
Huế, 01-2013
LỜI MỞ ĐẦU
Cải cách hành chính đã trở thành một chương trình cấp thiết, thường xuyên,
lâu dài và bền bỉ của các Chính phủ ở nhiều khu vực nói chung và khu vực Đông
Nam Á nói riêng trong vài thập kỷ gần đây. Đối mặt với làn sóng nhu cầu kinh tế
và tiến bộ xã hội ngày càng tăng lên, và trước sự mong muốn ngày càng lớn về một
chất lượng cuộc sống tốt đẹp hơn của mọi tầng lớp dân cư, nhiều Chính phủ đã chủ
động thực hiện những sáng kiến cải cách để đạt được hiệu quả, hiệu suất và khả
năng đáp ứng trong hệ thống hành chính của mình. Trong đó, phân cấp quản lý đã
trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng của nhiều quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển. Kinh nghiệm ở các nước đạt nhiều thành công trong cải
cách hành chính cho thấy, với mục đích phân chia quyền lực, nâng cao khả năng
giải quyết các vấn đề, cũng như thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức địa phương,
phân cấp quản lý được coi là một trong những lĩnh vực có tác động mạnh mẽ đến
các hoạt động chính trị trong nước và thu hút nhiều sự quan tâm của các hoạt động
hợp tác phát triển.
Phân công, phân cấp trong hoạt động quản lý nhà nước là một chủ trương
lớn, nội dung quan trọng được đề cập một cách có hệ thống và nhất quán trong các
văn kiện của Đảng ta thời gian gần đây. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp


hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) đề ra phương hướng “phân định trách nhiệm,
thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ”. Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định “phân công, phân cấp, nâng
cao tính chủ động của chính quyền địa phương” và “phân cấp mạnh và toàn diện
giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước” là một trong những định hướng
nhằm cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế đã tạo ra
những tiền đề và đòi hỏi đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý giữa Trung ương
và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương nhằm phát huy mạnh mẽ
hơn tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền
địa phương các cấp trong quản lý, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn.
2
NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Việc phân cấp nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương ở
Việt Nam đã được hình thành từ thời kỳ đầu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Ngày 18 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch nước đã ký Sắc lệnh số 73/SL-
CTN trao quyền quyết định mức thu thuế nhà nước cho các khu và cho phép chính
quyền các khu được sử dụng số thuế đó để bảo đảm chi cho bộ máy và đóng góp
cho TW. Tiếp đó, trong gần nửa thế kỷ, cả thời kháng chiến cũng như thời xây
dựng hòa bình, Nhà nước ta đã nhiều lần thực hiện phân cấp. Song trong quá trình
phát triển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, nói chung các quyết
định được tập trung về trung ương. Đến những năm 1990, cùng với sự nghiệp đổi
mới kinh tế và cải cách nền hành chính, việc phân cấp được đặt lại và từng bước
được nâng dần theo sự phát triển của công cuộc đổi mới kinh tế và hành chính của
đất nước.
1.1. Những chủ trương và cơ chế về phân cấp giữa Chính phủ và chính quyền

địa phương.
Bước vào những năm đầu khởi xướng sự nghiệp đổi mới về kinh tế, Nghị
quyết Đại hội VI của Đảng chỉ mới quy định " có sự phân định rành mạch nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ ". Nghị
quyết hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành TW khoá VII đã nêu rõ "Phân định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền. Tập trung vào trung ương quyết
định những vấn đề vĩ mô. Đồng thời phân cấp quản lý để phát huy tính chủ động và
tinh thần trách nhiệm của chính quyền địa phương";
Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành TW khóa VIII quy định cụ
thể hơn " việc nào do cấp nào giải quyết sát với thực tế hơn thì giao cho cấp đó"
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới
và đề ra nhiệm vụ phân cấp giữa trung ương và địa phương rõ nét hơn: "Thực hiện
mạnh mẽ việc phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập
trung, thống nhất trong việc ban hành thể chế. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn
của từng cấp, từng tổ chức, từng cá nhân. Đề cao trách nhiệm cá nhân, khen
thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đảy trách
nhiệm gây khó khăn, chậm trễ trong công việc và giải quyết khiếu nại của dân "
Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Chính phủ đã xây dựng và ban
hành Chương trình Tổng thể Cải cách hành chính 2001-2010: "Đến 2005, về cơ bản
ban hành xong và áp dụng các quy định mới về phân cấp trung ương - địa phương,
phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách
nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của
chính quyền địa phương trước nhân dân. Gắn phân cấp công việc với phân cấp tài
chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết
3
định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của TW và những
việc phải thực hiện theo quyết định của trung ương". Và, đến Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP, ngày 30 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là NQ
08) về "tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương", thì có thể nói đã có một bước tiến

quan trọng về thể chế hoá việc phân cấp giữa trung ương và địa phương.
Nghị quyết 08 của Chính phủ đã tham khảo kết quả Dự án Điều tra cơ bản
"về chức năng, nhiệm vụ và phân công, phân cấp quản lý nhà nước trung ương-địa
phương" của Ban Tổ chức -Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), khái quát tình
hình phân cấp trong những năm vừa qua, quy định rõ mục tiêu, quan điểm, nguyên
tắc và định hướng phân cấp. Từ 35 khuyến nghị của Dự án, Chính phủ đã nêu rõ 6
lĩnh vực quan trọng cần phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh: quy hoạch, kế hoạch và
đầu tư phát triển; quản lý ngân sách nhà nước; quản lý đất đai tài nguyên, tài sản
nhà nước; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý hoạt động sự nghiệp dịch vụ
công; quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức.
Như vậy, sau một thời gian nhất định, nhận thức và quyết tâm chính trị cũng
như thể chế hoá về phân cấp trung ương - địa phương càng rõ hơn, mạnh mẽ hơn và
cụ thể hơn.
1.2. Những lĩnh vực đã được phân cấp giũa Chính phủ và chính quyền cấp
tỉnh
Trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, với mức độ khác nhau, đều có sự phân cấp giữa Chính phủ
và các cấp chính quyền ở địa phương. Mức độ và phạm vi phân cấp của mỗi lĩnh
vực đều dựa trên nguyên tắc rất cơ bản là, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
vĩ mô mọi lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật và chính sách nhất quán, đồng bộ; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện. Sự
phân công, phân cấp là để định rõ thẩm quyền và trách nhiệm, đồng thời phát huy
tính chủ động, sáng tạo, phát huy lợi thế và vị trí của mỗi cấp trong hệ thống hành
chính nhà nước theo sự quản lý thống nhất của Chính phủ.
- Quy hoạch và kế hoạch
Trước yêu cầu bức xúc của cuộc sống, mỗi hộ gia đình đã trở thành một đơn
vị kinh tế tự chủ, sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá các
hình thức sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, sự quản lý tập trung và điều
hành bằng mệnh lệnh hành chính không còn hiệu lực. Cách kế hoạch hóa từ sản
xuất cho đến lưu thông, phân phối sản phẩm đều do trung ương quyết định, địa

phương chỉ biết chấp hành và thực hiện theo mệnh lệnh hành chính và sự điều hành
của trung ương, của cấp trên, không còn phù hợp. Cùng với từng bước đổi mới kinh
tế, công tác quy hoạch, kế hoạch đã dần dần được cải tiến, và có lẽ cũng là lĩnh vực
được phân cấp sớm cho chính quyền địa phương.
Từ chỗ tất cả các quy hoạch của địa phương cấp tỉnh đều phải được Chính
phủ phê duyệt, kế hoạch các cấp chính quyền ở địa phương được xây dựng trên cơ
sở hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh của trung ương, của cấp trên giao, đến nay, Thủ
tướng Chính phủ chỉ phê duyệt quy hoạch phát triển ngành và các vùng kinh tế
trọng điểm, các tỉnh và thành phố trong các vùng kinh tế trọng điểm. Các tỉnh,
thành phố còn lại được chủ động hoàn toàn về xây dựng và quyết định quy hoạch
4
phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, của các tiểu vùng lãnh thổ thuộc tỉnh, của các
đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các vùng kinh tế công nghiệp, các khu công
nghiệp (trừ một số khu công nghiệp lớn, tập trung do trung ương quyết định), nông
nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ; quy hoạch xây dựng nông thôn, xây dựng đô
thị loại III trở xuống. Trong công tác kế hoạch, đã hủy bỏ việc cấp dưới bảo vệ kế
hoạch trước cấp trên, cấp trên giao chỉ tiêu pháp lệnh cho cấp dưới. Đến nay, kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội của cấp nào do cấp đó quyết định, kể cả kế hoạch
hàng năm và kế hoạch 5 năm.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở
Có thể nói đây là lĩnh vực phân cấp khá mạnh. Trước đây mọi công trình xây
dựng đều được quyết định bởi trung ương, trực tiếp là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ
giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các công trình nhóm C trở
xuống, nhưng phải có sự thỏa thuận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi quyết
định. Nay phân cấp cho cấp tỉnh quyết định các dự án nhóm B, và một số công
trình, một số dự án nhóm A không thuộc diện có tính kỹ thuật phức tạp và công
nghệ cao cũng đã phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh quyết định.
- Về ngân sách
Trong các nhiệm vụ được phân cấp thì nhiệm vụ này được quan tâm nhiều
nhất. Từ chỗ căn cứ vào dự toán thu chi được duyệt, các nguồn thu có được trên địa

bàn, thừa rút về trung ương, thiếu trung ương cấp bù, đến nay việc phân cấp ngân
sách giữa trung ương và địa phương đã được Luật Ngân sách quy định theo hệ
thống ngân sách nhà nước 4 cấp. Mỗi cấp được xác định nguồn thu và nhiệm vụ chi
rõ ràng, ngân sách trung ương chỉ hỗ trợ ngân sách địa phương trên cơ sở số dân,
địa lý hành chính và tính chất công việc, và hỗ trợ ổn định từ 3 đến 5 năm, tạo điều
kiện cho các cấp chính quyền chủ động về ngân sách, phát triển và nuôi dưỡng
nguồn thu để tăng ngân sách địa phương phục vụ cho nhu cầu xây dựng kết cấu hạ
tầng. Chỉnh phủ điều hành ngân sách trung ương theo quyết định của Quốc hội,
chính quyền cấp tỉnh quyết định việc điều hành ngân sách địa phương. Theo quyết
định của HĐND, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được thực hiện một số chế độ, tiêu
chuẩn định mức chi tiêu ngân sách, quyết định một số loại phí, mức phí và các
khoản đóng góp của dân trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
- Về quản lý đất đai, tài nguyên, tài sản
Đây là khâu yếu nhất trong quản lý tài sản công của các cấp chính quyền địa
phương trước đây, bởi nhiệm vụ này tập trung quá cao về trung ương. Hiện nay,
theo Luật Đất đai mới được ban hành, đã có sự phân định trách nhiệm và thẩm
quyền quản lý đất đai, tài sản công giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa
phương. Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi
cả nước, quyết định phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đai của các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Chính quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ quản lý trực
tiếp đất đai, tài sản công trên địa bàn. Theo đó, sau khi được Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định kế hoạch sử dụng đất, Uỷ ban nhân cấp tỉnh thực hiện việc định
hạng mức cho thuê đất, giao đất, thu hồi đất, định giá đất trong khuôn khổ quy định
chung của Chính phủ, và quản lý, sử dụng, khai thác quỹ đất công. Chính quyền các
cấp trực tiếp chịu trách nhiệm và quản lý sự biến động của đất đai trên địa bàn. Sự
biến động đó phải được cập nhật lưu giữ trên sổ sách cũng như trên thực địa.
5
Hiện nay Chính phủ đã có Nghị quyết 08 và đang xúc tiến tạo lập thể chế để
xác định quyền tài sản của mỗi cấp chính quyền địa phương, theo đó có tài sản cấp
tỉnh, tài sản cấp huyện và tài sản cấp xã.

- Về quản lý doanh nghiệp nhà nước
Với tư cách là đại diện chủ sở hữu, chính quyền cấp tỉnh được sắp xếp, tổ
chức lại doanh nghiệp nhà nước thuộc quyền quản lý, thành lập mới các doanh
nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền của tỉnh xét thấy có đủ điều kiện và thật sự cần
thiết. Đồng thời, chính quyền tỉnh là đại diện chủ sở hữu về vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp.
- Về quản lý các tổ chức hoạt động dịch vụ công
Theo Nghị quyết 08 của Chính phủ, phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh được
sắp xếp, tổ chức lại hệ thống các tổ chức sự nghiệp cho phù hợp với thực tế của địa
phương; quyết định tổng biên chế và bố trí cán bộ, viên chức sự nghiệp trong các
đơn vị sự nghiệp thuộc cấp tỉnh quản lý.
- Về tổ chức và nhân sự
Trước đây, khi các tỉnh cần có thêm một biên chế, cần tuyển chọn hoặc tiếp
nhận một cán bộ có trình độ cao về công tác tại địa phương…, đều phải xin trung
ương, trực tiếp là Bộ Nội vụ. Hoặc tỉnh muốn đề bạt một giám đốc sở đều phải
được sự đồng ý bằng văn bản của bộ, ngành cấp trên trực tiếp. Thực hiện chương
trình cải cách hành chính, đến nay đã phân cấp khá nhiều việc cho chính quyền địa
phương. Theo đó, về tổ chức bộ máy, ngoài những tổ chức "cứng" theo quy định
của Chính phủ, căn cứ vào hướng dẫn của trung ương, chính quyền cấp tỉnh có
quyền căn cứ vào thực tế của địa phương để quyết định thành lập hoặc giảm bớt
những tổ chức giúp việc hoặc các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công khác; xác định
tổng biên chế của các cơ quan hành chính nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định và quyết định việc phân bố cán bộ, công chức cho các cơ quan hành
chính thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, uỷ ban nhân cấp huyện, và số lượng cán bộ
chuyên trách, công chức cấp xã; quyết định chế độ thu hút cán bộ, công chức có
năng lực về làm việc tại địa phương. Bổ nhiệm giám đốc sở không cần sự thoả
thuận bằng văn bản của bộ.
1.3. Những kết quả đã đạt được; những khó khăn, trở ngại khác nhau, từ các
cơ quan trung ương, từ các cấp chính quyền địa phương trong phân cấp.
1.3.1. Những kết quả đã đạt được

Kết quả đạt được trong việc thực hiện phân cấp giữa Chính phủ và chính
quyền địa phương gắn liền với sự nghiệp đổi mới kinh tế, xã hội và công cuộc cải
cách nền hành chính nhà nước. Theo cách tiếp cận trên, có thể thấy rõ những kết
quả của phân cấp đã tác động thúc đẩy cải cải kinh tế và hành chính trong những
năm vừa qua.
- Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền ở
địa phương. Tuy nhiên mức độ chủ động của mỗi cấp cũng như mỗi đơn vị trong
cùng một cấp có khác nhau, nhưng qua những việc được phân cấp rõ ràng về trách
nhiệm và thẩm quyền, cấp nào, đơn vị nào cũng đều tỏ ra lo lắng, thấy rõ hơn trách
nhiệm của mình trước dân; Chủ động hơn trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ của địa phương về phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng; ổn định
trật tự an toàn xã hội; phòng chống thiên tai, dịch bệnh cũng như các vấn đề về xã
6
hội khác; Khắc phục từng bước việc trông chờ, ỷ lại vào sự chỉ đạo, điều hành của
trung ương.
- Phát huy và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực tại chỗ cả về vật chất, tinh
thần và trí tuệ, tranh thủ nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài, để phát triển
kinh tế, xã hội, tăng nguồn thu ngân sách trên địa bàn.
- Nhiều địa phương đã huy động tối đa nguồn vốn theo phương thức "nhà
nước và dân cùng làm" trong xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất cũng như phúc
lợi xã hội, tạo cơ sở và tiền đề cho kinh tế, xã hội phát triển. Đặc biệt là xây dựng
đường sá giao thông, hệ thống điện, nước sản xuất và nước sinh hoạt, trường học,
trạm y tế, chợ, cơ sở vui chơi, giải trí; phát triển các khu đô thị ở thành phố, thị xã,
thị trấn, thị tứ, làm thay đổi bộ mặt thành thị và nông thôn trên địa bàn.
- Trên lĩnh vực kinh tế, gần như địa phương nào cũng chủ động phát huy lợi
thế riêng có của mình, khai thác tiềm năng đất đai, lao động cơ cấu lại kinh tế trên
địa bàn, phát triển các ngành nghề, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển
thương mại, dịch vụ, du lịch… sát hợp với thực tế hơn. Ngoài các khu công nghiệp
tập trung, khu kinh tế động lực của trung ương, đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương đều có các khu công nghiệp và tranh thủ được các nguồn vốn

đầu tư của trong nước cũng như từ nước ngoài và phát triển doanh nghiệp, tạo nên
sự sôi động trong sản xuất, kinh doanh trên từng địa bàn.
- Việc thu, chi và quản lý ngân sách ở các địa phương có tiến bộ rõ. Hầu hết
các địa phương đều thông qua phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, nuôi dưỡng
và tăng thêm nguồn thu, thực hiện việc chi ngân sách chủ động, kịp thời và có hiệu
quả hơn.
- Về các nhiệm vụ khác như y tế, giáo dục, bảo vệ tài nguyên rừng, các công
trình thuỷ, các khu di tích lịch sử, cũng như các chương trình và dự án về xoá đói,
giảm nghèo, bảo vệ môi trường được phân cấp, nhiều địa phương đã thực hiện có
hiệu quả; các nhiệm vụ phòng, chống thiên tai, dịch bệnh được giải quyết kịp thời
và nhanh chóng, đặc biệt là khi phân cấp cho chính quyền tỉnh được quyết định sử
dụng nguồn kinh phí dự phòng phục vụ cho các yêu cầu đột xuất.
- Đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền có bước trưởng thành, qua thực thi các
nhiệm vụ được phân cấp, qua thực hiện các biện pháp quản lý nền kinh tế thị
trường ở từng địa phương. Nhiều địa phương đã bộc lộ rõ năng lực, trách nhiệm và
tính năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ địa phương. Mỗi nơi có những đặc
điểm và điều kiện cụ thể khác nhau, nhưng số đông các địa phương đã có những
bước tiến mới.
- Hội đồng nhân dân bước đầu hoạt động có thực quyền hơn. Những công
việc đã phân cấp cho chính quyền địa phương, nhất là về đầu tư, về quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, thu, chi ngân sách… đều do Hội đồng nhân dân quyết định, nên
thực quyền của cơ quan dân cử được nâng lên. Và người dân có thêm cơ hội để
tham gia bàn và quyết định những nhiệm vụ quan trọng của địa phương, tính công
khai, minh bạch từng bước được thực hiện. Dân bắt đầu có sự quan tâm đến những
hoạt động của HĐND ở địa phương. Nhờ đó vai trò cũng như trách nhiệm của cơ
quan dân cử và tính dân chủ được cải thiện so với trước, hạn chế sự tuỳ tiện trong
việc quyết định các vấn đề quan trọng của nhân dân ở địa phương.
7
- Qua phân cấp, chính quyền địa phương đã bảo đảm được nhiều công việc
mà trước đây các cơ quan trung ương phải lo, phải làm; các cơ quan trung ương có

điều kiện hơn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước vĩ mô, ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật, giải quyết các vấn đề đối ngoại trong các mối quan hệ
quốc tế và khu vực, phục vụ cho nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.2. Những vấp váp và trục trặc trong thực hiện phân cấp
Bên cạnh những kết quả bước đầu, đang xuất hiện những vấp váp và trục trặc
cần được nghiên cứu, khắc phục để thúc đẩy công tác phân cấp đúng hướng, đạt
mục tiêu và hiệu quả cao hơn, bền vững hơn.
Một là, có những việc rất cần cho người dân, cho doanh nghiệp nhưng chưa
được phân cấp, hoặc phân cấp không rõ ràng, như việc tổ chức và hoạt động của
các đơn vị dịch vụ công bao gồm, giáo dục phổ thông, dạy nghề; y tế; các dịch vụ
phục vụ cho sản xuất như khuyến nông, khuyến công, khuyến ngư, bảo vệ thực vật
và phòng chống dịch bệnh. Đặc biệt là về vấn đề giải quyết các công việc cho dân
thông qua các thủ tục hành chính, nhiều việc đáng được phân cấp sớm cho chính
quyền cấp cơ sở nhưng vẫn còn rất chậm trễ. Kết quả phân cấp mà người dân mong
đợi là được tiếp cận với chính quyền tiện lợi hơn, dễ dàng hơn khi có công việc thì
chưa đạt được nhiều.
Hai là, trong thực hiện phân cấp ở cả tầm vĩ mô và vi mô từ thể chế cho đến
tổ chức thực hiện còn có những khập khiễng.
- Về thể chế, Nhà nước ta thực hiện quản lý thống nhất, thông qua hệ thống
thể chế, địa phương chỉ cụ thể hoá và vận dụng thực hiện trong khuôn khổ của thể
chế nhà nước trung ương đã quy định. Nhiều việc phân cấp cho địa phương nhưng
thể chế chưa có hoặc có chưa đủ rõ. Ví dụ như, chủ trương xoá bỏ sự phân biệt kinh
tế trung ương và kinh tế địa phương; xoá bỏ chế độ cấp hành chính chủ quản đối
với doanh nghiệp nhà nước; cơ chế hoạt động của các loại hình tổ chức dịch vụ
công trước hết là giáo dục, y tế; nội dung quản lý nhà nước, thẩm quyền và trách
nhiệm của mỗi cấp chính quyền ở địa phương; tính chất và vị trí của mỗi cấp trong
hệ thống 4 cấp ngân sách, 4 cấp kế hoạch Thực tế những bất cập về thể chế đó là
những vấn đề cơ bản làm trở ngại đáng kể cho việc phân cấp, hoặc phân cấp chắp
vá, thiếu cơ sở khoa học và tính bền vững.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng quy hoạch của chính quyền địa phương trước

hết là thể hiện quy hoạch của trung ương trên địa bàn, đặc biệt là quy hoạch về kết
cấu hạ tầng. Chúng ta đã phân cấp cho địa phương quyết định quy hoạch, kế hoạch,
trong khi quy hoạch của trung ương, đặc biệt là quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ thuật
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quy hoạch ngành chưa được
xác định và công khai. Khi TW thay đổi hoặc mở rộng quy hoạch, địa phương hết
sức khó khăn, vì có những việc đã cam kết với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Về tổ chức thực hiện phân cấp, bên cạnh việc tạo động lực cạnh tranh, thi
đua phát triển, đã xuất hiện tư tưởng cục bộ, có một số địa phương cạnh tranh
không lành mạnh. Điều này được thể hiện trên một số vịêc cụ thể sau đây: Trong
lĩnh vực thu hút đầu tư, nhiều địa phương đã không chăm lo thực hiện tốt các quy
định trong khuôn khổ của pháp luật, tạo điều kiện cho nhà đầu tư và doanh nghiệp
làm ăn thuận lợi, mà lo bàn tính việc hạ quá khung sàn về tiền thuê đất, vượt quá
khung trần về thời gian ân hạn tiền thuê quyền sử dụng đất, thời hạn nộp thuế theo
8
quy định của luật; Tranh đua nhau phát triển các nhà máy, các khu công nghiệp,
không tuân thủ quy hoạch, như hội chứng nhà máy mía đường, bia, xi măng làm
giảm hiệu quả đầu tư và khả năng thu hồi vốn của các công trình; Đua nhau tranh
thủ các dự án đầu tư hạ tầng bằng ngân sách nhà nước, phân bổ các công trình
không theo đúng mục đích và sự cần thiết, làm tăng nhanh độ phân tán trong đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng, cảng biển nước sâu, sân bay, cảng cá, đường tránh thành
phố, thị xã… đang là hội chứng gây lãng phí và thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế
đất nước.
Ba là, tuy chưa nhiều nhưng đã xuất hiện tư tưởng mạnh ai nấy làm, chưa có
sự hợp tác chặt giữa các địa phương với các bộ, trước hết là với các đơn vị trung
ương tản quyền xuống địa phương, giữa các địa phương với nhau. Ngay giữa các
địa phương trong một vùng kinh tế động lực, sự phối hợp đang dừng lại ở mức
khuyến cáo, chưa có cơ chế phối hợp và nội dung phối hợp rõ ràng. Tình trạng chưa
nhất quán về một số nhiệm vụ giữa các cơ quan trung ương với nhau cũng đang là
những ách tắc cho địa phương trong thực hiện phân cấp, như việc kiểm định an
toàn công nghệ giữa Bộ Khoa học - Công nghệ và Bộ Lao động -Thương binh xã

hội, việc đào tạo nghề giữa Bộ Giáo dục và Bộ Lao động - Thương binh xã hội
Đó là chưa nói đến những việc tréo giò nhau giữa tỉnh và huyện. Cấp huyện cấp
đăng ký kinh doanh cho hộ gia đình, HTX, tỉnh cấp đăng ký kinh doanh cho doanh
nghiệp; cấp huyện quyết định quy hoạch chi tiết các khu chức năng trong các vùng
đô thị, các cụm công nghiệp, nhưng trước khi chủ tịch ký phải có ý kiến chấp thuận
bằng văn bản của Sở Xây dựng, Sở Công nghiệp….
1.3.3. Những trở ngại hạn chế kết quả của phân cấp
Một là, thiết chế tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà
nước đang là trở ngại lớn hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và
việc phân cấp nói riêng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thiết chế tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước ta được chia thành 4 cấp, Chính phủ và 3 cấp chính quyền địa phương.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước vĩ mô các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại,
bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ và thống nhất. Các cấp chính
quyền ở địa phương (HĐND và UBND) tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và
các văn bản của cơ quan hành chính cấp trên; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân Mỗi cấp có cùng những nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng tương
tự; thực hiện cơ chế vận hành cấp trên chỉ đạo, điều hành cấp dưới theo thứ bậc
hành chính.
Thiết chế tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 3 cấp với cơ chế vận hành
như trên có sự trùng lặp chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp. Một nhiệm vụ trên cùng
một địa bàn nhiều cấp cùng thực hiện như vấn đề quy hoạch, kế hoạch, phát triển
nông nghiệp, công nghiệp, y tế, giáo dục Hiện nay, cấp dưới chưa thể thực hiện
các quyết định của Thủ tướng Chính phủ khi chưa có sự chỉ đạo của cấp trên, làm
chậm trễ công việc và trách nhiệm không rõ ràng. Điều quan trọng hơn là thiết chế
tổ chức và cơ chế vận hành đó không bảo đảm sự thống nhất, thông suốt, nhanh,
nhạy trong quản lý nhà nước của bộ máy hành chính.
9

Do vậy, thiết chế tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy hành chính đang là vấn
đề phải được nghiên cứu, cải tiến và đổi mới.
Hai là, tư tưởng vì lợi ích cục bộ trong bộ máy công quyền còn đang rất nặng
nề. Thông thường quyền lực đi liền với lợi ích, có quyền lực của tổ chức và lợi ích
của tổ chức, quyền lực của cá nhân và lợi ích của cá nhân. Trong nền kinh tế thị
trường, quyền và lợi đang len lỏi vào trong bộ máy công quyền, đang làm cho có sự
nứu kéo, duy trì cơ chế "xin cho" để bảo vệ quyền uy và lợi ích cục bộ của các cơ
quan công quyền. Sự nứu kéo đó được thể hiện trong cả thể chế và cả tổ chức thực
hiện, cả cơ quan có thẩm quyền phân cấp và cơ quan nhận phân cấp. Thực tế cho
thấy trong những nhiệm vụ đã đuợc phân cấp thì các nhiệm vụ liên quan đến các dự
án đầu tư xây dựng các công trình, quyết định cấp phép đầu tư được thực hiện khá
nhanh chóng, những việc liên quan trực tiếp đến dân thì chậm hoặc thiếu sự tập
trung cao trong việc tổ chức thực hiện, như việc giải quyết các thủ tục hành chính,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo; các hoạt động dịch vụ công, nhất là tại các cơ sở y
tế, các tổ chức điều trị, các cơ sở phục vụ sản xuất, kinh doanh như khuyến công,
khuyến nông, bảo vệ thực vật Ngay trong những vấn đề đó, những công đoạn nào
có quyền lợi hơn thì được cố giữ (như độc quyền in, phát hành các biểu mẫu, hoá
đơn đỏ…, ở đây muốn đề cập đến việc in và phát hành, còn việc ban hành biểu mẫu
tất nhiên phải thống nhất).
Điều đáng lo ngại là tư tưởng cục bộ nói trên, cộng với tình trạng một bộ
phận cán bộ, công chức tha hoá, kém năng lực, phẩm chất và trách nhiệm, đang làm
méo mó việc thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, đang làm sâu thêm hố ngăn
cách giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân, không chỉ làm giảm kết quả của
phân cấp mà còn làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước nói chung.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
GIỮA TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
2.1. Nhận thức đúng việc phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước
Như phần trên đã phân tích, phân cấp giữa Chính phủ và các cấp chính quyền
ở địa phương là một tất yếu khách quan thúc đẩy quá trình dân chủ hoá đời sống xã
hội, ở nhà nước theo chính thể liên bang cũng như nhà nước theo chính thể đơn

nhất; là một xu thế của thời đại chống lại một nhà nước tập quyền lỗi thời với sự
phát huy quyền dân chủ trực tiếp của công dân tự quản lý, tự quyết định những
công việc của chính mình theo luật pháp.
Phân cấp nhằm bảo đảm yêu cầu tiện lợi của nhân dân trong mối quan hệ
giữa nhà nước với nhân dân; nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các
cấp chính quyền địa phương; phát huy mọi lợi thế riêng có về vật chất, tinh thần và
trí tuệ của nhân dân địa phương; bảo đảm cho nhân dân được tham gia trực tiếp với
chính quyền trong phát triển kinh tế, xã hội, trong xây dựng cuộc sống cộng đồng;
tạo động lực thi đua và hợp tác lành mạnh, thúc đẩy các địa phương cùng phát triển.
Phân cấp, thông qua việc chuyển giao những nhiệm vụ thích đáng cho cấp
dưới, nhằm phân định rõ ràng nhiệm vụ giữa các cấp, làm cho mỗi cấp đều nhận rõ
và chủ động, sáng tạo làm đúng, làm đích thực những nhiệm vụ phải làm và cần
làm. Cấp trên không bao biện, làm thay, cấp dưới không trông chờ, ỷ lại. Không có
sự chồng lấn hoặc bỏ sót những nhiệm vụ đáng ra mỗi cấp phải làm và cần làm.
10
Bảo đảm cho bộ máy hành chính nhà nước gần dân, phục vụ dân tốt hơn, có sự gắn
bó chặt chẽ giữa nhà nước với nhân dân, và do đó làm cho hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy các cấp chính quyền địa phương càng được nâng lên, góp phần
vào hiệu lực, hiệu quả chung của bộ máy quản lý nhà nước.
Quan điểm đó phải được nhận thức sâu sắc và nhất quán, coi việc phân cấp
giữa Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương là trách nhiệm của cả hệ thống
hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Khắc phục tư tưởng coi phân cấp
không vì mục đích chính làm lợi cho dân và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước,
mà coi phân cấp như một sự phân chia quyền lợi giữa các cấp, cái gì lợi cho cấp
mình thì cấp trên giữ cấp dưới đòi được phân cấp, cái gì khó cho cấp mình thì cấp
trên muốn giao hoặc cấp dưới không muốn nhận.
2.2. Làm rõ nội dung quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường của mỗi cấp
trong hệ thống hành chính nhà nước.
Mặc dầu gần đây các nghị quyết của Trung ương cũng như các văn bản quy
phạm pháp luật đã đề cập nhiều đến việc phân định chức năng quản lý hành chính

nhà nước vĩ mô, tách quản lý hành chính nhà nước ra khỏi quản trị sản xuất kinh
doanh, ra khỏi quản trị dịch vụ công. Tuy vậy, một mặt các chủ trương đó được thể
chế hoá chưa đủ rõ, còn lúng túng trong chỉ đạo thực hiện và xử lý công việc hàng
ngày khi thể chế nền kinh tế thị trường chưa phát triển đồng bộ; mặt khác vì thói
quen của nền hành chính trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp,
Nhà nước quá "lo" cho dân, "lo" bị tuột tay công tác quản lý nhà nước, cấp trên quá
"lo" cho cấp dưới, nên ôm đồm quá nhiều công việc mà lẽ ra có thể để cho dân, cho
xã hội, cho thị trường và cho cấp dưới làm.
Kinh nghiệm quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ta chưa có nhiều, song qua thực tế gần 20 năm đổi mới có thể thấy rõ
sự quản lý nhà nước tập trung vào 3 nhóm nhiệm vụ chủ yếu. Một là, xây dựng và
ban hành hệ thống thể chế - đây là nhiệm vụ rất quan trọng và cơ bản nhất trong
quản lý nhà nước để bảo đảm sự thống nhất trên các lĩnh vực trong phạm vi toàn
quốc. Hai là, tổ chức việc thực hiện hệ thống thể chế đó, nhằm biến hệ thống thể
chế thành những kết quả cụ thể như mục tiêu của thể chế đã đề ra. Ba là, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện - đây cũng là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác quản
lý nhà nước. Tất nhiên một điều không thể phủ nhận là nhà nước còn phải nắm chắc
những ngành kinh tế then chốt, những nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, ngoại
giao, giải quyết nhiều công việc khác nữa do cuộc sống đặt ra, nhưng cơ sở để nắm
và giải quyết các công việc đó chính là hệ thống thể chế.
2.3. Phân định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ mỗi cấp trong hệ thống hành
chính
Ba nhóm nhiệm vụ đã đề cập trên đây có mối liên hệ tác động và bổ trợ lẫn
nhau, nhưng vẫn cần phân định rõ chức năng nhiệm vụ của mỗi cấp:
2.3.1. Chính phủ giữ vai trò quyết định trong nhiệm vụ xây dựng, ban hành hệ
thống thể chế; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện hệ thống thể chế đó.
Công tác xây dựng thể chế những năm gần đây có bước chuyển biến đáng kể,
cả lập pháp và lập quy, nhưng so với yêu cầu của công tác quản lý, định hướng nền
kinh tế thị trường, hệ thống thể chế của ta còn rất nhiều việc phải làm. Thực tiễn đã
chứng minh vị trí, giá trị, sức mạnh và hiệu quả của thể chế trong quản lý và phát

11
triển đất nước. Chỉ nói gần đây nhất, khi Luật doanh nghiệp ra đời, đi liền với hủy
bỏ hàng trăm thủ tục hành chính phiền hà, đã làm xuất hiện hàng vạn doanh nghiệp
giúp cho hàng triệu người có việc làm, góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh
tế, xã hội.
Thực tế hiện nay chưa nói đến hệ thống lập quy là trách nhiệm của Chính
phủ, thì việc xây dựng các dự thảo luật, pháp lệnh gần như đang do Chính phủ
chuẩn bị trình Quốc hội. Thúc đẩy sự phân cấp, chính là tạo điều kiện về thời gian
vật chất để Chính phủ tập trung cao hơn, nhiều hơn vào việc xây dựng thể chế,
không phải chỉ đáp ứng về mặt số lượng mà điều hết sức cấp thiết là nâng cao chất
lượng thể chế, thể hiện tính khả thi, tính thực tiễn của thể chế.
Một phần khá lớn trường hợp chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các
bộ, cơ quan ngang bộ đã được giải quyết và hàng loạt nghị định mới đã được ban
hành về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ. Song sự
chồng chéo chưa phải đã hết và tháo gỡ được những chồng chéo này lại nẩy sinh ra
sự chồng chéo khác, có khi gay gắt hơn, như việc phân công về đăng ký quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà (tài sản trên đất) giữa Bộ Tài nguyên - Môi trường và
Bộ Xây dựng Đi liền với phân cấp mạnh mẽ hơn những việc cần phân cấp cho
chính quyền địa phương, việc phân công thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước
giữa các bộ, cơ quan ngang bộ trong Chính phủ cũng phải được tiếp tục.
Dành thời gian cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (các thành viên
Chính phủ) tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng xây dựng thể chế, đích
thực là chức năng chủ yếu của các thành viên Chính phủ. Bảo đảm cho hệ thống thể
chế thật sự thông thoáng, gọn, rõ, dễ hiểu, dễ thực hiện, đơn giản hoá các thủ tục
hành chính đến mức thấp nhất, tiện lợi cho dân, cho doanh nghiệp, có tính khả thi
và nhanh chóng được cuộc sống chấp nhận. Không vì lợi ích cục bộ, hoặc tiện lợi
cho người quản lý, hoặc quá "lo" cho công tác quản lý, hoặc vì "đề phòng" một ít
người lợi dụng làm ăn phi pháp, mà bày đặt ra các thủ tục hành chính phiền là bắt
mọi người phải thực hiện.
2.3.2. Phân cấp rõ ràng hơn cho chính quyền cấp tỉnh, các thành phố, thị xã

trực thuộc cấp tỉnh, chính quyền cấp cơ sở.
Có lẽ trước hết nên khẳng định các nhiệm vụ then chốt của chính quyền địa
phương trong quản lý nhà nước. Trong thực tế có thể vạch ra 3 nhiệm vụ cơ bản
của chính quyền địa phương, một là, tổ chức thực hiện pháp luật và các quyết định,
quy định của cấp trên, hai là phối hợp thực hiện các nhiệm vụ của trung ương trên
địa bàn, ba là thực hiện các nhiệm vụ mang tính tự quản của địa phương.
- Về tổ chức thực hiện pháp luật và các quy định hành chính của cấp trên, tạo
điều kiện cho thị trường và xã hội phát triển theo pháp luật. Có thể nói đây là nhiệm
vụ trước hết và quan trọng nhất của một cơ quan hành chính nhà nước. Việc thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng ở một địa phương chủ
yếu là tạo môi trường để mọi người làm, không phải chính quyền quyết định những
việc làm cho dân, cho doanh nghiệp. Môi trường đó bao gồm quy hoạch xây dựng
kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm an
toàn giao thông, giải quyết các công việc cho dân và doanh nghiệp như cấp
phép/đăng ký kinh doanh, cho thuê đất, các quy trình, quy phạm, trật tự xã hội, hộ
12
tịch, hộ khẩu, đất đai, tài sản công Đây là loại công việc mang tính chấp hành,
không phải bàn, không tranh luận.
- Về phối hợp thực hiện các nhiệm vụ của cấp trên trên địa bàn. Mỗi công
việc của đất nước luôn diễn ra trên một địa bàn nhất định, và bao giờ cũng liên
quan đến nhiều mối quan hệ trên địa bàn như giải phóng mặt bằng, đền bù giải toả,
an ninh trật tự, môi trường hoạt động, bảo quản, khai thác, sử dụng… Thực hiện
các nhiệm vụ đó có thể do cơ quan trung ương, do những tổ chức khác hoặc do lực
lượng của địa phương tiến hành, nhưng tất cả những loại công việc này rất cần có
sự phối hợp thực hiện. Đó cũng là nhiệm vụ không thể thiếu của các cấp chính
quyền địa phương.
- Về những công việc của địa phương (mang tính tự quản). Đây là phần việc
quan trọng của chính quyền địa phương, quyết định các công việc của cộng đồng
như: phân bổ và quyết định các nguồn thu trên địa bàn ngoài các nguồn thu của
trung ương, quyết định việc chi tiêu, quyết toán ngân sách; quyết định các công

trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng bằng ngân sách địa phương, hoặc ngân sách
nhà nước hỗ trợ những công trình nằm gọn trên địa bàn và phục vụ cho nhân dân
trên địa bàn; quyết định kế hoạch sử dụng đất, giá cho thuê đất; huy động sự đóng
góp của nhân dân; tổ chức các hoạt động dịch vụ công…
Những công việc khác như việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát
triển ngành nghề là công việc của dân, của doanh nghiệp, chính quyền chỉ làm
đích thực việc của mình, không thể quy hoạch xong ép dân phải trồng cây này hay
cây khác mà không chịu trách nhiệm gì về kết quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Từ đó, phân cấp rõ ràng hơn cho cấp tỉnh, các thành phố, thị xã thuộc tỉnh,
chính quyền cấp cơ sở, bởi cấp tỉnh là cấp chính quyền địa phương có đủ điều kiện
và khả năng để thực hiện toàn diện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên một địa
bàn; các thành phố, thị xã thuộc tỉnh là đơn vị hành chính đô thị có tính chất quản
lý riêng; chính quyền cơ sở là cấp chính quyền gần dân, trực tiếp với dân, là nơi dân
có cơ hội tham gia quản lý nhà nước, bàn và quyết định các vấn đề của dân. Quận,
huyện là cấp đại diện cho thành phố hoặc tỉnh để thực hiện các nhiệm vụ của thành
phố hoặc tỉnh trên địa bàn.
+ Đối với cấp tỉnh: Trong thực tế đất nước ta từ 38 tỉnh năm 1978, đến nay
đã được chia tách thành 64 tỉnh, sự khác biệt giữa các tỉnh về đất đai, khí hậu, thời
tiết, địa bàn hành chính được thu hẹp lại. Với đường sá giao thông, phương tiện đi
lại và thiết bị làm việc, nhất là thiết bị thông tin liên lạc, công nghệ thông tin, chính
quyền một tỉnh với đầy đủ bộ máy như hiện nay quản lý trên dưới một triệu dân
chắc không có gì quá khả năng. Kinh tế đã bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế, không thể có sự khép kín trên từng địa bàn cấp xã, cấp huyện, rồi cấp tỉnh, mà
thực tế hiện nay muốn khép kín cũng không ai chấp nhận.
Không thể bàn về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, kế hoạch
kết cấu hạ tầng cơ sở, kế hoạch phát triển các công trình phúc lợi công cộng, phân
bổ ngân sách địa phương cho đầu tư xây dựng cơ bản… trên địa bàn một tỉnh mà
không được tính đến và thể hiện trên địa bàn mỗi huyện, mỗi xã. Mặt khác, như về
chính sách thu hút đầu tư, các đơn vị cấp huyện không thể tách rời khỏi quy hoạch
chung của cấp tỉnh, và càng không thể mỗi huyện lại có chính sách khác nhau để

thu hút đầu tư vượt qua quy định của cấp tỉnh v. v.
13
Thực tế cho thấy chính quyền địa phương cấp tỉnh là cấp có khả năng và điều
kiện để giải quyết các công việc; cấp huyện chỉ là cấp trung gian; cấp xã là cấp trực
tiếp với dân, cấp có vị trí giải quyết các công việc hàng ngày của dân, và quyết định
các công việc tự quản của dân.
Từ đó, phân định rõ chính quyền cấp tỉnh thực hiện đúng các nhiệm vụ như
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã quy định, và từng bước
thực hiện đủ các nhiệm vụ Nghị quyết 08 của Chính phủ đã phân cấp. Cấp huyện
trước mắt chưa điều chỉnh lại vị trí, tổ chức bộ máy, thì nên phân cấp cho chính
quyền cấp huyện 3 nhiệm vụ: một là, theo uỷ nhiệm của UBND cấp tỉnh, thực hiện
một số công việc; hai là, thực hiện một số nhiệm vụ liên xã; ba là, kiểm tra việc
thực thi các nhiệm vụ của cấp cơ sở. Cấp xã giải quyết các công việc của dân theo
đúng quy định của pháp luật, quyết định tất cả các vấn đề tự quản của xã. Đây
chính là nơi dân trực tiếp quyết định các công việc của dân.
2.4. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc đã được quy định về phân cấp
Cần thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc phân cấp như tôn trọng sự quản lý
thống nhất của Chính phủ, phân cấp nhiệm vụ phải đi liền với điều kiện thực hiện;
phân cấp phải bảo đảm cơ chế chính sách rõ ràng, những việc chưa có chính sách rõ
ràng có thể cho làm thử, chưa phân cấp ngay; phân cấp thẩm quyền gắn với trách
nhiệm trong đó đặc biệt quan tâm trách nhiệm tài chính; phân cấp từng bước tuỳ
khả năng và điều kiện cán bộ của từng địa phương; phân cấp phải đi liền với hướng
dẫn, kiểm tra và hợp tác giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước;
phân cấp phải đi liền với cơ chế bảo đảm quyền giám sát, quyết định của cơ quan
dân cử và của dân, của cơ quan thông tấn báo chí.
2.5. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức các cấp chính quyền ở địa phương
Trong những năm gần đây, trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, công chức
được nâng cao hơn nhiều so với trước, song về kỹ năng và nghiệp vụ hành chính
còn đang bất cập, trong khi nhiệm vụ được phân cấp nặng nề hơn. Trước đây,
những công việc về đầu tư xây dựng một công trình, thủ tục để tiến hành một dự

án đều do các cơ quan trung ương làm, địa phương chỉ biết thực hiện. Trình độ
hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức đang hạn chế kết quả và chất lượng thực
hiện các nhiệm vụ được phân cấp. Cần xây dựng chương trình, nội dung và có kế
hoạch đào tạo một cách hệ thống cho cán bộ, công chức ở các cấp chính quyền địa
phương. Trong đó phải hết sức quan tâm đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, trước
hết là các chức danh chuyên môn.
Đặc biệt cần nâng cao đạo đức và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong
khi giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp. Có cơ chế để nội bộ tự kiểm tra
lẫn nhau; người phụ trách kiểm tra thông qua kết quả thực hiện các nhiệm vụ được
giao và ý kiến của khách hàng; dân và doanh nghiệp kiểm tra thông qua thái độ,
trách nhiệm và năng lực cán bộ, công chức khi giải quyết các công việc của dân.
Sớm tiến hành sơ kết việc phân cấp đã thực hiện những năm vừa qua, có đánh giá
đúng thực chất và có giải pháp thúc đẩy phân cấp một cách cơ bản và vững chắc
hơn.
14
KẾT LUẬN
Phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương là một vấn đề phức tạp
vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực đến sự phát triển đất nước. Chỉ
khi nào nhận thức đúng, hoạch định đúng và tổ chức thực hiện hiệu quả thì vấn đề
phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương mới có tác dụng tích cực,
thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và của mỗi địa phương.
Ngược lại, nếu tiến hành vội vàng, thiếu nghiên cứu, cân nhắc đầy đủ giữa lợi với
hại thì việc phân cấp, phân quyền có thể gây ra những tác động tiêu cực, thậm chí
có thể nguy hiểm cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
Trong quá trình thực hiện việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa
phương cần khắc phục tình trạng hoạt động có tính hình thức của Hội đồng nhân
dân ở một số cấp bằng việc phân cấp cho Hội đồng nhân dân nhiều nhiệm vụ,
quyền hạn hơn theo hướng tăng cường tính tự quản của địa phương. Trong quá
trình nghiên cứu phân cấp, phân quyền cần tham khảo thêm kinh nghiệm và mô
hình ở các nước có điều kiện tương tự như nước ta để việc phân cấp, phân quyền

được tiến hành thực sự hiệu quả nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính
quyền mỗi cấp ở nước ta.
15

×