Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

kết hợp ppdh đàm thoại với ppdh thảo luận nhóm nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh_tiểu luận tốt nghiệp cử nhân giáo dục chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.56 KB, 48 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TIỂU LUẬN T
TIỂU LUẬN T
ỐT NGHIỆP
ỐT NGHIỆP
MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Đề tài
KẾT HP PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐÀM THOẠI VỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
KẾT HP PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐÀM THOẠI VỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THẢO LUẬN NHÓM NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
THẢO LUẬN NHÓM NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC PHẦN CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
TRONG DẠY HỌC PHẦN CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
NGƯỜI THỰC HIỆN : CAO VĂN NGHIÊM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS.VŨ THỊ THANH NGA
Kiên Giang tháng 08 năm 2010
Kiên Giang tháng 08 năm 2010
1
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài………………………………… trang…
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài…………………………………trang….
3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài……………… trang…
4.Phạm vi nghiên cứu của đề tài…………………………… trang….
5.Phương pháp nghiên cứu ………………………………… trang
6.Kết cấu của đề tài………………………………………… trang…
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : Cơ sở lý luận của việc kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận
nhóm nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học phần Công


dân với đạo đức.
1.1.Phương pháp đàm thoại và phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học GDCD
1.1.1.PPDH và PPDH môn GDCD ………trang
1.1.2.Phương pháp đàm thoại trong dạy học GDCD trang
1.1.3.Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học GDCD trang
1.2.Môn GDCD ở trường THPT và đặc thù tri thức của phần công dân với đạo đức
– GDCD lớp 10.
1.2.1.Môn GDCD trong trường phổ thông trang
1.2.2.Chương trình GDCD lớp 10 phần Công dân với đạo đức…trang
1.3.Kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận nhóm nhằm phát huy tính tích cực
học tập của học sinh.
1.3.1.Cơ sở của việc kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận nhóm nhằm
phát huy tính tích cực học tập của học sinh ….trang
1.3.2.Phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh …trang
CHƯƠNG II. Thực trạng giảng dạy môn GDCD ở trường THPT Hòa Hưng và
việc giáo dục đạo đức cho học sinh
2
2.1.Một vài nét khái quát về trường THPT Hòa Hưng, huyện Giồng Riềng , tỉnh
Kiên Giang ……………………………………………………… trang…
2.2.Thực trạng dạy học GDCD và việc kết hợp phương pháp đàm thoại với phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học Công dân với đạo đức ở trường THPT Hòa
Hưng – Giồng Riềng………………………………trang……
CHƯƠNG III: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc kết hợp PPDH
đàm thoại với PP thảo luận nhóm trong dạy học phần Công dân với đạo đức.
3.1.Một số giải pháp cơ bản
3.1.1.Đối với các cấp quản lý………………………………trang….
3.1.2.Đối với giáo viên dạy GDCD……………………… trang….
3.1.3.Đối với học sinh…………………………………….trang….
3.2.Vận dụng việc kết hợp phương pháp đàm thoại với phương pháp thảo luận
nhóm để dạy học bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học – GDCD lớp 10.

PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………… …trang
TÀI LI ỆU THAM KH ẢO trang
MỞ ĐẦU
3
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX, trên thế giới đã có nhiều quốc gia tiến hành
chuẩn bị và triển khai cải cách giáo dục, tập trung vào giáo dục phổ thông mà trọng
điểm là cải cách chương trình và SGK nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, trực
tiếp góp phần cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Trong xu thế đó, Việt Nam ta
tiến hành đổi mới với mục tiêu : Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp
giáo dục , SGK phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ
giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 -
1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các
chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999). Luật Giáo
dục , điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh". Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập
chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải là một quá trình đổi mới từ
mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đánh giá chất lượng giáo dục đến
những hoạt động quản lý cả quá trình này. Toàn bộ chương trình cần coi trọng thực
hành, vận dụng,…phương pháp dạy học cũng phải được đổi mới với định hướng hỗ
trợ cho quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo
năng lực của người học. Chỉ có đổi mới phương pháp chúng ta mới có thể tạo được

4
sự thay đổi thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động,
sang tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) nói chung và PPDH
môn giáo dục công dân (GDCD) nói riêng, đặc biệt là kết hợp phương pháp đàm
thoại với phương pháp thảo luận nhóm và các phương pháp khác, đang được bàn
luận và thực hiện như là một vấn đề cấp bách để nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo.
Khác với các môn khoa học khác, GDCD là một môn học trực tiếp trang bị
cho học sinh một cách có hệ thống những tri thức về thế giới quan, tư tưởng chính
trị, đạo đức, pháp luật nhằm góp phần quan trọng vào việc giáo dục học sinh trở
thành người công dân có ích cho xã hội. Vì vậy việc đổi mới PPDH môn giáo dục
công dân hiện nay được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm bởi “Con người là
động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của Chủ nghĩa
xã hội” [Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW khóa
VII, Hà Nội, NXB CTQG, 1993, tr 19], và bởi “điều đặc biệt đáng lo ngại là một
bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng,
theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân vì tương lai của bản thân, đất
nước”. [Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCHTW khóa
VIII, Hà Nội, NXB CTQG, 1997, tr 29].
Vì vậy Đảng ta đã chủ trương: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư
tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lê nin, đưa việc giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học”; “đổi
mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều,
rèn luyện tư duy sáng tạo của người học, nâng cao năng lực tự học của học sinh”.
Đồng thời chỉ thị số 30/ 1998 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT cũng đã chỉ rõ: “Môn
GDCD ở các trường THPT có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân
cách của học sinh”.
5
Môn GDCD lớp 10, đđặc biệt là phần “Cơng dân với đạo đức” có nhiệm vụ

giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của triết học duy vật biện chứng
về tự nhiên và xã hội, về sự vận động và phát triển theo những quy luật khách
quan, về vấn đề con người có thể nhận thức được những quy luật ấy. Biết vận
dụng những kiến thức đó vào thực tiễn cuộc sống. Nắm vững được một số phạm
trù cơ bản của đạo đức học, các yêu cầu cơ bản của người công dân Việt Nam
trong thời kỳ CNH , HĐH. Có khả năng đánh giá được các hành vi hiện tượng
đạo đức trong đời sống xã hội, biết tự điều chỉnh bản thân phù hợp các chuẩn
mực đạo đức tiến bộ. Góp phần giáo dục tồn diện học sinh về đức – trí – thể - mỹ,
bồi dưỡng những người chủ tương lai của đất nước là những người vừa hồng – vừa
chun. Sẵn sàng đương đầu với khó khăn, gian khổ để cùng nhau xây dựng q
hương đất nước đàng hồng hơn và tươi đẹp hơn!
Trước tình hình bức xúc đó, lại một lần nữa Đảng và Nhà nước ta xác định việc
giáo dục đạo đức con người hiện nay với Nghị quyết Trung ương 4 khố VII về
“chiến lược phát triển con người” Nghị quyết Trung ương 2 Khố VIII về cơng tác
giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Trung ương khố VIII về “giữ gìn bản sắc dân
tộc”, đến Đại hội X của Đảng nhấn mạnh “phát triển giáo dục và đào tạo” nói
khơng tiêu cực và hình thành tính trung thực trong giáo dục và đào tạo, khoa học
cơng nghệ là quốc sách hàng đầu.Vấn đề nêu trên đòi hỏi nhà trường THPT cần
phải xem xét giáo dục đạo đức cho học sinh thơng qua mơn giáo dục cơng dân là
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Lúc sinh thời Bác Hồ đã từng nhắc nhở: “lành dữ
phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” hay “vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” .
Để thực hiện mục tiêu này thì vấn đề đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp
dạy học Giáo dục cơng dân là vấn đề đặt ra, trong đó đổi mới phương pháp là quyết
định. Khơng phải đổi mới hồn tồn phương pháp mà vấn đề là sự kết hợp phương
6
pháp dạy học đàm thoại với phương pháp dạy học thảo luận nhóm để phát huy tính
tích cực học tập của học sinh. Tuy nhiên, trong q trình đổi mới phương pháp GV
chưa quan tâm đến việc kết hợp hai phương pháp này và các phương pháp hỗ trợ
khác. Vì thế, chưa nâng cao chất lượng và phát huy tính tích cực học tập của học

sinh. Do vậy, việc kết hợp hai phương pháp này là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tơi đã chọn viết đề tài : “Kết hợp phương pháp
dạy học đàm thoại với phương pháp dạy học thảo luận nhóm nhằm phát huy
tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học phần Cơng dân với đạo đức –
Giáo dục cơng dân lớp 10” để làm tiểu luận tốt nghiệp.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề :
Vấn đề phương pháp dạy học và kết hợp các phương pháp dạy học đã có khá
nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu. Tuy nhiên vấn đề kết hợp phương pháp dạy
học đàm thoại với phương pháp dạy học thảo luận nhóm nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh trong dạy học phần Công dân với đạo đức – Giáo dục
công dân lớp 10 là vấn đề tương đối còn mới mẽ, ít ai nghiên cứu, nếu có chỉ
với góc độ lý luận mà thôi. Đây là vấn đề hoàn toàn không trùng lắp với các
vấn đề nghiên cứu từ trước đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Mục đích:
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu các phương pháp dạy học môn GDCD
lớp 10 ở trường THPT , đề tài này xin đề xuất việc sư û dụng phương pháp dạy
học đàm thoại và phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy phần Công dân
với đạo đức - GDCD lớp10 làm phong phú thêm kinh nghiệm giảng dạy của bản
thân và tư liệu tham khảo cho đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy .
- Nhiệm vụ :
7
+ Tiàm hiểu, khảo sát việc sử dụng các phương pháp dạy học GDCD lớp 10
đang được sử dung hiện nay, cụ thể là kết hợp phương pháp dạy học đàm thoại
với phương pháp dạy học thảo luận nhóm.
+ Tìm hiểu tâm lí học tập và kết quả học tập của học sinh khối lớp 10
+ Rút ra nhận xét, đánh giá và đề xuất việc kết hợp phương pháp dạy
họcđàm thoại với phương pháp dạy học thảo luận nhóm nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh trong dạy học phần Công dân với đạo đức - GDCD lớp
10.

4. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng việc giảng dạy môn GDCD ở trường THPT hiện
nay.
- Nghiên cứu phương pháp dạy học đàm thoại kết hợp với phương pháp dạy
học thảo luận nhóm được sử dụng để giảng dạy phần Công dân với đạo đức –
Giáo dục công dân lớp 10.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau
đây:
- Phương pháp điều tra, khảo sát
- Phương phapù phỏng vấn, trao đổi, trò chuyện
- Phương pháp tìm hiểu và phân tích tài liệu
- Phương pháp lòch sử- cụ thể
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài được kết cấu thành 3 chương
8
- Chöông 1: Cơ sở lý luận của việc kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận
nhóm nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học phần Công
dân với đạo đức.
- Chöông 2: Thực trạng giảng dạy môn GDCD ở trường THPT Hòa Hưng và việc
giáo dục đạo đức cho học sinh
- Chöông 3: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc kết hợp PPDH đàm
thoại với PP thảo luận nhóm trong dạy học phần Công dân với đạo đức.
Chöông 1:
Cơ sở lý luận của việc kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận nhóm nhằm
phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học phần Công dân với
đạo đức.
1.1.Phương pháp đàm thoại và phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn GDCD :

1.1.1.Phương pháp dạy học và phương pháp dạy học môn GDCD:
-Phương pháp:
9
Phương pháp là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạy "metodos" có nghóa
là con đường, cách thức để đạt được mục đích nhất đònh. Phương pháp là hình
thức vận động bên trong của nội dung. Bởi vậy phương pháp bao giờ cũng có
tính mục đích, tính cấu trúc và luôn gắn liền với nội dung. Người ta chỉ có thể
hành động có phương pháp khi có một biểu tượng rõ nét về đối tượng hoặc hiểu
và ý thức được mục đích đã đònh sẵn. Không có phương pháp vạn năng cho mọi
đối tượng, mọi mục đích. Tuy nhiên, khi đã có phương pháp hành động đúng
đắn thì bản thân phương pháp lại có tác dụng làm cho nội dung ngày càng hoàn
thiện hơn và vận động vào ý thức của người hành động, đồng thời nó cũng giúp
đạt được mục đích ở mức độ mới về chất. Nói cách khác, mục đích và nội dung
quy đònh phương pháp nhưng phương pháp cũng có tác động lại nội dung làm
cho nội dung có chất lượng cao hơn.
-Phương pháp dạy học:
Phương pháp dạy học chính là con đường, cách thức dạy học nhằm đạt
được mục đích dạy học. Đây là một quá trình gồm hai mặt của một hoạt động,
hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Do đó phương pháp dạy học phản ánh
mối quan hệ tác động qua lại giữa hoạt động dạy và hoạt động học, trong đó
hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo và hoạt dộng học giữ vai trò chủ động, tự
giác, tích cực.
Theo Nguyễn Ngọc Quang ( trong " Phương pháp dạy đại học- 1978" )
cho rằng : Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò dưới sự
chỉ đạo của thầy nhằm làm cho trò nắm vững kiến thức, kó năng, kó xảo một
cách tự giác, tích cực, tự lực phát triển những năng lực nhận thức và hành động,
hình thành thế giới quan khoa học và đạo đức cách mạng.
10
Theo quan điểm triết học thì mọi hoạt động của con người đều bao gồm
hai phạm trù : mục đích và phương pháp. Sau khi đã có mục đích thì tất cả mọi

con đường, cách thức, phương tiện cần đến hoạt động để đạt được mục đích đều
là phương pháp hoạt động. Như thế với mọi hoạt động giáo dục ta hoàn toàn có
thể coi cách thức lựa chon nội dung giáo dục để đạt dược mục đích giáo dục
nhất đònh như là một phương pháp giáo dục. Thậm chí ngay cả việc lựa chọn
một trong các loại hình giáo dục hay lừa chọn đa dạng các loại hình trường lớp
cũng là phương pháp giáo dục, dạy học để đạt được mục đích giáo dục, dạy học.
Lê Nguyên Long- trong cuốn " Thử đi tìm phương pháp dạy học hiệu quả
" thì lại cho rằng: phương pháp vẫn được coi là cách thức, con đường, phương
tiện để đạt được mục đích nhưng là cách thư , con đường, phương tiện xét về
khía cạnh của qúa trình. Quá trình dạy học ở đây là sự diễn biến trong không
gian và thời gian nhất đònh của một hoạt động đặc thù, hoạt động dạy học thông
qua sự truyền thụ của giáo viên và sự lónh hội của học sinh những nội dung đã
xác đònh theo chương trình môn học xác đònh được phân phối theo kế hoạch chặt
chẽ ở từng lớp học, cấp học nhằm đạt được mục đích dạy học và giáo dục nhất
đònh. Và ông đưa ra đònh nghóa: Phương pháp là những con đường, cách thức và
phương tiện tác động qua lại giữa người dạy ( giáo viên ) và người học ( học
sinh ) nhằm đảm bảo sự lónh hội nội dung học tập để đạt được mục đích giáo
dục đề ra.
Theo quan niệm thông thường cho rằng phương pháp là con đường đi tới
nhận thức sự thật khách quan hay là tập hợp các phương tiện tác động vào đối
tượng để đạt được mục đích đặt ra. Quan niệm đơn giản đó cho rằng phương
pháp là sản phẩm chủ quan của tư duy. Thực ra con người không thể làm việc gì
11
nếu không có những kiến thức nhất đònh vềđối tượng hoặc những tri thức về
những vật xung quanh ảnh hưởng trực tiếp đến mục đích cụ thể của mình. Chính
vì vậy các nhà lí luận về phương pháp nêu rõ : chúng ta phải có những quy luật
vận động nội tại của đối tượng trước khi xác đònh phương pháp, tức là phương
pháp có chủ thể và khách thể. Một số nhà nghiên cứu đònh nghóa :"Phương pháp
là hình thức lí giải thực tiễn veal mặt thực hành và lí thuyết xuất phát từ quy
luật vận đong của khách thể được nghiên cứu ". Phương pháp nhận thức của con

người có nội dung khách quan và chủ quan. Bởi vì : " những quy luật khách quan
mà con người nhận thức được tạo nên mặt khách quan của phương pháp, còn
những thủ thuật thao tác nảy sinh trên cơ sở những quy luật đó mà con người sử
dụng để nhận thức và cải biến các hiện tượng tạo nên mặt chủ quan của phương
pháp " ( Lí luận dạy học đại cương - Nguyễn Ngọc Quang - 1989 ).
Có ý kiến cho rằng phương pháp là những thủ thuật, phương tiện của
người thầy để cung cấp kiến thức cho học sinh. Từ đó họ coi phương pháp dạy
học không mang tính giai cấp, thời đại và là kinh nghiệm chung của mọi dân
tộc. Như vậy phương pháp dạy học là một vấn đề phức tạp, có nhiều quan niệm
khác nhau nhưng chúng ta cần có cách hiểu thống nhất về phương pháp dạy học
là con đường, Cách thức, phương tiện để đạt được mục đích dạy học. Nó gắn
liền với quá trình giáo dục và có sự tác động qua lại giữa hoạt động của thầy và
hoạt động học của trò trong quá trình dạy học.
-Phương pháp dạy học GDCD: Là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của
người dạy và người học (giảng viên và học viên) nhằm phát hiện những quy luật
của q trình dạy học mơn GDCD, xây dựng hệ thống các ngun tắc, hình thức và
phương pháp dạy học cụ thể để tổ chức thành cơng hoạt động dạy học mơn GDCD
ở trường Trung học.
12
1.1.2. Phương pháp đàm thoại trong dạy học GDCD:
PPDH đàm thoại: là quá trình tương tác giữa GV và HS, được thực hiện
thong qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một (NDDH) nội dung dạy
học. kết quả là dưới sự dẫn dắt của GV, HS thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của
mình, khám phá và lĩnh hội được nội dung bài học.
Ưu điểm: Phương pháp đàm thoại là cách thức tốt nhất để kích thích tư duy
độc lập của học sinh, dạy cho HS cách suy nghĩ đúng đắn và giúp cho Hs hiểu nội
dung học tập hơn là học vẹt, học thuộc lòng; Khuuyến khích lôi cuốn HS vào môi
trường học tập, tạo không khí sôi nổi trong lớp học, rèn luyện cho HS kỹ năng tư
duy độc lập, kỹ năng trình bày ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ, tạo nên sự mạnh
dạn, tự tin trước nơi đông người cho HS. Trong khi HS trả lời các câu hỏi sẽ tự bộc

lộ ưu điểm và hạn chế trong kiến thức cũng như cách lập luận trình bày.
Hạn chế: Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị rất
công phu, quá trình tổ chức mất nhiều thời gian, Gv khó kiểm soát vì có nhiều tình
huống ngẫu nhiên xảy ra khi trao đổi, không thu hút được toàn bộ học sinh tham
gia hoạt động học tập.
1.1.3. Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học GDCD :
Thảo luận nhóm: là PPDH trong đó nhóm lớn ( lớp học) được chia thành
các nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc, được bàn bạc,
trao đổi về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó.
Ưu điểm: Nhờ thảo luận nhóm mà kiến thức của học sinh sẽ giám bớt tính
chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học. Kiến thức trở nên sâu
sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu học hỏi giữa các thành
viên trong nhóm. HS được rèn luyện kỹ năng diễn đạt, phương pháp tư duy; Tạo
điều kiện cho GV nhận được nhiều thong tin phản hồi từ phía HS, thu được những
tri thức kinh nghiệm qua các ý kiến phát biểu có suy nghĩ và sang tạo của HS;
Giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản than,
13
cùng nhau xây dựng nhận thức mới; Tăng cường tính tích cực chủ động của HS,
giúp HS tập trung vào bài học, phát triển được các kỹ năng tư duy, óc phê phán, các
kỹ năng giao tiếp xã hội quan trọng khác.
Hạn chế: Tuy nhiên, phương pháp này tốn nhiều thời gian; phụ thuộc nhiều
vào tinh thần tham gia của các thành viên trong nhóm, nếu một số ít HS tham gia
thì hiệu quả không cao; đồng thời phương pháp này dễ tạo ra trạng thái mệt mỏi, trì
trệ.
1.2.Môn GDCD ở trường THPT và đặc thù tri thức của phần công dân
với đạo đức – GDCD lớp 10.
1.2.1.Môn GDCD trong trường phổ thông:
- Vị trí, mục tiêu, cấu trúc, chức năng, nhiệm vụ của môn GDCD trong
trường phổ thông:
+Vị trí: Mỗi môn học trong trường phổ thông đều có một vị trí nhất định,

việc xây dựng các môn học trong hệ thống chương trình đều xuất phát từ mục tiêu
đào tạo con người đáp ứng được yêu cầu của đất nước. Điều 27 Luật Giáo dục
nước ta chỉ rõ : “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
+Mục tiêu: Từ mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, mục tiêu của cấp
THPT được xác định như sau: “Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và
phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ
thong và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động”.
14
+Cấu trúc: Chương trình môn GDCD ở trường THPT cấu trúc thành năm
phần:
Phần 1: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học.
Phần 2: Công dân với đạo đức.
Phần 3: Công dân với kinh tế.
Phần 4: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội.
Phần 5: Công dân với pháp luật.
Ngoài ra chương trình còn dành một số thời gian cho các hoạt động thực
hành, ngoại khóa, các vấn đề gắn với tình hình địa phương. Toàn bộ chương trình
môn GDCD bậc THPT được cấu trúc hợp lý, phù hợp với đặc trưng của các lĩnh
vực tri thức riêng lẻ và khả năng tiếp thu của học sinh.
+Chức năng:
Chức năng giáo dưỡng: Trang bị cho học sinh một cách tương đối có hệ
thống những tri thức phổ thong cơ bản, thiết thực của các môn khoa học Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

Chức năng giáo dục: Bước đầu giáo dục cho học sinh những quan điểm
khoa học và cách mạng, tư duy mới về thế giới và thời đại, về con người và cộng
đồng, về các quá trình xã hội diễn ra trên thế giới và trên đất nước ta, về cuộc đấu
tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa cái tiến bộ và cái bảo thủ, lạc
hậu. Trên cơ sở đó hình thành niềm tin có cơ sở khoa học về chế độ XHCN – lý
tưởng cao đẹp mà con người luôn luôn mơ ước.
Chức năng phát triển: Bước đầu phát triển ở học sinh phương pháp tư duy
biện chứng trong nhận thức và hành động, biết phân tích, đánh giá các hiện tượng
xã hội theo quan điểm khoa học và tiến bộ, biết kế thừa những giá trị tốt đẹp của
dân tộc và nhân loại, biết ủng hộ cái mới đúng đắn và tích cực đấu tranh chống lại
cái cũ, lỗi thời, lạc hậu. Từng bước hình thành ở học sinh thói quen và kĩ năng vận
15
dụng những tri thức đã học vào cuộc sống, có định hướng đúng đắn về chính trị, tư
tưởng, đạo đức trong các hoạt động xã hội, trong cuộc sống hiện tại và sau này.
+Nhiệm vụ: Là một môn khoa học xã hội, với những đặc thù tri thức môn
học, môn GDCD trong trường THPT có nhiệm vụ góp phần đào tạo học sinh thành
những người lao động mới, hình thành ơ học sinh những phẩm chất tốt đẹp của
người công dân tương lai. Trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức cần thiết
để trên cơ sở những tri thức đó học sinh hiểu đúng quy luật phát triển tất yếu của tự
nhiên, xã hội và tư duy, nhận thức đúng đắn rằng cuộc sống của cá nhân và cộng
đồng phải phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử xã hội, biết
cách sống trong điều kiện cụ thể, có ý thức vươn tới những chuẩn mực xã hội tốt
đẹp.
1.2.2.Chương trình GDCD lớp 10 phần Công dân với đạo đức.
- Vị trí, mục tiêu, cấu trúc, chương trình GDCD 10
+Vị trí: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng
yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lê nin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học”; “đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo
của người học, nâng cao năng lực tự học của học sinh”. Đồng thời chỉ thị số 30/

1998 của Bộ trưởng Bộ GD - ĐT cũng đã chỉ rõ: “Môn GDCD ở các trường THPT
có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh”.
+Mục tiêu: Học song chương trình GDCD lớp 10, HS cần đạt được các yêu
cầu sau :
*Về kiến thức: Nhận biết được nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng; hiểu được bản chất của thế giới là vật chất, vận động
và phát triển theo những quy luật khách quan là thuộc tính vốn có của thế giới vật
chất, con người có thể nhận thức và vận dụng được những quy luật ấy; thấy được
mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động của chủ thể với khách thể qua các mối
16
quan hệ: thực tiễn với nhận thức, tồn tại xã hội với ý thức xã hội, con người là chủ
thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội. Nắm vững một số phạm trù cơ
bản của đạo đức học có quan hệ trực tiếp đến mục tiêu đào tạo THPT; nắm được
các yêu cầu cơ bản về đạo đức của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
*Về kĩ năng: Vận dụng được những tri thức Triết học với tư cách là thế giới
quan, phương pháp luận để phân tích các hiện tượng tự nhiên, xã hội thong thường
và các hiện tượng đạo đức, kinh tế, nhà nước, pháp luật sẽ được học ở các phần
sau; Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi, hiện tượng đạo
đức trong đời sống hằng ngày ở gia đình, ở trường và ngoài xã hội.Biết tự điều
chỉnh, hoàn thiện bản than theo các yêu cầu đạo đức xã hội.
*Về thái độ: Tôn trọng những quy luật khách quan của tự nhiên và đời sống
xã hội, khắc phục những biểu hiện duy tâm trong cuộc sống hằng ngày, phê phán
các hiện tượng mê tín dị đoan và tư tưởng không lành mạnh trong xã hội; có quan
điểm phát triển, ủng hộ và làm theo cái mới, cái tiến bộ, tham gia tích cực và có
trách nhiệm đối với các hoạt động cộng đồng; Tôn trọng các giá trị đạo đức xã hội;
có tình cảm và niềm tin đối với các quan điểm đạo đức đúng đắn, dám phê phán các
thái độ và hành vi đạo đức lệch lạc; có quyết tâm học tập, rèn luyện, tự hoàn thiện
bản than theo các yêu cầu đạo đức của xã hội.
+Cấu trúc chương trình GDCD lớp 10 : Học sinh được học các tri thức

của phần 1 và 2 (Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học. Công dân với đạo đức.) Đây là những tri thức thuộc bộ môn Triết học và
Đạo đức học.
-Vị trí, mục tiêu, đặc thù tri thức của phần Công dân với đạo đức.
+Vị trí: Công dân với đạo đức (phần 2) là một trong năm phần quan trong
của chương trình GDCD trong trường THPT.
17
+Mục tiêu: Học song phần Công dân với đạo đức, học sinh cần đạt được
các yêu cầu sau:
*Về kiến thức: Nắm vững một số phạm trù cơ bản của đạo đức học có quan
hệ trực tiếp đến mục tiêu đào tạo THPT; nắm được các yêu cầu cơ bản về đạo đức
của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
*Về kĩ năng: Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi,
hiện tượng đạo đức trong đời sống hằng ngày ở gia đình, ở trường và ngoài xã
hội.Biết tự điều chỉnh, hoàn thiện bản than theo các yêu cầu đạo đức xã hội.
*Về thái độ: Tôn trọng các giá trị đạo đức xã hội; có tình cảm và niềm tin
đối với các quan điểm đạo đức đúng đắn, dám phê phán các thái độ và hành vi đạo
đức lệch lạc; có quyết tâm học tập, rèn luyện, tự hoàn thiện bản than theo các yêu
cầu đạo đức của xã hội.
+Đặc thù tri thức của phần Công dân với đạo đức: Những tri thức về Đạo
đức học là sự tiếp nối phần đạo đức của môn GDCD bậc trung học cơ sở, những
chuẩn mực đạo đức học sinh được học ở các lớp dưới được nâng lên thành những
giá trị đạo đức, tư tưởng, chính trị, lối sống của con người Việt Nam thời kỳ
CNH,HĐH, nhằm giúp học sinh giải quyết hợp lý, có hiệu quả các mối quan hệ xã
hội.
+Nội dung chương trình phần Công dân với đạo đức: Gồm 7 bài với thời
lượng là 11 tiết:
-Bài 10(1 tiết): Quan niệm về đạo đức.
-Bài 11(2 tiết): Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học.
-Bài 12(2 tiết): Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình.

-Bài 13(2 tiết): Công dân với cộng đồng.
-Bài 14(2 tiết): Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-Bài 15(1 tiết): Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại.
-Bài 16(1 tiết): Tự hoàn thiện bản thân.
18
1.3.Kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận nhóm nhằm phát huy
tính tích cực học tập của học sinh.
1.3.1.Cơ sở của việc kết hợp PPDH đàm thoại với PP thảo luận nhóm
nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
-Tất yếu phải kết hợp các phương dạy dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy
học đàm thoại với phương pháp dạy học thảo luận nhóm tại vì : Đối với môn
GDCD lớp 10, đây là lớp đầu cấp tư duy trừu tượng của học sinh còn hạn chêá,
sự mới mẻ về nội dung kiến thức làm cho các em gặp nhiều khó khăn trong
việc lónh hội tri thức mới .Vì vậy trong quá trình giảng dạy người giáo viên
phải biết sử dụng và kết hợp các phương pháp phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý và khả năng nhận thức của học sinh thì mới đạt kết quả tốt được.
Thực hiện được u cầu này, nhất thiết phải thực hiện kết hợp các phương pháp
trong dạy học, đặc biệt là phương pháp đàm thoại và phương pháp thảo luận
nhóm, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
-Kết hợp bằng cách khi sử dụng phương pháp đàm thoại, đưa ra câu hỏi cho
các em thảo luận nhóm và ngược lại, trong q trình thảo luận nhóm nhất thiết
phải có đàm thoại, có câu hỏi cho các em trao đổi với nhau và giáo viên trao đổi
với học sinh nhằm chiếm lĩnh được nội dung tri thức.
-Trong q trình kết hợp khơng chỉ sử dụng duy nhất đàm thoại với thảo luận
nhóm mà phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp hỗ trợ khác như:
thuyết trình giảng giải, nêu vấn đề, động não,…
1.3.2.Phát huy tính tích cực trong học tập của HS
-Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại
và phát triển con người ln phải chủ động, tích cực cải biến mơi trường tự nhiên,

19
cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. TTC
nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động
cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai
yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ
độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập
sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. TTC học tập
biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung
các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay
nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận
dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn
đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó
khăn…
TTC học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Phải nói rằng phương pháp chủ đạo để rèn luyện nhân cách cho học sinh
trong giảng dạy môn GDCD là phải thông qua việc thực hành của các em. Hơn bất
cứ môn học nào, GDCD là môn học không chỉ đo bằng điểm số mà còn phải bằng
chứng thực, kiểm tra bằng hành vi, điều đó thể hiện rõ trong quá trình tích cực, tự
giác học tập của học sinh. Nếu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, tinh
thần tự học, tự rèn luyện thì sẽ tạo cho học sinh lòng say mê, ham học, khơi dậy nội
lực vốn có của bản thân đồng thời giúp học sinh tự rèn luyện những phẩm chất đạo
20
đức, thế giới quan khoa học thông qua nội dung bài học và như vậy kết quả học tập

sẽ được nhân lên gấp bội. Để đạt được kết quả đó điều cơ bản và quan trọng là giáo
viên phải sử dụng PPDH, cách thức tổ chức dạy học như thế nào để phát huy tính
tích cực, tự giác học tập của học sinh.
Chức năng quan trọng bậc nhất của dạy học hiện nay là hình thành cho học
sinh năng lực tự phát hiện vấn đề, tìm kiếm và xử lý thông tin, biết đưa ra các giải
pháp giải quyết vấn đề, mục đích cơ bản của học tập là “học để hiểu”, để “vận
dụng”, để “sáng tạo”. Do vậy không thể giữ mãi lối mòn mà cần phải đổi mới, đa
dạng hóa, linh hoạt lựa chọn cách dạy phù hợp với mục đích, nội dung, thời gian,
trình độ người học trên tinh thần lấy học sinh làm trung tâm.
Từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và
trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc cần
thiết phải chuyển dạy học lấy GV làm trung tâm sang dạy học lấy HS làm trung
tâm, dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học
hướng vào người học,…nhấn mạnh hoạt động và vai trò của Hs trong quá trình dạy
học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai
trò của GV.
Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một
lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì Gv khó có điều
kiện chăm lo cho từng HS nên đã hình thành kiểu dạy “thông báo đồng loạt”. GV
quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết
nội dung quy định trong chương trình và SGK, cố gắng làm cho mọi HS hiểu và
nhớ những điều Gv giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi
nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không
đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng
này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của HS, thực
21
hiện “dạy học phân hóa”, quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân HS
trong tập thể lớp, dạy học lấy HS làm trung tâm.
Trên thực tế, trong quá trình dạy học HS vừa là đối tượng của hoạt động dạy,
lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của

GV, HS phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ,
hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu HS không tự
giác chủ động, không chịu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc
dạy sẽ rất hạn chế. Do đó, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của HS thì
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của HS.
Để giáo dục tri thức khoa học, môn GDCD sử dụng các PPDH chung giống
các bộ môn khoa học khác trong nhà trường phổ thông như: thuyết trình, đàm thoại,
trực quan Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương
pháp dạy học truyền thống. Trong hệ thống các phương pháp dạy học quen thuộc
được đào tạo trong các trường sư phạm nước ta từ mấy thập kỷ gần đây cũng đã có
nhiều phương pháp tích cực. Nói chung thì các phương pháp thực hành là “tích
cực” hơn các phương pháp trực quan, các phương pháp trực quan thì “tích cực” hơn
các phương pháp dùng lời…
Đổi mới PPDH, thực hiện dạy và học tích cực cần phải phát triển các phương
pháp nghiêng về thực hành, trực quan theo kiểu tìm tòi, phát hiện, sáng tạo… Điều
đó đòi hỏi người giáo viên phải biết kế thừa, phát hiện những mặt tích cực của
phương pháp dạy học truyền thống đồng thời tiếp thu và vận dụng một số phương
pháp dạy học mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng học sinh.
Có thể phát huy được tính tích cực đồng thời phù hợp với đặc trưng của bộ
môn cũng như điều kiện, hoàn cảnh của hầu hết các trường trung học hiện nay phải
kể đến những PPDH như: đàm thoại ( vấn đáp), phát hiện và giải quyết vấn đề,
phương pháp học tập theo nhóm, liên hệ thực tế, điều tra khảo sát, dạy học theo dự
án Đây là những phương pháp được xem là hiện đại, có thể phát huy cao độ tính
22
tớch cc, nng ng, sỏng to ca hc sinh. Tuy nhiờn trong quỏ trỡnh thc hin cỏc
PPDH ny, hiu qu nh th no cũn ph thuc vo nhiu yu t: iu kin c s
vt cht, trang thit b, kh nng, trỡnh ca hc sinh cng nh nng lc, kinh
nghim v c s nhit tỡnh tõm huyt ca ngi giỏo viờn
Quan nim v dy hc tớch cc thỡ cú rt nhiu quan im. Nhng quan im
dy hc ly hc sinh lm trung tõm l quan im hiu qu nht.

Chửụng 2:
Thc trng vic kt hp PPDH m thoi vi PP tho lun nhúm trong dy
hc phn Cụng dõn vi o c trng THPT Hũa Hng huyn Ging
Ring tnh Kiờn Giang.
2.1.Mt vi nột khỏi quỏt v trng THPT Hũa Hng, huyn Ging
Ring , tnh Kiờn Giang :
+Lch s thnh lp: Trửụứng THPT Hũa Hng xó Hũa Hng huyn Ging
Ring tnh Kiờn Giang ủửụùc thaứnh laọp naờm 2007.
+V trớ a lý: Hũa Hng l xó vựng xa ca huyn Ging Ring - tnh Kiờn
Giang, phớa ụng -Bc giỏp vi huyn Tht Nt Thnh ph Cn Th, phớa Tõy-
Nam giỏp vi thnh ph V Thanh, tnh Hu Giang. Trờn a bn xó Hũa Hng,
gm cú 01 Trng Trung hc ph thụng. Trng c xõy dng nm 2007, c s
vt cht ca trng THPT vụ cựng thiu thn tt c cỏc phũng u l cõy lỏ tm b
khi mi thnh lp Hin nay c s quan tõm ca cp u ng, chớnh quyn c
bit l s quan tõm u t ca UBND huyn Ging Ring, UBND tnh Kiờn Giang,
S Giỏo Dc o To Kiờn Giang ó xõy mt hai dóy phũng hc (3 lu ) vi hn
23
30 phòng học và có đầy đủ các phòng chức năng. Thêm vào đó là 02 phòng vi tính
với hơn 40 máy, và các trang thiết bị mới.
+Về đội ngũ GV – HS: Năm học 2009 – 2010 toàn trường có 55 lớp, với hơn
1100 học sinh, khối lớp 10 có 22 lớp. Đội ngũ giáo viên có 67 người trong đó
trình độ đạt chuẩn là 78 % trên chuẩn là 22 % tổ bộ môn GDCD có 6 người. Trong
đó, có 4 giáo viên chuyên ngành lý luận Mác-Lênin, 2 giáo viên không chuyên
ngành cần phải được chuẩn hóa.
+Một số thành tích đạt được:
Đáp ứng sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sở giáo dục
và đào tạo Kiên Giang, thầy và trò trường THPT Hòa Hưng khơng ngừng phấn đấu,
rèn luyện trong giảng dạy, trong học tập, nhà trường ln đặt chất lượng lên hàng
đầu và ln tìm mọi biện pháp thực hiện vì thế trường đã nhiều năm liền là trường
tiên tiến cấp tỉnh. HS đỗ tốt nghiệp ln đạt cao so với các trường khác trong địa

bàn huyện và tỉnh. Đặc biệt năm học này trường có số HS đậu Đại học đứng thứ
nhì của tỉnh Kiên Giang.
Song thực trạng hiện nay về ý thức tổ chức kỷ luật của học sinh thơng qua
mơn Giáo dục cơng dân còn nhiều bất cập, còn bị xem nhẹ so với mơn học khác.
Tri thức khoa học của mơn Giáo dục cơng dân gắn rất chặt chẽ với đời sống xã hội,
với hoạt động và đời sống của con người. Nội dung tri thức thể hiện rõ lập trường
quan điểm, hệ thống tư tưởng của gia cấp cơng nhân. Vì vậy qua bài giảng, giờ
giảng trên lớp giáo viên vừa truyền thụ tri thức vừa giáo dục tư tưởng chính trị, ý
thức đạo đức, ý thức pháp luật, đặc biệt là giáo dục đạo đức đó là q trình tự nhiên
thống nhất gắn bó hữu cơ với nhau, điều cần lưu ý là thơng qua giảng dạy tri thức
khoa học để giáo dục tư tưởng chứ khơng thể tiến hành ngược lại.
Hiện nay thực trạng của trường THPT Hòa Hưng về giáo dục ý thức tổ chức
kỷ luật cho học sinh thơng qua mơn học chưa đạt kết quả cao, chưa có tính giáo dục
24
cao mặc dù đây là môn học trực tiếp hình thành ở học sinh tư tưởng đạo đức, lối
sống văn hoá, có năng lực hoạt động thực tiễn, có phẩm chất chính trị tư tưởng,
Sở dĩ như vậy là vì nhận thức không đúng đắn vị trí quan trọng của môn học trong
nhà trường THPT. Coi môn giáo dục công dân là một môn chính trị thuần tuý,
không hiểu đúng đắn khoa học, chính trị học, với tư cách là một môn khoa học
nghiên cứu về quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các đảng phái, các
dân tộc, các Quốc gia, Trong đó biểu hiện những lợi ích căn bản của các giai cấp,
các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các Quốc gia. Không hiểu tri thức khoa học của
môn giáo dục công dân trong đó nổi bật tri thức khoa học về thế giới quan, nhân
sinh quan, phương pháp nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Môn giáo dục công dân ở trường THPT chỉ là môn hỗ trợ, môn phụ. Cho đến
nay quan niệm vẫn còn tồn tại khá nặng nề trong các cấp lãnh đạo quản lý. Trong
đó các cấp lãnh đạo của ngành giáo dục và đào tạo, trong xã hội, trong giáo viên,
trong phụ huynh học sinh và bản thân học sinh.
Bảng kết quả xếp loại hạnh kiểm qua 03 năm học dưới đây của trường THPT
Hòa Hưng sẽ chỉ rõ thực trạng hiện nay về ý thức tổ chức kỷ luật của học sinh

thông qua môn giáo dục công dân.
Đạo đức của học sinh được xếp loại qua 03 năm học
Năm học Lớp Tốt Khá Trung bình Yếu Kém
2007 - 2008
10
321 209 55 01 0
54,78% 35,67% 9,38% 0,17% 0
11
326 182 28 0 0
60,82% 33,98% 2,23% 0 0
12
291 169 19 0 0
60,75% 35,28% 3,97% 0 0
2008 - 2009
10
267 213 35 02 01
51,54% 41,12% 6,76% 0,39% 0,19%
11
345 236 58 06 0
53,49% 36,59% 8,99% 0,93% 0
12
323 178 14 0 0
62,72% 34,56% 2,72% 0 0
25

×