Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Chiến lược tự do hoá & mở của thị trường dịch vụ viễn thông vn trước xu thế hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.22 KB, 126 trang )

lời nói đầu
1. Tính Cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
ngành Viễn thông Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Viễn thông Việt
Nam đã nhanh chóng hiện đại hoá được mạng lưới, rút ngắn đáng kể khoảng cách về
cơ sở hạ tầng Viênx thôngvới các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Đến hết
năm 1998, đã có 61/61 tỉnh thành phố, 100% số huyện đã được trang bị tổng đài điện
tử kỹ thuật số, gần 7000/9330 xã có máy điện thoại. Hầu hết các tỉnh, thành phố, thị
xã đã liên lạc trực tiếp khắp cả nước và các nước trên thế giới qua 3 tổng đài, 6 trạm
vệ tinh và các tuyến cáp quang biển. Đến nay Viênx thôngViệt Nam đã hoà nhập với
mạng thông tin toàn cầu. Tuy nhiên so với thế giới, mật độ điện thoại của Việt Nam
vẫn còn rất thấp. Mật độ điện thoại năm 1997 ở nước ta mới đạt 1,58 máy/100 dân và
trong khi đó ở Châu á trung bình 5 máy/100 dân, toàn thê giới trung bình 12 máy/100
dân, Hàn Quốc 43,04 máy/100 dân, Singapore là 55 máy/100 dân, Đài Loan là 46,62
máy/100 dân Mục tiêu đến năm 2020 ngành Viễn thôngViệt Nam đã phấn đấu đưa
mật độ điện thoại lên 30 - 35 máy/100 dân tức là gấp 10 - 15 lần hiện nay và phải tiếp
tục phát triển và hiện đại hoá mang thông tin liên lạc quốc gia, mở liên lạc điện thoại
đến hầu hết các xã do đại hội VIII đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Để đạt được mục
tiêu đó, trong giai đoạn từ nay đến hết năm 2020, Viễn thông Việt Nam đòi hỏi một
khối lượng vốn khổng lồ, (khoảng 25 tỷ USD) để phát triển. Bên cạnh đó, trước xu
thế hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng: Từ sản xuất hàng hoá thuần tuý nay đã
lan sang cả lĩnh vực dịch vụ trong đó có dịch vụ Viễn thông diễn ra ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Đây là một vấn đề, một đòi hỏi cấp bách đối với dịch vụ Viễn
thông Việt Nam khi bước vào thế kỷ 21. Đứng trước những yêu cầu như vậy, thì từ
nay đến năm 2020 dịch vụ Viễn thông Việt Nam phải có một chiến lược phát triển
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội đất nước, phù hợp với hiện trạng Viễn thông Việt
Nam; để có thể phát huy được nội lực, thu hút vốn nước ngoài và hội nhập quốc tế.
Từ tình hình đó, đề tài “Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn
thông Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế” mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực
tiễn quan trọng.
1


2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn:
- Khái quát tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian vừa qua,
các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới và kinh nghiệm mở cửa, hội nhập
của một số quốc gia trên thế giới.
- Phân tích thực trạng phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam
trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
- Xây dựng một chiến lược tổng thể về tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ
Viễn thông từ nay đến năm 2020, từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cả về
phía Nhà nước và các doanh nghiệp để thực hiện được chiến lược đã đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Với tính đa dạng của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về chiến lược tự
do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ trên phương diện tổng thể sau khi đã nghiên cứu
một cách cụ thể tình hình hội nhập kinh tế nói chung và lĩnh vực dịch vụ Viễn thông
nói riêng trên thế giới, và tình hình phát triển hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong
lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
4. Kết cấu nội dung của bài viết.
Bài viết gồm 122 trang, được kết cấu thành 3 chương chủ yếu sau:
Chương I - Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt
ra đối với lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam.
Chương II - Tình hình phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam
trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
Chương III - Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông
Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế.
2
Chương I
Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối
với lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam
Mục đích của chương này đi vào tìm hiểu tình hình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trong thời gian qua. Đồng thời nêu lên các xu hướng phát triển Viễn
thông trên thế giới và nghĩa vụ tự do hoá dịch vụ Viễn thông của Việt Nam khi tham

gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế. Để rút ra được những kinh nghiệm và bài học cho
chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông của Việt Nam trong
thời gian tới, trong chương này khái quát một số kinh nghiệm và bài học mở cửa thị
trường dịch vụ Viễn thông của một số nước trên thế giới. Chương I bao gồm 4 vấn đề
được trình bày sau:
I. Hội nhập quốc tế -Một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế
giới
II. Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập
III. Tính cấp thiết phải xây dựng chiến lược tự do hóa và mở cửa
thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam
IV. Kinh nghiệm và lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông
các nước trong khu vực và trên thế giới
I - Hội nhập quốc tế -Một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới
Hội nhập đã trở thành một trào lưu không thể đảo ngược, và việc tham gia của
các quốc gia vào tiến trình này là tất yếu với thực tế là các thể chế chính trị, kinh tế
thương mại toàn cầu, liên khu vực vẫn không ngừng được củng cố và phát triển cả về
lượng và chất
1.Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua
Hai thập kỷ qua, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã thực sự bước sang
một giai đoạn mới -Giai đoạn toàn cầu hoá “Cơn lốc hoà nhập kinh tế “đã cuốn tất cả
các nước trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam với tốc độ nhanh đến
chóng mặt. Các nền kinh tế trên hành tinh xâm nhập lẫn nhau, liên kết với nhau, đưa
nền kinh tế thế giới thành một nền kinh tế hoà nhập ngày càng đậm nét với một thị
trường buôn bán toàn cầu sôi động. Đối với các quốc gia công nghiệp phát triển, hội
nhâp kinh tế quốc tế là con đường ngắn nhất để họ nhanh chóng xác lập vị thế quốc
tế, là phương thức phát triển giúp họ đẩy mạnh chi phối và dẫn dắt các xu thế kinh tế
toàn cầu. Còn đối với các quốc gia đang phát triển hội nhập kinh tế quốc tế không
3
những là chiến lược quan trọng thúc đẩy nhịp độ phát triển kinh tế xã hội mà còn là
sự lựa chọn không thể tránh khỏi để đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Hơn

nữa ngày nay đông lực của hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ nhằm khai thác lợi thế
so sánh mà còn là tiến bộ khoa học kỹ thuật và mở rộng cơ chế thị trường. Điều này
càng làm cho các quan hệ đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ, quản lý đan
chéo hoà nhập vào nhau hơn trong một chỉnh thể thống nhất mà trong đó các nền kinh
tế quốc gia chỉ là một bộ phận hợp thành của kinh tế toàn cầu
1.1 Tiến bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy toàn cầu hoá.
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian vừa qua
đã làm cho hội nhập kinh tế bước vào một giai đoạn mới -Giai đoạn toàn cầu hoá và
khu vực hoá. Những tiến bộ to lớn về công nghệ thông tin cũng như trong lĩnh vực
kỹ thuật và công nghệ khác đã cho phép tổ chức sản xuất và tiến hành buôn bán trên
quy mô toàn cầu. Các máy Fax,cáp sợi thuỷ tinh,máy vi tính tạo điều kiện thuận lợi
cho các công ty đa quốc gia tổ chức điều khiển từ xa các chi nhánh bố trí chằng chịt
của họ một cách nhanh chóng, kịp thời. Các phương tiện vận chuyển khổng lồ rất
hiện đại có tốc độ cao giúp cho việc tổ chức sản xuất, chế tạo, lắp ráp, và buôn bán
các sản phẩm làm ra ở nhiều địa bàn khác nhau, có khi xa nhau hàng nghìn, hàng vạn
km, nhằm khai thác lợi thế so sánh ở mỗi nơi. Điều này đã làm cho biên giới quốc gia
đặc biệt là về kinh tế ngày càng mất tác dụng. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
cộng với sức mạnh khổng lồ của các công ty xuyên quốc gia đã và đang làm thay đổi
bộ mặt thế giới từng phút từng giờ
1.2 Thúc đẩy tự do hoá thương mại thế giới
Từ những năm 1990, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế
giới đã tạo điều kiện cho thương mại thế giới phát triển một cách nhanh chóng. Việc
tự do hoá mậu dịch với biện pháp bãi bỏ hàng rào thuế quan đã giúp cho nền thương
mại thế giới phát triển một cách ngoạn mục một sự phát triển “trong cạnh tranh gay
gắt”, thị trường của các quốc gia trên thế giới được khai thông và mở rộng trên mọi
lĩnh vực. Nếu như trước kia thương mại thế giới chỉ tập trung vào những mặt hàng
truyền thống thì nay nó còn lan ra cả dịch vụ, bất động sản Theo nhận xét của báo
“Tấm gương” (Đức)tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới từ năm 1991 cho tới năm
1998 nhanh hơn gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP của thế giới ví dụ :Tốc độ tăng
trưởng GDP của thế giới năm 1994 là 3,9% trong khi đó tốc độ tăng trưởng thương

mại thế giới là 9,5%. Tương tự năm 1995:3,6%và 8%;năm 1996:4,1%và 7% ;năm
1997:4,1% và 9,4%. Mặc dù trong năm 1998,bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ ở châu á nhưng tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới vẫn đạt 3,7%.
4
Tổ chức thương mại thế giới - WTO và các tổ chức mậu dịch tự do khu vực
như liên hiệp châu âu -EU, diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái bình dương -
APEC, khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ-NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
AFTA đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do hoá thương mại thế giới.
Trong đó tổ chức thương mại thế giới WTO ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy xu hướng toàn cầu hoá thương mại. Tại hội nghị cấp bộ trưởng lần thứ
nhất của WTO họp ở xingapore với 128 nước tham gia đã thông qua được hiệp định
công nghệ thông tin ITA bao gồm việc xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với các mặt
hàng bán dẫn, các sản phẩm thông tin Viễn thông và các thiết bị máy tính, phần mềm
và các thiết bị khoa học. Tiếp nối các hiệp định ban đầu của vòng đàm phán uruguay,
vòng đàm phán Singapore càng thúc đẩy hơn nữa trong quá trình tự do hoá thương
mại toàn cầu
Như vậy toàn cầu hoá với việc ra đời của EU, NAFTA, AFTA và đặc biệt là
WTO đã đánh dấu thời đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa khác
nhau ở các thị trường, của một số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho các
nước phát triển đã chấm dứt. Buôn bán quốc tế đã chuyển sang một thời đại mới, thời
đại của tự do hoá thương mại thế giới
1.3 FDI và vai trò của các công ty đa quốc gia
Vai trò ngày càng tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một nhân tố rất
quan trọng để thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá. Tổng giá trị FDI toàn thế giới năm 1994
là 209 tỷ USD; năm 1995 là 260 tỷ USD; năm 1996 là 320 tỷ USD; năm 1998 là 450
tỷ USD. Với việc đầu tư ra nước ngoài đã góp phần làm tăng nhanh quá trình quốc tế
hoá đời sống kinh tế Thế giới, cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn thương mại quốc tế.
Nhưng ngược lại chính xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế quốc tế càng thúc
đẩy các công ty đa quốc gia đầu tư ra nước ngoài. Các nước G7 là các nước đứng đầu
về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. FDI vào châu á chiếm khoảng 1/3 FDI toàn thế giới

Các công ty đa quốc gia MNCs là lực lượng chủ chốt đầu tư ra nước ngoài.
Hàng năm các MNCs đầu tư ra khoảng 300-350 tỷ USD. Hoạt động của MNCs đã có
vai trò to lớn trong phát triển thương mại quốc tế. Theo số liệu ước tính, những năm
gần đây giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của các MNCs đạt khoảng 6,5 đến 7
nghìn tỷ USD trong đó xuất khẩu nội bộ của MNCs đạt khoảng 2000 tỷ USD. Đến
hết năm 1998 trên thế giới có khoảng 39000MNCs và có 300000 chi nhánh (công ty
con) ở nước ngoài với tổng số vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài FDI lên tới 3000 tỷ
USD
5
Bên cạnh những đóng góp lớn về vốn cho phát triển sản xuất và thương mại
quốc tế, các MNCs có vai trò to lớn trong chuyển giao công nghệ. Việc chuyển giao
công nghệ là điều kiện khách quan giúp cho các MNCs chiếm lĩnh thị trường và nâng
cao lợi nhuận, đồng thời có khả năng chi phối các đối tác trong hoạt động kinh doanh.
Các MNCs có thể chuyển giao kỹ thuật công nghệ hiện đại trong nội bộ công ty mà
chuyển giao kỹ thuật công nghệ ở cấp thấp hơn cho các nước khác, công ty khác
1.4 Liên kết kinh tế quốc tế mở rộng trên các cấp độ khác nhau
Hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian vừa qua theo nhiều chiều hướng và
tầng nấc khác nhau: Song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu.
Cùng với việc ra đời diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương-APEC, khu
vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA đã
chứng minh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng củng cố và phát triển cả bề rộng lẫn
bề sâu .
Trong năm 1996, hội nghị cấp cao á -âu(ASEM) lần thứ nhất họp tại Băng cốc
(Thái lan) với sự tham dự của vị nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ 10 nước
châu á và các nước trong EU nhằm xây dựng thể chế liên kết kinh tế liên lục địa á-âu.
Sự kiện này đã khép kín cạnh thứ ba của tam giác liên kết kinh tế liên lục địa trên thế
giới, mà hai cạnh trước đã có từ trước là diễn đàn kinh tế châu á Thái bình dương
APEC gắn liền với các nước châu á và châu mỹ ở ven hai bờ Thái bình dương, và khu
vực mậu dịch xuyên Đại Tây Dưong TAFTA giữa Hoa Kỳ và Bắc Mỹ với EU và Tây
Âu

Trong những năm qua, các tổ chức liên kết tiểu khu vực và khu vực tiếp tục
phát triển. ở châu Phi, cộng đồng kinh tế các nước Tây phi (ECOWAS) nằm trong
khu vực nghèo nhất thế giới gồm 16 nước thành viên trong đó có Nigeria, Ghana,
Mali, Senegan đã xúc tiến từng bước việc thiết lập liên minh hải quan vào năm 2000
và liên minh kinh tế toàn diện vào năm 2005. Cũng tại lục địa đen, 12 nước thành
viên Cộng đồng phát triển phía nam Châu phi -SADC đã ký nghị định thư vào năm
1996 thành lập khu vực mậu dịch tự do với 130 triệu dân và kêu gọi cắt giảm thuế
quan trong thời hạn tối đa 8 năm
Các nước ở Nam Mỹ đang tiến tới thiết lập khu vực buôn bán tự do châu Mỹ
khổng lồ FTAA vào năm 2005, tạo ra một khối buôn bán tự do lớn thứ tư trên thế giới
với 250 triệu người tiêu dùng và có GĐP là 800 tỷ USD. Các hàng rào thuế quan
giữa các nước này dự định sẽ huỷ bỏ vào năm 2004
Tại châu á, trong những năm qua xu hướng hợp tác tiểu khu vực phát triển
mạnh.Việc Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nga ký kết các
6
hiệp định thành lập khu vực phát triển kinh tế vùng sông Turmen ở Đông Bắc A hồi
tháng 12/1995 đã mang đến sinh khí mới cho hợp tác kinh tế ở vùng này. Tại hội nghị
quốc tế ở Bắc Kinh với chủ đề đẩy mạnh phát triển và hợp tác khu vực giữa các nước
đông Bắc á trong thế kỷ 21, các học giả nhất trí cho rằng khi nền kinh tế khu vực Thái
Bình Dương phát triển mạnh, vùng Đông Bắc á nên tăng cường hợp tác khu vực
nhằm tạo một thị trường có tiềm lực lớn. Tại khu vực Nam á, 7 nước trong tổ chức
SAARC -Hiệp hội các quốc gia Nam á vì sự hợp tác khu vực trong đó có ấn Độ,
Pakistan đã đồng ý huỷ bỏ hàng rào buôn bán càng nhanh càng tốt nhằm tăng cường
buôn bán và hợp tác khu vực trong các liên doanh, đầu tư và kỹ thuật với hy vọng
thành lập được một khu vực buôn bán giống như ASEAN
Việc tổ chức ASEAN chính thức kết nạp Lào và Myanmar trong thời gian vừa
qua đã mở ra triển vọng to lớn hình thành Tổ chức hiệp hội các nước Đông Nam á
ASEAN và khu vực mậu dịch tự do thương mại AFTA bao gồm toàn thể 10 nước ở
trong khu vực. Hiện tại ASEAN với 9 nước thành viên là khu vực kinh tế lớn thứ tư
trên thế giới, có diện tích 3,3 triệu km2 với 400 triêu dân, có GDP hơn 550 tỷ USD,

xuất khẩu hơn 300tỷ USD/năm. AFTA đang đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch tự do
buôn bán vào năm 2003 hoặc sớm hơn, thúc đẩy hình thành khu vực đầu tư tự do
ASEAN và sau đó từng bước tiến tới nhất thể hoá ASEAN về kinh tế trong vùng vài
ba chục năm tới
Tóm lại, toàn cầu hoá đang tạo ra những tác động tích cực và có những ảnh
hưởng tiêu cực, những cơ hội to lớn và những thách thức nghiêm trọng, nó kích thích
sự phát triển đối với những ai biết khai thác lợi thế của xu hướng lịch sử mới này và
khiến những ai chậm chân, đứng bên lề có thể bị tụt hậu ngày càng xa
2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một xu hướng vừa là yêu cầu của các quốc gia
trên thế giới. Đối với Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tìm kiếm những nguồn
lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để hỗ trợ cho sự nghiệp cải cách và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện mục tiêu đó, trong những năm vừa qua Việt
Nam đã thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ để thực hiện
từng bước hội nhập. Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ thương mại, hợp
tác kinh tế với nhiều nước và tổ chức quốc tế theo nhiều tầng nấc khác nhau: Song
phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Năm 1995, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của ASEAN và đang nỗ lực tham gia thực hiện các chương
trình hợp tác kinh tế ASEAN, đặc biệt là chương trình khu vực mậu dịch tự do AFTA.
Cùng với việc tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam cũng đã tham gia diễn đàn hợp tác á
7
- Âu (ASEM) ngay từ khi hình thành vào tháng 3/1997 với tư cách là thành viên sáng
lập. Đặc biệt, năm 1997 đánh dấu một sự kiện quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối
với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sau một thời gian nỗ lực vận
động và chuẩn bị, Việt Nam đã được các nhà lãnh đạo APEC tuyên bố sẽ kết nạp làm
thành viên vào năm 1998. Đối với tổ chức thương mại thế giới (WTO) Việt Nam cũng
đã đệ đơn xin gia nhập và trong hai năm 1997, 1998 Việt Nam đã chuẩn bị cho các
vòng đàm phán gia nhập WTO với tổ công tác và các nước quan tâm.
Trong thời gian qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa
Việt nam và Mỹ, hai nước đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các hiệp định

kinh tế song phương về các vấn đề về nợ , bản quyền, từng bước bình thường hoá
quan hệ kinh tế thương mại. Song song với những việc trên, trong những năm qua
Việt Nam tích cực hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF nhằm tận
dụng một cách có hiệu quả sự hợp tác của các tổ chức đó phục vụ tiến trình phát triển
kinh tế và hội nhập quốc tế của mình. Nhưng có một điều là tất cả sự hợp tác, quan hệ
trên đều phải lấy các nguyên tác của WTO làm tiêu chuẩn.
3. Những cơ hội và thách thức với Việt Nam trong quá trình mở cửa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi,
tham gia hội nhập với xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với nhiều nước trên thế
giới.Vì vậy, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế một mặt đang mở ra nhiều cơ hội cho
chúng ta, mặt khác cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức lớn lao.
3.1. Những lợi ích của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá
đất nước. Việt Nam mở cửa và hội nhập vào kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho Việt
Nam thay đổi cơ cấu kinh tế thích hợp hướng công nghiệp hoá và xuất khẩu, tạo cơ
hội để phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ.
+ Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế và mở rộng
được nhiều thị trường xuất khẩu ra bên ngoài do việc được hưởng quy chế tối huệ
quốc (MFN) và ưu đãi quốc gia (NT) của các nước thành viên, đặc biệt là các mặt
hàng xuất khẩu mà ta có lợi thế so sánh như gạo, cà phê, hải sản, may mặc, dày dép
Ví dụ: Việc Việt Nam tham gia vào APEC sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hợp
tác về thương mại với các nước khu vực châu á - Thái Bình dương. Thương mại giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm hơn 80% tổng
lượng thương mại quốc tế của Việt Nam. Tham gia vào APEC sẽ giúp Việt Nam khai
8
thác được lợi thế, tận dụng những ưu đãi của APEC dành cho các nước đang phát
triển, tránh rơi vào thế bị cô lập trong xu thế hợp tác và cạnh tranh khu vực.
+ Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế Việt Nam phải tiến hành cải cách
thể chế, chính sách, luật pháp cho phù hợp với yêu cầu của các tổ chức này. Điều này

công với các lợi thế so sánh mà lâu nay Việt Nam có như lao động, vị trí địa lý sẽ tạo
điều kiện cho Việt Nam có cơ hội thu hút được vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực để các công ty trong nước đổi mới
công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, tăng cường hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất
lượng sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện kinh tế mở. Ngoài ra, hội nhập
kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện cho các công ty Việt Nam bước vào thị trường thế giới
để mở rộng sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trực tiếp với các công ty nước ngoài.
+ Trong quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ sử
dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương để bảo vệ được lợi ích và giảm bớt
được sức ép của các nước lớn trong thương mại. Đồng thời nâng cao được vai trò của
Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương lượng thương mại trong tương lai.
3.2. Những nghĩa vụ và thách thức của Việt Nam.
Cùng với những lợi ích mang lại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì
bên cạnh đó quá trình hội nhập buộc Việt Nam phải thực hiện những nghĩa vụ của
mình theo những tiêu chuẩn quốc tế và tất yếu Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn,
thách thức.
3.2.1. Nghĩa vụ của Việt Nam.
+ Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ thông qua việc
giảm thuế và các biện pháp phi thuế quan trong khi luật lệ, kinh nghiệm và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, nhất là lĩnh vực dịch vụ bao
gồm: Ngân hàng, Bảo hiểm, Vận tải, Bưu chính - Viễn thông, Xây dựng và Tư vấn.
+ Việt Nam sẽ phải có sự bảo vệ hợp lý đối với quyền tác giả của các sản
phẩm trí tuệ như: Mẫu mã, bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại, chương trình máy
tính và thu thanh thông qua các quy định pháp lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
+ Việt Nam cần phải sửa đổi các qui định về đầu tư nước ngoài không phù
hợp, phải thực hiện các nghĩa vụ đối với quốc gia và giảm hoặc loại trừ những hạn
chế liên quan đến đầu tư nước ngoài như yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, phần trăm hàng
xuất khẩu trong các dự án đầu tư.
+ Việt Nam phải tiếp tục cải cách hệ thống thương mại và kinh tế của mình
phù hợp với các qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế. Các khu vực cần phải cải

9
cách hơn nữa gồm hệ thống giá, chế độ xuất nhập khẩu, hệ thống thuế và tài chính,
các hoạt động thương mại của khu vực doanh nghiệp Nhà nước và bảo hộ quyền tác
giả. Các nghĩa vụ khác Việt Nam sẽ phải thực hiện bao gồm: Minh bạch hoá chế độ
thương mại, áp dụng thống nhất chính sách thương mại trên phạm vi cả nước; và có
thời gian biểu cho quá trình cải cách kinh tế.
3.2.2. Những thách thức:
+ Nền kinh tế Việt Nam còn nhiều yếu kém. Việc mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế có nhiều nội dung liên quan đến tự do hoá thương mại và đầu tư, và điều này
trong thời gian đầu sẽ gây cho Việt Nam những khó khăn nhất định. Cùng với những
khía cạnh tích cực của tự do cạnh tranh, thì mặt tiêu cực cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn
nếu như cải cách trong nước không được thực hiện kịp thời và đúng lượng.
+ Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp vả lại
đang trong quá trình chuyển đổi. Vì vậy việc hoạch định một chính sách kinh tế
thương mại sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa tạo được những điều kiện hợp
lý để tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế vẫn là một điều nan giải khó có
thể giải quyết được trong thời gian ngắn.
+ Một điều tất yếu là trong quá trình hội nhập Việt Nam sẽ phải giảm thuế xuất
nhập khẩu. Việc giảm thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách vốn thu
đã không đủ chi.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là một lĩnh vực hoàn toàn mới lạ đối với Việt Nam.
Trong khi đó đội ngũ cán bộ của Việt Nam còn khá yếu kém cả về kiến thức chung,
cũng như kiến thức chuyên ngành có liên quan đến vấn đề hội nhập.
+ Một thực tế cho chấy, hiện nay hầu hết các ngành kinh tế Việt Nam từ sản
xuất đến dịch vụ chưa chuẩn bị hay chưa xây dựng một chiến lược thống nhất về hội
nhập để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, biểu tượng Việt Nam
trên thương trường quốc tế.
+ Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á có phần nào tác động tới
nền kinh tế Việt Nam. Do vậy trong thời gian tới quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam ít nhiều gì cũng sẽ gặp khó khăn.

II - Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập.
Trong thời gian tới xu hướng hội nhập nói chung vẫn tiếp tục được củng cố và
phát triển cả bề rộng và bề sâu, trong đó đáng chú ý là xu hướng đẩy nhanh việc mở
10
cửa thị trường trong nhiều lĩnh vực. Kể cả lĩnh vực được coi là phức tạp và có nhiều
gay cấn là lĩnh vực thương mại dịch vụ mà trong đó dịch vụ Viễn thông được đặt lên
hàng đầu.
1. Các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới.
Trong 2 thập kỷ qua đã diễn ra những sự thay đổi mạnh mẽ trong Viễn thông,
sự thay đổi công nghệ một cách nhanh chóng và đưa vào nhiều ứng dụng công nghệ
mới. Thị trường Viễn thông tăng trưởng rất nhanh, theo dự báo số thuê bao điện thoại
cố định vào năm 2005 sẽ gấp đôi năm 1994 (trên 1,2 tỷ), số thuê bao điện thoại di
động từ 80 triệu năm 1994 tăng đến 400 triệu, số thuê bao Internet từ 65 triệu năm
1997 sẽ lên đến 570 triệu năm 2000. Tại hội nghị phát triển Viễn thông thế giới do
ITU tổ chức tại Malta từ 23/3 - 1/4/1998, sau khi đánh giá môi trường Viễn thông
hiện nay đã nêu bật lên các xu hướng phát triển Viễn thông là:
1.1. Xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá, mở cửa thị trường dịch vụ
Viễn thông ở mức quốc gia, khu vực và quốc tế.
Việc toàn cầu hoá về kinh tế đã thúc đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại
toàn cầu, làm cho giao lưu kinh tế mậu dịch toàn cầu ngày càng sôi động. Vấn đề
thương mại hoá dịch vụ được đặt ra trong tất cả các tổ chức thương mại toàn cầu và
khu vực như WTO, APEC, ASEAN trong đó có dịch vụ Viễn thông. Các tổ chức
này đều nhằm mục đích là đến năm 2020 sẽ tiến tới việc tư do hoá hoàn toàn thương
mại dịch vụ trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay trong hiệp định chung về thương
mại dịch vụ (Ganeral Agreement on trade in servies - GATS) của WTO, các dịch vụ
Viễn thông được chia làm hai loại - đó là các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ giá trị gia
tăng trong đó các dịch vụ cơ bản đóng vai trò quan trọng hơn xét từ góc độ kinh tế, kỹ
thuật cũng như chủ quyền an ninh quốc gia. Nói chung trong thời gian tới việc tự do
hoá, mở cửa thị trường Viễn thông ở các quốc gia, các tổ chức khu vực đều dựa trên
nguyên tắc của WTO về dịch vụ Viễn thông trong hiệp định chung về thương mại

dịch vụ.
Phân loại dịch vụ Viễn thông trong WTO/ GATS
I. Các dịch vụ Viễn thông cơ bản:
1. Các dịch vụ thoại.
2. Các dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch gói.
3. Các dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch kênh.
11
4. Các dịch vụ TELEX.
5. Các dịch vụ Telegraph.
6. Các dịch vụ Facsimile.
7. Các dịch vụ cho thuê kênh riêng.
8. Các dịch vụ nhắn tin.
9. Các dịch vụ di động tế bào số/analogue.
10. Các dịch vụ thông tin vệ tinh.
11. Các dịch vụ thông tin các nhân (PCS)
12. Các dịch vụ dữ liệu di động.
13. Các dịch vụ khác.
II. Các dịch vụ giá trị gia tăng.
1. Dịch vụ thư điện tử (E mail)
2. Dịch vụ thư thoại.
3. Dịch vụ khôi phục thông tin và cơ sở dữ liệu trực tuyến (on line)
4. Dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử (EDI).
5. Dịch vụ Facsimile gia tăng giá trị/cải tiến tính năng (gồm cả dịch vụ lưu trữ
và tự động chuyển, lưa trữ và khôi phục).
6. Dịch vụ chuyển đổi mã và giao thức.
7. Dịch vụ xử lý thông tin và / hoặc số liệu trực tuyến (kể cả dịch vụ xử lý các
giao dịch kinh doanh).
8. Các dịch vụ khác.
Đối với các dịch vụ giá trị gia tăng (VAS) là những dịch vụ Viễn thông đầu
tiên được đưa ra đàm phán và cam kết trong GATT 93 (tiền thân của WTO). Kết thúc

vòng đàm phát GATT93, đã có 68 nước trên thế giới có cam kết với cấc dịch vụ Viễn
thông VAS . Sở dĩ các nước bàn và cam kết mở cửa các dịch vụ VAS trước vì đây là
những dịch vụ dễ triển khai về kỹ thuật và ít ảnh hưởng đến quyền lợi kinh tế cũng
như an ninh quốc gia của các nước.
Tuy nhiên, hoạt động có ý nghĩa nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất về
thương mại dịch vụ Viễn thông trong WTO chỉ bắt đầu khi có vòng đàm phán về mở
cửa thị trường các dịch vụ Viễn thông cơ bản (Group on basis telecom -GBT). Đây là
lĩnh vực dịch vụ Viễn thông quan trọng mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn bảo hội vì
lý do an ninh, chủ quyền quốc gia và lợi nhuận. Ngày 15/2/1997, 69 quốc gia thành
12
viên WTO đã ký nghị định thư thứ 4 của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ liên
quan đến dịch vụ Viễn thông cơ bản, có hiệu lực từ 5/2/1998. Cho tới nay con số các
nước tham gia ký kết hiệp định về Viễn thông cơ bản đã tăng lên 72 nước, có thể nói
thế giới Viễn thông đã thay đổi một cách căn bản nhớ kết quả của hiệp định này. 72
nước đã đưa ra cam kết trong hiệp định chiếm tới 93% giá trị thị trường Viễn thông
thế giới. Trong hiệp định này, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, tiến trình phát
triển Viễn thông của từng nước, các quốc gia đều đưa ra các cam kết về lộ trình hội
nhập và mở cửa của thị trường dịch vụ Viễn thông từ nay đến năm 2020.
Đối với nhóm các nước phát triển như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản tự do hoá và
mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông bắt đầu từ năm 1998. Đây là những nước chiếm
tới 75% thị trường dịch vụ Viễn thông trên toàn thế giới do vậy quá trình tự do hoá và
mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển dịch vụ
Viễn thông của các nước còn lại.
Các nước công nghiệp mới như Singapore, Hàn Quốc mặc dù Viễn thông
của các nước này không phát triển bằng các nước công nghiệp phát triển nhưng các
nước này cũng đưa ra cam kết sẽ tự do hoa và mở cửa thị trường hoàn toàn trong một
vài năm tới. Còn đối với các nước đang và chậm phát triển, mặc dù biết rằng tự do
hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông sẽ đem đến nhiều bất lợi nhưng trước xu
thế toàn cầu hoá tất cả các lĩnh vực kinh tế đồng thời trước sức ép của các nước phát
triển, các nước này cũng đã cam kết sẽ tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn

thông từ nay đến năm 2020.
Hiện tại giá trị doanh thu từ Viễn thông quốc tế chỉ chiếm khoảng trên 10%
trong tổng số 670 tỷ USD của thị trường Viễn thông toàn cầu. Tuy nhiên, với kết quả
đạt được của GBT trong WTO, với xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng, sự thay đổi
nhanh chóng của công nghệ và xu thế cạnh tranh ngày càng tăng, tỷ lệ trên có thể
tăng lên 15-20% vào đầu thế kỷ tới.
1.2. Xu hướng cải cách mạnh mẽ ngành Viễn thông theo hướng
khuyến khích cạnh tranh và khuyến khích sự tham gia của khu vực tư
nhân trong khai thác dịch vụ Viễn thông.
Hiện nay trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển, thị trường dịch
vụ Viễn thông vẫn do một hoặc hai công ty khai thác Viễn thông duy nhất thống trị về
mặt truy nhập nội hạt và lưu lượng đường dài trong nước và quốc tế. Đồng thời các
công ty này cũng thống trị luôn trong lĩnh vực thông tin di động. Với việc độc quyền
13
đã làm cho giá cả thường mất cân đối, các công ty thống trị không khuyến khích giảm
chi phí hay nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tất nhiên vấn đề độc quyền trong Viễn
thông có liên quan đến an ninh quốc phòng. Nhưng trước xu thế toàn cầu hoá, tự do
hoá trong khai thác dịch vụ Viễn thông, hầu như Chính phủ các nước trên thế giới đã
cho phép thêm nhiều công ty được tham gia vào thị trường dịch vụ Viễn thông. Các
lĩnh vực khuyến khích các công ty tham gia khác thác thường là các lĩnh vực hấp dẫn,
có lợi nhuận cao như là các dịch vụ đường dài quốc tế, di động, các thiết bị đầu cuối
khách hàng và các dịch vụ giá trị gia tăng. Việc tăng số công ty được tham gia khai
thác dịch vụ Viễn thông nhằm tăng cường sự tham gia của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước tham gia vào quá trình cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy Viễn
thông phát triển. Tuy nhiên việc đưa cạnh tranh vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông
không phải là một quá trình xảy ra nhanh chóng kể cả những nước công nghiệp phát
triển như Anh, Mỹ, Pháp Thông thường lúc đầu Chính phủ chỉ cho phép hai hoặc
ba công ty cạnh tranh khai thác các dịch vụ Viễn thông, và các công ty mới thành lập
thường bị hạn chế về phạm vi khai thác.Ví dụ:Như ở các nước đang phát triển các
công ty mới thành lập lúc đàu chỉ được khai thác dịch vu nội hạt, các dịch vụ giá trị

gia tăng và thông tin di động.Sau một thời gian mới cho phép tham gia khai thác các
dịch vụ cơ bản, có phạm vi đường dài và quốc tế. Tuy nhiên hầu như các nước đều
duy trì một công ty chủ đạo như công ty NTT của Nhật Bản, BT của Anh, ATT của
Mỹ ,FT của Pháp Thông thường trên thế giới, dịch vụ thông tin di động, nhắn tin
được khuyến khích sự tham gia của nhiều công ty, tại vì:
+ Dịch vụ thông tin di động và nhắn tin thường không ảnh hưởng đến nhiều
doanh thu của thông tin cố định.
+ Việc xây dựng kết cấu mạng lưới của các công ty kinh doanh dịch vụ thông
tin di động, nhắn tin thường không ảnh hưởng đến mạng cố định.
Ngoài ra trong thời gian gần đây để khuyến khích cạnh tranh trong khai thác
dịch vụ Viễn thông cũng như thu hút được nguồn lực để phát triển Viễn thông, chính
phủ của nhiều nước đã cho phép khu vực tư nhân tham gia vào việc cho phép khu vực
tư nhân tham gia vào hiện tại các nước sử dụng hai phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp thứ nhất: Cho các công ty tư nhân tham gia vào khai thác dịch vụ
Viễn thông, cùng cạnh tranh với các công ty nhà nước. Tuy nhiên các dịch vụ này thường
bị giới hạn ở các dịch vụ giá trị gia tăng và các dịch vụ bán lại, phương pháp này được sử
dụng phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển đặc biệt là Mỹ, Anh, Canađa và Nhật
Bản.
14
Phương pháp thứ hai: Tư nhân hoá hay ở Việt Nam còn gọi là cổ phần hoá
các công ty khai thác dịch vụ Viễn thông thuộc sở hữu Nhà nước, tất nhiên Chính phủ
vẫn nắm cổ phàn khống chế. Việc cổ phần hoá nhằm giúp Chính phủ nhận được
nguồn vốn cần thiết từ khu vực tư nhân và tận dụng ưu thế của thị trường cổ phiếu
đang phát triển. Rất nhiều nước đang áp dụng phương pháp này và tất nhiên ở các thị
trường Viễn thông tiên tiến và phát triển thì tốc độ tư nhân hoá càng nhanh chóng.
Và các nước ở Đông Âu và cộng đồng các quốc gia độc lập - SNG thường thực hiện
theo phương pháp này. Ví dụ: ở Bungary Chính phủ bán 25% cổ phần của công ty
BTC (công ty Viễn thông Bungary). Tốc độ tư nhân hoá những năm gần đây đã phát
triển nhanh chóng kể cả ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Xu thế này
ngày càng tăng khi mà tự do hoá Viễn thông đang diễn ra sôi động trên toàn thế giới

Tóm lại, xu hướng cải cách mạnh mẽ ngành Viễn thông theo hướng khuyến
khích cạnh tranh và khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong khai thác
dịch vụ Viễn thông ngày càng phổ biến gần như toàn bộ các nước trên thế giới với
mục tiêu tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước, hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về thông tin Viễn thông của
xã hội và người sử dụng
Khi xem xét hai xu hướng chủ yếu về Viễn thông kể trên phải kể đến vai trò
của các công ty đa quốc gia - MNCs trong lĩnh vực khai thác dịch vụ Viễn thông.
Chính các công ty này là chất xúc tác cho quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá Viễn
thông. Các MNCs đã xây dựng một mạng lưới thông tin có tính toàn cầu từ đầu này
đến đầu kia, không chia cắt, phục vụ thông tin quá "tất cả một cửa". Khi các hiệp ước,
hiệp định về tự do hoá thương mại dịch vụ Viễn thông giữa các nước được thực hiện
thì các MNCs thường thường hay liên minh với các công ty khai thác nhà nước ở
nước sở tại để xâm nhập vào thị trường các nước này. Hiện tại, các MNCs trong Viễn
thông chủ yếu tập trung ở các nước phát triển Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Với lợi
thế về vốn, công nghệ, thị trường các MNCs ngày càng xâm nhập sâu vào tất cả các
loại hình dịch vụ Viễn thông, từ dịch vụ giá trị gia tăng cho đến dịch vụ cơ bản.
1.3. Xu hướng hội tụ công nghệ Viễn thông - Tin học - Phát thanh
truyền hình và đa phương tiện.
Bước vào thập kỷ 90, đi đôi với sự tiến bộ và hoà nhập vào nhau của kỹ thuật
Viễn thông và kỹ thuật tin học, đi đôi với việc thúc đẩy tin học hoá toàn cầu và dần
dần nới lỏng việc quản chế thị trường Viễn thông, ngành Viễn thông, ngành tin học và
phát thanh truyền hình trên thế giới đã hoà quyện, xâm nhập, chồng lấn nghiệp vụ lẫn
15
nhau, ranh giới phân cách giữa các ngành nghề trước kia ngày càng không rõ ràng. Sự
hoà nhập về kỹ thuật thúc đẩy sự hoà nhập về mạng lưới, hoà nhập về nghiệp vụ và
hoà nhập về thị trường. Xu hướng này được chứng minh bởi sự sáp nhập và liên hợp
ngày càng nhiều của các công ty khai thác Viễn thông, máy tính truyền hình và hữu
tuyến.

Ví dụ:
+ Tháng 1/1998 Công ty Bell Tây Nam SBC của Mỹ đã bỏ ra 4,4 tỉ USD mua
lại Công ty New Southern England để tiến vào thị trường điện thoại nội hạt Đông Bắc
nước Mỹ.
+ Ngày 15/9/1998 Công ty Bell Tây Nam SBC của Mỹ lại cùng với công ty
Viễn thông lớn thứ bảy của Hoa Kỳ, cũng là nhà đầu tư ngoại quốc lớn nhất vào thị
trường Viễn thông Châu Âu, là công ty Ameritech, đã chính thức sáp nhập với giá đến
62 tỉ USD, trở thành vụ sáp nhập với mức tiền lớn nhất trong lịch sử Viễn thông nước
Mỹ.
+ Ngày 15/6/1998, Công ty Viễn thông phương Bắc - Vortel Canada bỏ ra 9,1
tỉ USD mua công ty Bell Net Works, là nhà chế tạo thiết bị mạng Internet mới và ưu
tú của nước Mỹ, cho thấy quyết tâm của các nhà cung ứng dịch vụ Viễn thông truyền
thông tiến quân vào thị trường tin học mà cụ thể là thị trường thiết bị mạng dữ liệu.
+ Ngày 26/6/1998, công ty điện báo điện thoại - ATT của Mỹ tuyên bố bỏ ra 4
tỉ USD doanh thu mua công ty truyền hình hữu tuyến (truyền hình cáp) lớn thứ hai
của nước Mỹ là TCI, trở thành vụ mua bán sáp nhập quy mô lớn nhất giữa hai ngành
Viễn thông và truyền hình hữu tuyến. Vụ việc này được coi như là sự bắt đầu quan
trọng của công ty điện thoại đường dài tiến quân vào thị trường nội hạt, cũng là bằng
chứng tốt đẹp về việc hoà nhập giữa Viễn thông và truyền hình hữu tuyến.
Ngoài ra còn có nhiều vụ thu mua, sáp nhập khác nữa giữa các hãng Viễn
thông (Chế tạo và khai thác, đường dài và nội hạt, trong nước và quốc tế )với các
hãng máy tính - tin học, các hãng truyền hình trong một nước, và giữa các nước và
các khu vực khác nhau. Sáp nhập, tổ chức lại và liên hiệp giữa các ngành Viễn thông-
Tin học-Truyền hình đã làm cho tài nguyên, tư bản, kỹ thuật, thị trường được tổ
chức lại, bù đắp ưu thế cho nhau giữa các ngành, Ví dụ: Các công ty Viễn thông cần
kỹ thuật ở các các công ty máy tính, còn các công ty máy tính thì cần thị trường ở các
công ty Viễn thông. Điều này tạo điều kiện cho mạng Viễn thông phát triển nhanh
chóng và trở thành cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu
về dịch vụ thông tin và trở thành nền tảng hết sức quan trọng để "Xã hội công
nghiệp" chuyển sang thời kỳ của "Xã hội thông tin".

16
2. Tự do hoá dịch vụ Viễn thông - nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia
các tổ chức kinh tế quốc tế.
Năm 1995, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã mở
ra một thời kỳ mới cho kinh tế đối ngoại đó là thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đến
tháng 8 năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào tổ chức kinh tế châu á - Thái Bình
Dương - APEC. Và trong thời gian tới Việt Nam đang nỗ lực đàm phán, thương lượng
để được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, và cũng đang tiến hành
thương lượng với Hoa Kỳ để đi đến ký hiệp định thương mại giữa hai nước. Tuy
nhiên để hội nhập đầy đủ vào các tổ chức này thì Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ mà các tổ chức kinh tế quốc tế yêu cầu trong đó có nghĩa vụ tự do hoá
thương mại dịch vụ. Trước xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá và mở cửa thị trường dịch
vụ Viễn thông trên thế giới, thì vấn đề tự do hoá Viễn thông là một yêu cầu, một
nghĩa vụ cấp bách đối với Việt Nam khi mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt
để được gia nhập vào WTO cũng như ký được hiệp định thương mại Việt Mỹ thì tự
do hoá dịch vụ Viễn thông là một trong những vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu.
2.1. Trong tổ chức thương mại thế giới - WTO.
Sau vòng đàm phán Uruguay, quá trình tự do hoá thương mại được mở rộng ra
đối với cả thương mại dịch vụ. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS là nỗ lực
đầu tiên để đưa lĩnh vực thương mại dịch vụ theo những nguyên tắc điều tiết của thương
mại đa biên. GATS đưa ra một số quy định về nghĩa vụ chung và những yêu cầu cụ thể
trong thương mại dịch vụ. GATS đề cập đến một số khái niệm, nguyên tắc và quy định
cho phép các nước đang phát triển linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh quá trình tự do
hoá thương mại dịch vụ. Trong vòng đàm phán Uruguay về thương mại đa biên, 11
ngành dịch vụ đã được đưa ra đàm phán trong đó có lĩnh vực dịch vụ Viễn thông.
Hiện tại, thị trường dịch vụ Viễn thông ở Việt Nam vẫn được chính phủ bảo hộ
ở mức khá cao. Chỉ có 3 công ty được phép khai thác dịch vụ Viễn thông đó là: Tổng
công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam - VNPT; Công ty Viễn thông quân đội -
VIETTEL; Công ty cổ phần Viễn thông Sài Gòn - SPT. Còn đối với các công ty nước
ngoài chỉ được khai thác dịch vụ Viễn thông dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh

- BCC. Quy chế đối xử quốc gia (NT) vẫn chưa được dành cho các công ty dịch vụ
Viễn thông nước ngoài. Các công ty này đang phải tiếp tục đối mặt với những hạn chế
hành chính trong quá trình hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra, cũng như các lĩnh vực
khác, việc thiếu tính minh bạch và một cơ chế luật pháp thiếu đồng bộ đã ảnh hưởng
nhiều đến sự tiếp cận thị trường của các nhà cung cấp dịch vụ Viễn thông ở Việt Nam.
Vì vậy để được gia nhập vào WTO, Việt Nam phải đưa ra biện pháp cho phép các
17
công ty nước ngoài xâm nhập thị trường dịch vụ Viễn thông. Việt Nam cần phải có
các nghiên cứu về tác động của sự tự do hoá dịch vụ Viễn thông đối với nền kinh tế
và đưa ra các quyết định dịch vụ Viễn thông nào sẽ được mở, cho phép cạnh tranh
nước ngoài đặc biệt là các dịch vụ cơ bản. Việt Nam vẫn là một đất nước đang phát
triển, dịch vụ Viễn thông còn non trẻ và yếu kém. Tuy nhiên, một khi đã tham gia vào
cuộc chơi thương mại toàn cầu, Việt Nam không thể không tính tới phải mở rộng lĩnh
vực dịch vụ thương mại nói chung và lĩnh vực dịch vụ Viễn thông nói riêng. Việc mở
cửa hội nhập dịch vụ Viễn thông trước hết là vì lợi ích phát triển của Việt Nam, tạo
thuận lợi cho Viễn thông Việt Nam phát triển phù hợp với xu thế phát triển của thế
giới hiện nay.
2.2. Trong ASEAN.
Các quốc gia trên thế giới mở cửa và hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực
như ASEAN, APEC, EU đều lấy các nguyên tắc hoạt động của WTO làm tiêu
chuẩn. Do vậy mở cửa và hội nhập dịch vụ Viễn thông trong ASEAN cũng đều dựa
trên các nguyên tắc của GATS/WTO. Nhưng các cam kết tự do hoá dịch vụ Viễn
thông trong ASEAN phải sâu và rộng hơn so với các cam kết của các nước thành viên
đã đưa ra trong GATS/WTO. Thực tế cho thấy, hết vòng I (1996-1998) về đàm phán
dịch vụ Viễn thông trong ASEAN khó có thể đạt được những gì cao hơn so với đàm
phán trong WTO vì các nước ASEAN đã phải nhượng bộ đáng kể trong hiệp định
Viễn thông cơ bản (GBT) nên không thể đưa ra được các cam kết sâu hơn nữa trong
ASEAN. Đối với Việt Nam, hiện tại chưa phải là thành viên của WTO nên trong quá
trình đàm phán về tự do hoá thị trường dịch vụ Viễn thông trong ASEAN, Chính phủ
Việt Nam đã tham gia cam kết trên cơ sở thể chế hiện hành. Do vậy trong thời gian

Việt Nam chưa trở thành thành viên chính thức của WTO thì Viễn thông Việt Nam
chưa phải chịu sức ép gì lớn về mở cửa thị trường.
2.3. Trong tổ chức kinh tế châu á - Thái bình dương (APEC).
Về tiến trình tự do hoá các hoạt động Viễn thông trong APEC đều nhằm vào
mục tiêu như đã đặt ra trong hội nghị cấp cao không chính thức AELM lần 2 (Bogor,
1994) và AELM lần 3 (Osaka, 1995), tức là thực hiện liên tục giảm những hạn chế,
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại dịch vụ, dành cho nhau ưu
đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia đi theo tiến trình của hiệp định đàm phán
Uruquay về thương mại dịch vụ GATS của tổ chức thương mại thế giới WTO.
APEC hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện thể hiện ở hai điểm:Thứ
nhất, APEC chỉ là một diễn đàn tư vấn kinh tế liên chính phủ nhằm xúc tiến sự hợp
tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Thứ hai, APEC chỉ là một diễn đàn tư vấn
18
kinh tế nên nó không đưa ra những chỉ thị, nguyên tắc có tính chất bắt buộc đối với
các thành viên, mọi hoạt động hợp tác đều dựa trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi
ích của các bên. Do vậy trong quá trình hợp tác, Việt Nam có thể tham gia ở lĩnh vực
và mức độ nào đó mà Việt Nam đủ khả năng. APEC đưa ra chương trình tự do hoá
mậu dịch đối với cả hàng hoá và dịch vụ cuối cùng là năm 2010 với các nước phát
triển và năm 2020 với các nước thành viên đang phát triển. Mỗi nước thành viên
được tuỳ ý, căn cứ vào thực tiễn đất nước mình mà đưa ra một kế hoạch hành động
trong đó vạch rõ lộ trình cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan khác gây
cản trở thương mại và đầu tư. Vì vậy trước mắt Viễn thông Việt Nam sẽ không gặp
nhiều khó khăn khi tham gia APEC vì Việt Nam có thể tạm thời dùng những cam kết
của Việt Nam với ASEAN và trong hiệp định thương mại Việt-Mỹ để áp dụng với
APEC. Ngoài ra một lợi thế khác là Việt Nam chưa gia nhập WTO.
Tuy nhiên, xét về mặt lâu dài thì Việt Nam không tránh khỏi phải chịu một sức
ép ngày càng tăng đối với tiến trình tự do hoá thương mại các dịch vụ Viễn thông,
mốc cuối cùng đối với Việt Nam là 2020 - tức là đến 2020 Việt Nam phải tự do hoá
thị trường dịch vụ Viễn thông dành cho nhau các ưu đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc
gia. Ngoài ra, do tính chất ràng buộc lẫn nhau của các nguyên tắc trong WTO,

ASEAN và APEC, việc Việt Nam tham gia các hoạt động về Viễn thông trong APEC
cũng sẽ gặp phải những thách thức lớn về mở cửa thị trường. Tại Hội nghị Vancouver
APEC đã đề ra 9 lĩnh vực dịch vụ tự do hoá trong đó có dịch vụ Viễn thông . Do vậy
lĩnh vực dịch vụ Viễn thông có thể được thúc đẩy tự do hoá sớm hơn thời hạn từ năm
2020.
2.4. Trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Việt Nam và Mỹ đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao từ tháng 7/1995. Hiện
nay hai nước đang tiến hành đàm phán Hiệp định thương mại song phương toàn diện,
hiệp định này sẽ bao gồm nhiều vấn đề về thương mại dịch vụ trong đó có dịch vụ
Viễn thông. Về cơ bản các điều khoản về thương mại dịch vụ Viễn thông trong dự
thảo hiệp định này là chia theo các nguyên tắc của WTO. Trong dự thảo này, Mỹ yêu
cầu Việt Nam phải mở cửa và tự do hoá tất cả các loại hình dịch vụ Viễn thông bao
gồm cả dịch vụ giá trị gia tăng và dịch vụ giá trị cơ bản, yêu cầu Việt Nam đưa ra phụ
lục nêu rõ các quy định của Việt Nam về truy nhập thị trường, đãi ngộ tối huệ quốc
(Most Favored Nation - MFN), đãi ngộ quốc gia (National treatment - NT), và ngoài
các hạn chế đó thì Việt Nam sẽ phải mở cửa hoàn toàn cho các dịch vụ và công ty
khai thác dịch vụ của Mỹ tham gia vào thị trường dịch vụ Viễn thông của Việt Nam.
19
Đây là một khó khăn đối với Việt Nam khi Việt Nam mới ở giai đoạn bắt đầu xem xét
việc điều chỉnh chính sách theo các nguyên tắc của WTO.
Các mối quan hệ thương mại và kinh tế song phương sẽ rất quan trọng đối với
Việt Nam, bởi Mỹ không chỉ là một thị trường tiềm năng lớn cho các sản phẩm của
Việt Nam và một nguồn cung cấp tài chính, kỹ thuật và kỹ năng quản lý mà còn là
một trong những đối tác đàm phán quan trọng trong tiến trình gia nhập WTO của Việt
Nam. Tuy nhiên xét về thực trạng phát triển Viễn thông của Việt Nam hiện nay, thì
những yêu cầu của Mỹ về mở cửa thị trường Viễn thông đối với Việt Nam là quá cao.
Mỹ phải chấp nhận một khoảng thời gian chuyển đổi nhất định theo quy chế mà
WTO cho phép Việt Nam khi đàm phán gia nhập tổ chức này.
3. Những thách thức và cơ hội đặt ra cho Viễn thông Việt Nam trước
xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế về dịch vụ Viễn thông.

3.1. Những thách thức.
Qua phân tích 3 xu hướng chủ yếu của Viễn thông trên thế giới cũng như yêu
cầu của các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực, có thể thấy Viễn thông Việt Nam
sẽ gặp phải một số thách thức chủ yếu khi tiến hành tự do hoá và hội nhập quốc tế về
dịch vụ Viễn thông sau:
+ Hiện tại Việt Nam vẫn chưa có Luật Bưu chính - Viễn thông, hệ thống luật
và văn bản pháp lý có liên quan nói chung cũng chưa được hoàn thiện và đồng bộ.
Điều này gây khó khăn rất lớn cho Việt Nam trong việc công khai hoá thể chế chính
sách của Viễn thông Việt Nam khi tham gia đàm phán với các tổ chức kinh tế quốc tế
cũng như quá trình xây dựng lộ trình hội nhập về dịch vụ Viễn thông. Mặt khác với
thể chế quản lý yếu kém và lạc hậu tồn tại trong một thời gian dài đã ảnh hưởng
không ít tới sự phát triển của Viễn thông Việt Nam.
+ Hội nhập cũng đồng nghĩa với việc đứng trước những áp lực về mở cửa thị
trường, dành ưu đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia cho các nước, các công ty và tổ
chức kinh doanh khai thác dịch vụ Viễn thông nước ngoài. Trong khi đó các công ty
trong nước nhất là Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam do hoạt động trong
một môi trường độc quyền với một thời gian dài sẽ gặp rất nhiều khó khăn do sức ép
cạnh tranh từ việc mở cửa thị trường. Mặt khác so với các công ty khai thác dịch vụ
Viễn thông trên thế giới thì các công ty của Việt Nam còn thu kém rất nhiều mặt:
Công nghệ, tài chính, thị trường, kinh nghiệm quản lý và một điều quan trọng là các
công ty này được hoạt động trong một môi trường cạnh tranh khá dài cho nên kinh
nghiệm kinh doanh của họ hơn hẳn các công ty Việt Nam. Do vậy trong thời gian tới,
việc tự do và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông đồng nghĩa với việc các công ty
20
trong nước sẽ mất dần thị trường do không đủ sức cạnh tranh với các công ty nước
ngoài.
+ Việc tự do và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông dẫn đến việc thành lập
nhiều công ty trong nước cũng như cho phép các công ty nước ngoài cùng tham gia
vào khai thác dịch vụ Viễn thông. Đối với các công ty, đặc biệt là các công ty nước
ngoài, với họ lợi nhuận vẫn đặt lên hàng đầu. Do vậy các công ty khai thác dịch vụ sẽ

tập trung tranh giành thị trường ở các vùng thành thị, khu công nghiệp và mảng thị
trường sinh lợi cao trong khi những vùng sâu, vùng xa và các mảng thị trường không
sinh lợi, mang tính chất công ích không ai làm, dẫn đến sự mất cân đối trong việc
phát triển kinh tế - xã hội và làm cho Nhà nước mất dần quyền kiểm soát đối với thị
trường Viễn thông, phải lệ thuộc vào các công ty mạnh (thường là các công ty nước
ngoài).
+ Đội ngũ cán bộ chưa đủ trình độ năng lực nên trong thời gian đầu của quá
trình hội nhập sẽ gặp rất nhiều khó khăn trước những thay đổi nhanh chóng của công
nghệ cũng như thị trường.
3.2. Những cơ hội.
Bên cạnh những thách thức chủ yếu kể trên thì quá trình mở cửa và hội nhập
quốc tế sẽ mang lại những cơ hội cho Viễn thông Việt Nam.
+ Việc mở cửa và hội nhập hay nói chính xác hơn là việc tham gia vào các tổ
chức quốc tế như ASEAN, APEC, WTO Viễn thông Việt Nam có thể tận dụng được
những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất trong lĩnh vực Viễn thông và vốn đầu
tư nước ngoài để xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia. Hiện tại đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông ở Việt Nam chỉ được hoạt động dưới
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), tuy nhiên mở cửa và tự do hoá thị
trường trong đó có việc cho phép các công ty nước ngoài đầu tư vào thị trường dịch
vụ Viễn thông dưới dạng liên doanh - JV, hình thức BOT sẽ thu hút được thêm
nhiều vốn đầu tư để phát triển Viễn thông, đa dạng hoá các dịch vụ.
+ Viễn thông vừa là một ngành kỹ thuật thuộc cơ sở kết cấu hạ tầng, là phương
tiện giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển. Chính vì vậy sự hội nhập Viễn thông
còn thúc đẩy sự tham gia của các ngành kinh tế khác như tài chính, ngân hàng,
thương mại, đầu tư và do đó gián tiếp tạo cơ hội thuận lợi cho các ngành cùng tham
gia vào quá trình hội nhập.
+ Việc tự do hoá và hội nhập dịch vụ Viễn thông đồng nghĩa với việc Viễn
thông Việt Nam sẽ nhận được những ưu đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, tạo điều
21
kiện thuận lợi cho các công ty cung cấp dịch vụ Viễn thông Việt Nam thâm nhập vào

thị trường các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
III - Tính cấp thiết phải xây dựng chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường
dịch vụ viễn thông Việt Nam
1. Bản chất của tự do hoá và mở cửa thị trường:
Toàn cầu hoá hiểu theo nghĩa rộng là sự gia tăng trong giao lưu quốc tế về
kinh tế xã hội, văn hoá và chính trị trên toàn thế giới. Về kinh tế nó có nghĩa là sự di
chuyển ngày một tăng của các loại hàng hoá, dịch vụ tài chính và các yếu tố của quá
trình sản xuất. Khi các quốc gia cùng tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá thì các
quốc gia đó đang hội nhập với thế giới. Ngày nay quá trình toàn cầu hoá và khu vực
hoá trong quan hệ quốc tế không còn là xu hướng mà đã trở thành quy luật khách
quan. Tuy nhiên, để thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội nhập, phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước, trong đó việc hoạch định chiến lược tự do
hoá và mở cửa thị trường đúng đắn cho mỗi ngành và các biện pháp thực hiện chiến
lược đó có vai trò đặc biệt quan trọng. Việc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền về
kinh tế thế giới thực sự là một thử thách to lớn, đặc biệt là ở các nước đang phát triển
với những điều kiện không thuận lợi như Việt Nam.
Tự do hoá và mở cửa thị trường bắt nguồn từ quá trình phát triển về kinh tế
của các nước có nền về kinh tế thị trường phát triển cao. Khi các thành phần kinh
doanh trong nền về kinh tế đứng trước những áp lực gia tăng của thị trường do cạnh
tranh gay gắt và đòi hỏi Chính phủ phải nới lỏng những ràng buộc cứng nhắc của các
luật lệ, quy chế gây cản trở kinh doanh và bỏ dần sự can thiệp sâu. Điều này đã giúp
cho các thành phần về kinh tế phát triển với quy mô toàn cầu bất chấp sự khác biệt về
thể chế chính trị cũng như trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia khác nhau và
trở thành chất xúc tác quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế thế giới trong quá
trình toàn cầu hoá. Như vậy, tự do hoá và mở cửa thị trường là một chiếc “cầu nối” để
giúp cho nền kinh tế nước đó hội nhập một cách đầy đủ vào nền kinh tế thế giới và
khu vực. Quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá, mở cửa thị trường là
mối quan hệ hai chiều, nghĩa là tự do hoá và mở cửa thị trường góp phần đẩy nhanh
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngược lại hội nhập kinh tế quốc tế tác động tích
cực tới việc tự do hoá và mở cửa thị trường. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia khi

tham gia hội nhập kinh tế quốc tế thì việc tự do hoá và mở cửa thị trường là một
nghĩa vụ, một yêu cầu cấp bách, và Việt nam cũng không phải là trường hợp ngoại
lệ .
2. Tính cấp thiết phải xây dựng chiến lược:
22
Trong thời gian đầu quá trình tự do hoá và mở cửa thị trường diễn ra ở lĩnh
vực thương mại hàng hoá và đầu tư sau đó lan sang các lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Với đặc tính toàn cầu tự nhiên, Viễn thông là một trong những ngành dịch vụ sớm
chịu tác động của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Ngoài ra, dịch vụ Viễn
thông còn là một ngành kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh và đem lại lợi nhuận
cao. Xét trên góc độ tài chính, ngành này chỉ đứng sau lĩnh vực Bảo hiểm và Ngân
hàng. Chính vì vậy lĩnh vực dịch vụ Viễn thông đã trở thành đối tượng đàm phán
thương mại rộng khắp trên toàn cầu. Tổ chức thương mại thế giới WTO đưa ra mục
tiêu thực hiện thị trường tự do thương mại toàn cầu về hàng hoá và dịch vụ vào năm
2020, trong đó các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với các sản phẩm công
nghệ thông tin sẽ được cắt giảm từ 6/1997 và các dịch vụ Viễn thông cơ bản đã được
72 quốc gia trên thế giới cam kết mở cửa cho cạnh tranh với nước ngoài từ
01/01/1998. APEC có kế hoạch tương tự nhưng rút ngắn thời hạn thực hiện đối với
các nước là 10 năm (2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang
phát triển) và cho phép mỗi nước có một lộ trình riêng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh
tế và đặc thù riêng của nước mình để đi tới đích cuối cùng. Hội nghị thường niên
APEC 1997 đã ra tuyên bố chung về việc ưu tiên thực hiện tự do hoá 9 lĩnh vực,
trong đó có dịch vụ Viễn thông, dành cho nhau ưu đãi tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia,
thực hiện thoả thuận công nhận lẫn nhau và tăng cường hợp tác song phương, đa
phương trong các dự án Viễn thông khu vực. ASEAN cùng xây dựng “tầm nhìn
2020” của mình, theo chương trình đến năm 2020 ASEAN sẽ mang dáng dấp của liên
minh Châu Âu, tức là một thị trường không biên giới. Chương trình AFTA của
ASEAN đã vạch ra lộ trình giảm thuế xuất nhập khẩu đối với các thiết bị Viễn thông
xuống còn 0-5 % vào năm 2003, còn đối với các dịch vụ Viễn thông, các nước
ASEAN đang cố gắng đạt được những thoả thuận mới trong thời gian tới.

Trước xu thế tự do hoá và toàn cầu hoá dịch vụ Viễn thông diễn ra hầu hết các
quốc gia trên thế giới và được đưa vào chương trình hành động của tất cả các tổ chức
kinh tế quốc tế và khu vực: WTO, APEC, ASEAN đã đặt ra cho dịch vụ Viễn thông
Việt Nam cần có một chiến lược phát triển phù hợp với xu hướng phát triển của Viễn
thông thế giới, đồng thời phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước cũng như thực trạng Viễn thông Việt Nam.
Vậy chiến lược tự do hoá và mở cửa dịch vụ viễn thông là gì?
* Xét một cách tổng thể thì chiến lược là tập hợp những mục tiêu chiến lược
có tính chất dài hạn và những nhiệm vụ của một doanh nghiệp, một ngành, một lĩnh
23
vực nào đó với hệ thống các giải pháp, chính sách, kế hoạch hành động thực hiện
đồng bộ để đạt được các mục tiêu đó một cách hiệu quả nhất.
Như vậy, một chiến lược bao giờ cũng có tính chất dài hạn thường từ 10-20
năm, nó luôn mang tính tổng hợp và linh hoạt cho phép khai thác một cách tối ưu
nguồn lực bên trong và bên ngoài để thực hiện được chiến lược đó.
* Trong các doanh nghiệp thì chiến lược được cụ thể hoá dưới góc độ là chiến
lược kinh doanh của một doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và
phát triển thì phải xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với thực trạng của
doanh nghiệp đó. Chiến lược kinh doanh là sự tập hợp một cách thống nhất các mục
tiêu, các chính sách và sự phối hợp các hoạt động của một đơn vị kinh doanh chiến
lược tổng thể nhất định. Chiến lược kinh doanh được xem xét như một quá trình ra
quyết định trong đó các nhà quản lý, những người ra quyết định cần phải phân tích
môi trường kinh doanh, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty, xây
dựng các mục tiêu và tìm kiếm các nguồn lực, các biện pháp cần thiết để đạt được
mục tiêu đó. Mục tiêu là sự cụ thể hoá định hướng chiến lược của doanh nghiệp. Mục
tiêu bao giờ cũng được phân thành mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, căn cứ
vào đó để đề ra các nhiệm vụ thích hợp cho mỗi giai đoạn. Muốn mục tiêu đề ra sát
tình hình thực tế và có tính khả thi phải đảm bảo các điều kiện sau:
+ Thứ nhất, các mục tiêu phải cụ thể hoá không được chung chung để các cấp
có thể kiểm soát việc thực hiện chúng.

+ Thứ hai, mục tiêu đề ra cần được giới hạn thời gian hoàn thành cụ thể. Đây
không chỉ là đặt ra cái mà Công ty phải đạt được mà đòi hỏi quy định thời hạn cho
mỗi mục tiêu.
+ Thứ ba, muốn nâng cao hiệu quả công tác quản lý và duy trì sự bền vững
của Công ty thì mục tiêu là cái đích có thể đạt được. Việc xác định mục tiêu vượt quá
khả năng (thiếu nguồn lực, không đủ điều kiện ) sẽ dẫn tới những hậu quả xấu.
+ Thứ tư, các mục tiêu phải thống nhất và hỗ trợ cho nhau: mục tiêu ngắn
hạn và tiền đề thực hiện mục tiêu dài hạn.
* Còn đối với chiến lược của một ngành mà cụ thể ở đây không phải là một
chiến lược bó hẹp trong một Công ty mà nó mang tính toàn ngành và được tập trung
vào vấn đề tự do hoá và mở cửa thị trường đối với dịch vụ Viễn thông Việt Nam.
Dưới góc độ quản lý Nhà nước, thì chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường
dịch vụ Viễn thông sẽ gồm:
- Hoạch định chính sách để thực hiện chiến lược.
24
- Tiến hành thực hiện các chính sách đó.
- Kiểm soát tình hình thực hiện chính sách.
Còn dưới góc độ kinh doanh của một doanh nghiệp thì chiến lược tự do hoá và
mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông có thể là cổ phần hoá, đầu tư mở rộng sản xuất,
liên doanh liên kết
Như vậy, chiến lược này nó mang tính tổng thể, các mục tiêu thực hiện được
đưa ra dưới góc độ của một ngành. Do vậy, ngoài việc thoả mãn 4 điều kiện kể trên
thì mục tiêu đề ra trong chiến lược phải tạo nên sự thống nhất giữa quản lý Nhà nước
và hoạt động của các doanh nghiệp. Và việc thực hiện chiến lược đó cũng phải có sự
phối hợp đồng bộ giữa Chính phủ và doanh nghiệp.
Vì là tự do hoá và mở cửa thị trường, do vậy chiến lược sẽ bao gồm những
vấn đề chủ yếu sau:
+ Nới lỏng sự quản lý của Nhà nước và cho phép tự do cạnh tranh trong lĩnh
vực dịch vụ Viễn thông
+ Cho phép các thành phần kinh tế trong nước (tư nhân, Nhà nước) cùng tham

gia vào kinh doanh khai thác dịch vụ viễn thông.
+ Mở cửa và cho phép các Công ty, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia vào
kinh doanh, đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông.
Tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông trở thành một đòi hỏi cấp
bách trong xu thế hội nhập với khu vực cũng như thế giới hiện nay.
IV. Kinh nghiệm và lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển Viễn thông cũng như tình hình kinh tế -
chính trị - xã hội và quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế về Viễn thông của từng
quốc gia qua nhiều giai đoạn khác nhau. Việc nghiên cứu lộ trình mở cửa dịch vụ
Viễn thông của các quốc gia trên thế giới sẽ giúp cho Viễn thông Việt Nam có một
tầm nhìn tổng quát về bước đi của các nước này. Từ đó rút ra được những kinh
nghiệm và bài học cho quá trình mở cửa và hội nhập Viễn thông Việt Nam trong thời
gian tới. Để có thể xem xét một cách đầy đủ ta có thể kết hợp xem xét cam kết về
dịch vụ Viễn thông của các nước tham gia hiệp định về Viễn thông cơ bản trong
WTO/GATS và tình hình Viễn thông của các nước trong thời gian qua. Có thể phân
loại các nước ngày thành 3 nhóm và nhóm các nước ASEAN mà Việt Nam là một
nước thành viên.
25

×