Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.44 KB, 105 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm qua lao động thất nghiệp và thiếu việc làm ở Việt
Nam có tỷ lệ tương đối cao, nhất là lao động thanh niên thuộc thành phần
DTTS. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi là 2,88%, trong đó tình trạng không có việc làm ở khu vực thành
thị là 4,43% và nông thôn là 2,27% [1]. Điều đáng nói là hơn 1/2 tỷ lệ thất
nghiệp này nằm chủ yếu ở độ tuổi thanh niên và chủ yếu là thanh niên DTTS.
Báo cáo điều tra của SAVY II, hơn 80% thanh niên nông thôn thất nghiệp,
khoảng 2/3 con số này nằm ở khu vực miền núi và tập trung chủ yếu ở thanh
niên dân tộc tiểu số [2].
Bên cạnh đó tình trạng thất nghiệp thì số lượng đáng kể thanh niên
DTTS đang phải thực hiện các công việc có năng suất thấp, dễ bị tổn thương
và những công việc phi chính thức được trả công thấp do trình độ lao động
thấp. Theo số liệu SAVY II, có hơn ¼ thanh niên Việt Nam từng phải làm
việc kiếm sống trong thời gian đi học phổ thông dưới 18 tuổi, trong đó 73%
hiện là lao động chưa qua đào tạo, và 72% hiện đang làm những công việc
không có kỹ năng.
Thực trạng là vậy, nhưng giải quyết việc làm cho thanh niên DTTS là một
“bài toán khó” đòi hỏi các cấp, các ngành phải cùng vào cuộc để tháo gỡ khó
khăn. Rất nhiều thanh niên DTTS mong muốn có nghề để nâng cao thu nhập. Họ
dễ dàng chấp nhận “ly hương lập nghiệp”, tuy vậy, khi di dời đến thành phố kiếm
việc làm lại gặp rất nhiều khó khăn do hạn chế về trình độ, kỹ năng, khả năng tiếp
thu nắm bắt, chất lượng công việc cũng như chế độ lương bổng…
Vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên DTTS đã và đang rất được Nhà
nước ta và các địa phương trú trọng quan tâm. Những năm qua đã có nhiều chủ
1
trương, chính sách nhằm tạo việc làm cho lao động và lao động nông thôn, nhất
là lao động trong độ tuổi thanh niên DTTS như: Đào tạo nghề cho thanh niên,
phát triển làng nghề, phát triển sản xuất các mặt hàng đặc sản, đầu tư vào giáo
dục thông qua các chương trình như: Nghị định số 19-2005/NĐ-CP; Trung


ương Đoàn đã có Chương trình phối hợp số 101/CTPH; Chỉ thị số 06/2005/ CT-
TTg; của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số: 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng
chính phủ Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn do trình độ lao động thấp thì
khả năng tiếp cận việc làm, nguồn thông tin không có nhiều cũng là những rào
cản không nhỏ đối với lao động DTTS.
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới phía Tây Bắc của Việt Nam. Là tỉnh
có quy mô dân số gần 60 vạn người với số người trong độ tuổi lao động là 37
vạn người (chiếm 61,67%). Lao động nông thôn của tỉnh Lào Cai hiện nay là
72% trong đó DTTS chiếm 64,1%. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
nông thôn chỉ đạt 82,2% năm 2010 [1]. Lào Cai có tỷ lệ thất nghiệp và thiếu
việc làm ở nông thôn và thành thị rất cao. Theo tính toán của Bộ LĐTBXH
bình quân mỗi năm Lào Cai có khoảng 2.660 người không có việc làm và
phần lớn tập trung vào lứa tuổi thanh niên chủ yếu là thanh niên DTTS.
Trong những năm qua Lào Cai cũng đã có rất nhiều chương trình/dự án
tạo việc làm cho thanh niên, một số gắn với chương trình 135, 30a một số
khác là chủ trương của tỉnh như: Chỉ thị số 36/CT-TU, Đề án "Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020" theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg
ngày 27/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ, và nhiều hoạt động khác của tỉnh,
sở LĐTB-XH và tỉnh đoàn nhưng kết quả chưa cao. Vậy: Giải pháp đang thực
hiện đã đúng và đầy đủ chưa? Nguyên nhân tại sao tỷ lệ thất nghiệp ở thanh
niên DTTS ở tỉnh vẫn cao? “Thanh niên DTTS đang thất nghiệp do thiếu việc
làm thật sự hay do thiếu tay nghề? Giải quyết việc làm nên giải quyết tại chỗ
hay nhất định phải ly hương lập nghiệp?” Để làm rõ những vấn đề nêu trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp tạo việc làm cho thanh
niên DTTS tỉnh Lào Cai”.
2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng giải pháp tạo việc làm cho thanh niên DTTS trong
tỉnh Lào Cao, từ đó đề xuất một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên

DTTS trong tỉnh Lào Cai.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận giải pháp tạo việc làm cho thanh
niên DTTS.
- Thực trạng giải pháp tạo việc làm cho thanh niên DTTS trong tỉnh
Lào Cai.
- Một số giải pháp để tạo việc làm cho thanh niên DTTS trong tỉnh
Lào Cai.
1.3 Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tạo
việc làm cho thanh niên DTTS trong tỉnh Lào Cao.
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ lao động lứa tuổi thanh niên (từ 16 đến
30 tuổi) ở khu vực dân tộc thiểu số tại tỉnh Lào Cai.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Nội dung:
Trong phạm vi đề tài chúng tôi chủ yếu nghiên cứu thực trạng việc làm và
tạo việc làm cho lao động trong lứa tuổi thanh niên DTTS ở tỉnh Lào Cai, trên cơ
sở đó đưa ra các giải pháp về tạo việc làm cho thanh niên DTTS ở tỉnh Lào Cai.
* Không gian:
Đề tài được thực hiện tại tỉnh Lào Cai.
* Thời gian:
Nguồn số liệu phục vụ đề tài được thu thập giai đoạn 2010 – 2012. Số
liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra, phỏng vấn thanh niên, mạng lưới
tạo việc làm, các cơ quan năm 2013.
3
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niên về tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số

2.1.1.1. Khái niệm về việc làm và tạo việc làm
a. Khái niệm về việc làm
Nói đến việc làm là nói đến vai trò của con người trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội. Để đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống, người lao
động phải thông qua hoạt động sản xuất, chính là người lao động có việc làm.
Tuy vậy khái niệm về việc làm lại có sự khác nhau, tuỳ vào từng thời kỳ, từng
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây trong chế độ quan liêu bao cấp, ở nước ta thì việc làm được
xem là những hoạt động lao động trong các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác
xã và các đơn vị kinh tế tập thể. Tức là người lao động phải nằm trong biên
chế nhà nước thì mới được xem là người có việc làm.
Tuy nhiên khi nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước thì quan
niệm việc làm có thay đổi cho phù hợp hơn với cơ chế mới. Ngày nay Nhà
nước ta quy định rất rõ về việc làm trong bộ luật Lao động là: "Việc làm là
những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho
người lao động". Vậy, theo quan niệm mới này thì tất cả các hoạt động lao
động trong mọi thành phần kinh tế, không bị pháp luật cấm và tạo ra thu nhập
từ hoạt động đó được coi là việc làm.
Khái niệm trên nói chung là khá bao quát nhưng chúng ta cũng thấy rõ
những hạn chế cơ bản. Hạn chế thứ nhất: Hoạt động nội trợ không được coi là
việc làm, trong khi đó hoạt động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián
4
tiếp tạo ra lợi ích vật chất không nhỏ. Hạn chế thứ hai: khó có thể so sánh tỷ
lệ người có việc làm ở các quốc gia với nhau vì quan niệm về việc làm giữa
các quốc gia có thể khác nhau phụ thuộc vào luật pháp, phong tục tập quán…
Ví dụ, đánh bạc ở Việt Nam bị cấm nhưng Thái Lan, Mỹ lại coi là một nghề
thậm chí rất phát triển.
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì khái niệm việc làm chỉ đề cấp
đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Vì vậy, “việc làm được coi là

hoạt động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm có thu nhập bằng tiền (hoặc
bằng hiện vật)”.
Theo quan niệm của Mác: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất,
công nghê…) để sử dụng sức lao động đó.
Theo quan niệm của Mác thì bất cứ tình huống nào xảy ra gây nên
trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều kiện cần thiết để sử dụng
sức lao động đó đều có thể dẫn tới việc thiếu việc làm hay mất việc làm.
Như vậy, việc làm là việc người lao động sử dụng các điều kiện cần
thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghê…) để sử dụng sức lao động tạo ra sản
phẩm vật chất hoặc phi vật chất.
Phân loại việc làm: Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm như
việc làm bán thời gian, việc làm đầy đủ, việc làm hiệu quả, việc làm chính,
việc làm phụ… nhưng trong nghiên cứu này chúng tôi phân loại theo cơ cấu
ngành kinh tế với 3 nhóm việc làm tương ứng với 3 khu vực kinh tế
Khu vực I: việc làm trong nhóm ngành nông nghiệp và lâm nghiệp
Khu vực II: việc làm trong nhóm ngành công nghiệp, xây dựng, giao
thông vận tải, khai thác mỏ, năng lượng
Khu vực III: Việc làm trong nhóm ngành dịch vụ
b. Khái niệm về tạo việc làm
Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất;
5
số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để
kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Ba yếu tố này chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác.
2.1.1.2. Khái niệm về thanh niên, thanh niên dân tộc thiểu số
- Khái niệm thanh niên
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều
cách. Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá
mà người ta đưa ra định nghĩa khác nhau về thanh niên:

Liên hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm tuổi từ 15 đến 24 tuổi (Theo
chương trình sức khỏe sinh sản/sức khỏe tình dục vị thành niên – thanh niên của
khối Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA), chủ
yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã hội so
với các nhóm lứa tuổi khác. Nhưng trong công ước quốc tế của Liên hợp quốc
về quyền trẻ em lại xác định trẻ em đến dưới tuổi 18 tuổi.
Ở Việ t Nam, có một thời gian khá dài, tuổi thanh niên được hiểu
gần như đồng nhất với tuổi đoàn viên (từ 15 – 28 tuổi). Ngày nay do điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi trẻ
dài thêm, cùng với nhiều đặc điểm khác chúng ta cho thanh niên là những người
trong độ tuổi 16 đến 30. Tuy nhiên cần phải phân biệt rõ tuổi đoàn viên và tuổi
thanh niên. Theo điều lệ Đoàn thì Đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên, bao gồm những thanh niên ưu tú trong độ tuổi từ 15 – 30 tuổi. Hết
tuổi đoàn viên theo quy định, người đoàn viên đó vẫn có thể tự nguyện tiếp tục
sinh hoạt trong tổ chức Đoàn hoặc tham gia vào Hội liên hiệp thanh niên và các
hoạt động khác của Đoànvà phong trào thanh niên đến 35 tuổi.
Khi nói đến khái niệm thanh niên là nói tới tuổi trẻ, độ tuổi chín chắn
để gánh vác việc nước việc nhà, nên phải gắn liền với “năng lực hành vi”.
Trong pháp luật dân sự, có khái nệm “người thành niên” và “chưa thành
niên”: theo quy định tại điều 20, bộ luật Dân sự, người từ đủ 18 tuổi trở lên là
6
người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Đây là sự
phân biệt cơ bản nhất về độ tuổi thành niên hay chưa thành niên mà pháp luật
quy định.
Trong Bộ luật hình sự tại điều 68 cho phép xác định người thành niên
là người đủ 18 tuổi trở lên. Nhìn từ góc độ tổng quát, hiến pháp dành đủ một
chương về “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Theo đó một người,
một người chỉ có trọn vẹn quyền công dân khi họ đủ 21 tuổi trở lên (điều 54
Hiến pháp quy định về quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các
cấp).

Suốt nửa thế kỷ giáo dục, tổ chức, rèn luyện các thế hệ thanh niên nước
ta thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp vẻ vang của Đảng,
dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã đưa ra nhiều khái niệm thanh niên
mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc.
+ Bác dạy: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”. Bác
giải thích khái niệm đó trên cơ sở khẳng định: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” và thanh niên phải “Tham gia ý
kiến vào công việc của chính phủ, chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn
luyện ngay từ bây giờ để sau này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác việc
trọng đại của nước nhà”.
+ Bác dạy: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi
trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Bác chỉ ra thanh niên là thời kỳ đẹp nhất,
sống động nhất như mùa xuân trăm hoa đua nở, tràn đầy nhựa sống, mùa xuân
của những cánh én ngang dọc bầu trời. Đó là hình ảnh nói lên sức trẻ có thể
đào núi và lấp biển mà cả xã hội và dân tộc luôn kỳ vọng, tin yêu.
+ Bác dạy: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh
niên già, đồng thời là người phụ trách thế hệ thanh niên tương lai”. Đây là
một khái niệm về vai trò và vị trí của thanh niên, về một quy luật của quá
trình “bàn giao thế hệ”. Từ khái niệm thanh niên này Bác muốn nhắc nhở, căn
7
dặn một điều mà trước khi đi xa Người đã ghi lại trong bản di chúc thiêng
liêng. Điều ấy vô cùng quan trọng quyết định vận mệnh của dân tộc, vận
mệnh của giai cấp công nhân, của Đảng.
Do có sự khác nhau về độ tuổi xác định năng lực hành vi dân sự, độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quyền ứng cử vào cơ quan quyền lực các
cấp, nên việc xác định độ tuổi được coi là thanh niên rất khác nhau. Theo GS-
TS Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho rằng : Thanh
niên chỉ nên nằm trong độ tuổi từ 16 – 25, vì theo ông, tuổi từ 25 trở lên nhiều
thanh niên đã là cử nhân, kỹ sư, cũng có thể là các doanh nghiệp. Còn từ 30
tuổi trở đi có người đã là tiến sĩ, vụ trưởng, chủ tịch xã, những cán bộ chính

trị, … Theo Bác sĩ – chuyên viên tư vấn sức khoẻ Nguyễn Ngọc Năm (Trung
tâm Tư vấn Tình yêu – Hôn nhân – gia đình) cho rằng, “khung” tuổi thanh
niên thích hợp nhất là từ 15 đến 25 (đối với nữ) và từ 17 đến 30 (đối với
nam). Vì theo ông tại Việt Nam, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tính từ 15
tuổi, đây cũng là tuổi thể chất ở các bạn nữ phát triển tương đối hoàn chỉnh và
tâm sinh lý cũng phát triển mạnh. Tuy nhiên, các bạn nam đến độ tuổi 17 mới
có thể “theo kịp” sự phát triển về tâm sinh lý như các bạn nữ. Trong các độ
tuổi đó, phụ nữ cũng như nam giới có được sự tập trung cao nhất về sức khoẻ,
sức trẻ, dám nghĩ dám làm; có ý chí, khát vọng, hoài bão vươn lên mạnh mẽ
và có điều kiện thể hiện ý chí, khát vọng đó qua việc học hành, lao động, sáng
tạo đồng thời cũng là thời gian có những bước chuẩn bị tốt nhất để xây dựng
gia đình, duy trì nòi giống.[2;11].
Từ những bất đồng về quan điểm trên, nước CHXHCN Việt Nam
đã đưa ra Luật thanh niên, trong điều 1 của bộ luật đã khẳng địng rằng:
“Thanh niên là công dân Việt Nam đủ từ 16 đến 30 tuổi”. Tóm lại, hiện nay
thanh niên Việt Nam là những người đủ từ 16 tuổi đến 30 tuổi, vì đây là giai
đoạn thanh niên hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, đạo đức, và cũng trong giai
đoạn này thanh niên đã đủ chín chắn để gánh vác việc nước và việc nhà, là
8
công dân có trách nhiệm đối với những hành động của chính mình. Thanh
niên được xem là lực lượng xung kích trong tất cả mặt trận bảo vệ và phát
triển đất nước vì tính năng nổ của lứa tuổi này. Đâu cần thanh niên có, đâu
khó có thanh niên.
- Khái niệm thanh niên dân tộc thiểu số
Như trên đã định nghĩa về thanh niên nói chung: Thanh niên là một
nhóm xã hội nhân khẩu đặc thù bao gồm những người trong một độ tuổi nhất
định, có sự phát triển nhanh chóng về thể chất, tâm lý, trí tuệ, có mặt trong
mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội; có mối quan hệ gắn bó mật thiết với tất cả
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; là lực lượng xã hội to lớn đóng vai trò
quyết định đối với sự phát triển trong tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc. Từ

đó, chúng ta có thể hiểu: TNDTTS là một nhóm người có độ tuổi từ 16 đến 30
tuổi, có sự phát triển nhanh chóng về thể chất, tâm lý, trí tuệ, có mặt trong
mọi lĩnh vực hoạt động của cộng đồng các dân tộc thiểu số, lao động hiệu
quả góp phần thúc đẩy sự phát triển của địa phương cùng với sự phát triển
của đất nước.
Như vậy, tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số là: Quá trình
tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất trong các điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định để kết hợp với thể chất, tâm lý, trí tuệ của TNDTTS (là một
nhóm người có độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi) một cách hiệu quả góp phần thúc
đẩy sự phát triển của địa phương cùng với sự phát triển của đất nước.
2.1.2. Vai trò tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể
thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên
suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã
hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi
sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời
9
sống của cá nhân. Tạo việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình
độ tay nghề của từng cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc
làm thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn
về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, ), vào những nhóm người nhất định (lao
động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp, ). Do đó, tạo việc
làm cho thanh niên dân tộc thiểu số là một thách thức không nhỏ đối với
những người làm chính sách.
Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên
xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động
tích cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc
làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh
trong xã hội, không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần

hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo
đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời
sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người
có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu
cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có
việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là
nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội
sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn
và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị.
2.1.3. Đặc điểm của tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số
- Nguồn lao động thanh niên dân tộc thiểu số có số lượng dồi dào,
nhưng chất lượng thấp. Không những vậy, sự biến động nguồn lao động
thanh niên DTTS theo hướng rút bớt những lao động có trình độ cao, lao
động có sức khỏe ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn làm cho chất
lượng lao động thanh niên DTTS, nhất là nông nghiệp luôn thấp hơn những
ngành và lĩnh vực khác. Tình trạng “lão hóa” và “nữ hóa” đang là xu thế báo
10
động ở các khu vực DTTS do một bộ phận lao động có xu hướng xuất khẩu
sang Trung Quốc. Vì vậy, tạo việc làm cho lao động thanh niên DTTS cần
chú tới việc nâng cao chất lượng lao động có tính thường xuyên và chú ý tới
hướng phát triển lâu dài và cơ bản của nguồn nhân lực.
- Mức sống, điều kiện sống và làm việc của thanh niên dân tộc thiểu số
còn thấp, thanh niên dân tộc thiểu số chậm được tiếp cận thông tin, ít được
giao lưu học hỏi do không có phương tiện, do đi lại khó khăn,… Bởi vậy, đã
làm ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực và bố trí việc làm cho lao
động thanh niên dân tộc thiểu số.
- Tốc độ tăng dân số ở khu vực dân tộc thiểu số có xu hướng giảm.
Giảm tốc độ tăng dân số ở khu vực dân tộc thiểu số đồng nghĩa với việc
giảm quy mô lao động. Nguyên nhân là do giảm sự gia tăng tự nhiên, tốc độ
chuyển dịch lao động xuất khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch

ngày càng lớn gây khó khăn cho việc bố trí việc làm tại chỗ.
- Lao động dân tộc thiểu số ít có cơ hội được đào tạo nghề. Trình độ
văn hóa thấp, thu nhập thấp, nhận thức về nghề nghiệp còn hạn chế… là
những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế khả năng tiếp cận với các dịch vụ
dạy nghề của người lao động dân tộc thiểu số.
- Lao động dân tộc thiểu số có nhiều bất cập về trình độ chuyên môn
kỹ thuật, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực để đáp ứng được nhu cầu của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, bên cạnh việc đào tạo nghề
nâng cao trình độ chuyên môn cần kết hợp với việc đào tạo kiến thức xã hội,
văn hóa…
2.1.4 Nội dung nghiên cứu tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số
2.1.4.1 Thực trạng việc làm của thanh niên dân tộc thiểu số
Tạo nghề cho thanh niên DTTS là một hoạt động cần thiết, khi mà lực
lượng lao động có tỷ lệ lao động qua đào tạo còn rất thấp, cơ hội việc tìm
kiếm việc làm hạn chế, chậm được tiếp cận thông tin, ít được giao lưu học
11
hỏi do không có phương tiện, do đi lại khó khăn. Thực tế hiện nay đối với
công tác tạo nghề cho lao động thanh niên DTTS còn chậm, thiếu đồng bộ,
chưa phù hợp với đặc điểm của từng vùng, ngành kinh tế; thiếu định hướng
dài hạn, chưa gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch nông thôn mới, nhất là quy hoạch sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thị trường.
Công tác dạy nghề còn chạy theo số lượng; chất lượng thấp, chưa phù
hợp với nhu cầu của người học và người sử dụng lao động. Mạng lưới cơ
sở dạy nghề còn bất cập, cơ sở vật chất, thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu; đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước về dạy nghề thiếu về số lượng và yếu về
nghiệp vụ. Công tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Công tác tuyên truyền,
phổ biến về dạy nghề cho lao động thanh niên DTTS chưa sát thực tế, chưa
phong phú về hình thức.
Do đó, chiến lược, kế hoạch, quy hoạch tạo nghề lao động thanh niên

DTTS phải xem xét yếu tố người lao động, nhu cầu sử dụng lao động của
doanh nghiệp và của xã hội; phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, quy hoạch sản xuất và quy hoạch xây dựng nông thôn mới của địa
phương. Việc tạo việc làm cần giải quyết được hai vấn đề:
a. Thanh niên dân tộc thiểu số thuộc dân tộc nào? Làm nghề gì? Từ
kết quả phân tích về đặc điểm tạo việc làm cho thanh niên DTTS cho thấy,
hiện nay thanh niên DTTS tham gia vào lực lượng lao động sớm, tuy nhiên
trình độ thấp. Mặt khác, tỷ lệ lao động di cư là thanh niên có trình độ, sức
khỏe càng làm cho chất lượng lực lượng lao động thanh niên dân tộc thiểu số
càng kém. Việc này đòi hỏi chính quyền địa phương cần phải tập trung chỉ
đạo, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh việc dồn điền
đổi thửa đáp ứng yêu cầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn, đưa nền sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hoá,
12
quan tâm xây dựng và hình thành các mô hình trang trại, việc chuyển đổi mô
hình canh tác đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, từng bước nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân. Song song với phát triển nông nghiệp, các
chính sách khuyến nông, khuyến công cần được quan tâm tạo điều kiện cho
việc phát triển, đào tạo, nhân cấy nghề mới tạo việc làm thu hút lao động tại
chỗ phù hợp với thanh niên của từng dân tộc khác nhau.
b. Số lượng lao động thất nghiệp? Lao động có việc làm? Để bố trí
lao động, tạo việc làm phù hợp cần xác định được số lượng lao động đang thất
nghiệp tại địa phương, nhu cầu việc làm của xã hội. Để xác định được thông
tin này cần tiếp cận thị trường lao động thông qua hệ thống thông tin. Thông
tin thị trường lao động không những đóng vai trò quan trọng đối với Chính
phủ và cộng đồng xã hội, các nhà hoạch định chính sách, các Trung tâm Dạy
nghề và Giới thiệu việc làm, các nhà đầu tư trong vấn đề phân tích cung - cầu
lao động và các vấn đề liên quan đến lao động, định hướng công tác dạy nghề,
giải quyết việc làm và các quyết định tuyển dụng và phát triển nguồn nhân lực
mà thông tin TTLĐ còn góp phần giúp cho người lao động tìm được những

công việc phù hợp với bản thân mình.
Có thể tiếp cận nguồn thông tin dưới các hình thức sau:
Hệ thống thông tin chính thống: Qua hệ thống thông tin đại chúng (báo,
đài, ti vi, thông báo của các cơ quan, tổ chức và chính quyền ở địa phương).
Hệ thống thông tin không chính thống: Qua bạn bè, họ hàng, hàng xóm.
- Tiếp cận thị trường lao động qua các Trung tâm dịch vụ việc làm: Với
chức năng hoạt động để phục vụ cho việc tạo việc làm, tăng thu nhập, hỗ trợ
hình thành thị trường lao động, các trung tâm này tạo điều kiện cho người tìm
việc và việc tìm người dễ dàng gặp nhau hơn. Bằng hình thức đến trực tiếp
hoặc thông qua các dịch vụ mà người lao động nhận được các thông tin về các
khoá đào tạo.
13
- Tiếp cận thị trường lao động thông qua các tổ chức tuyển dụng:
Tuyển dụng là kênh giao dịch hiện đang được áp dụng khá phổ biến, từ việc
bổ nhiệm trực tiếp, thi tuyển, thông báo qua các phương tiện thông tin đại
chúng, qua các kênh cá nhân, trường lớp… Trong đó việc tuyển chọn và thi
tuyển là hình thức được áp dụng nhiều trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp nhà nước. Hình thức tuyển dụng qua các phương tiện thông tin đại
chúng thường được sử dụng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh.
- Tiếp cận thị trường lao động qua chợ lao động: Bao gồm chợ lao
động có tổ chức và chợ lao động tự phát. Thông qua các chợ lao động này
người lao động có thể lựa chọn các loại hình công việc, mức trả công mà
mình mong muốn.
- Tiếp cận thị trường lao động thông qua các cơ quan xuất khẩu lao
động: Người lao động bán sức lao động cho các chủ sử dụng lao động người
nước ngoài thông qua các cơ quan, tổ chức xuất khẩu lao động.
2.1.4.2 Tình hình tạo việc làm
a. Đào tạo nghề
b. Hỗ trợ cho vay vốn phát triển sản xuất kinh tế hộ
c. Cũng cố, nâng cao năng lực hoạt động khuyến nông- khuyến lâm của các

địa phương
d. Hỗ trợ xuất khẩu lao động
2.1.4.3 Kết quả và hiệu quả đào tạo nghề
2.1.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho thanh niên dân tộc
thiểu số.
Có rất nhiều những nhân tố khác nhau tác động đến vấn đề việc làm của
thanh niên dân tộc thiểu số. Song ở phạm vi đề tài tôi chỉ xin đề cập đến những
nhân tố nào có sự tác động mạnh mẽ, mang tính chất quyết định đến việc làm
của thanh niên dân tộc thiểu số. Dựa trên cơ sở đó có một số nhân tố sau:
2.1.5.1 Thành phần dân tộc
14
Thanh niên các dân tộc khác nhau có sức khỏe, trình độ chuyên môn,
trình độ học vấn, động lực lao động, ý thức kỹ luật khác nhau, điều này làm
ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm với mỗi dân tộc cũng khác nhau.
* Về thể lực: Là yếu tố quan trọng cho phép một lao động có điều kiện
tham gia vào quá trình lao động, là điều kiện cần mà TTLĐ đòi hỏi ở người
lao động. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới thể trạng của người lao động như:
tuổi tác, giới tính, chế độ dinh dưỡng
* Động lực người lao động: Những động lực khuyến khích một người
đi làm cũng sẽ làm tăng khả năng tham gia thị trường lao động của họ. Những
nhân tố như: thái độ của gia đình, cha mẹ, vợ, chồng đối với việc đi làm của
một cá nhân, mức thu nhập bình quân của những thành viên trong gia đình,
hoặc sống trong cảnh nghèo sẽ ít cơ hội mặc dù họ mong muốn điều này.
Người nghèo sẽ ít có cơ hội được học tập, đào tạo nghề, họ thiếu thông tin,
khó có điều kiện di chuyển để tìm việc làm cũng như dễ bị kỳ thị trên thị
trường lao động.
* Ý thức tổ chức kỷ luât của người lao động: quá trình công nghiệp hóa
và hiện đại hóa ngày một đòi hỏi ý thức tổ chức kỷ luật cao của người lao
động. Lao động dù có việc làm song nếu không có ý thức tổ chức kỷ luật sẽ
có nguy cơ bị mất việc làm và khó có thể tìm được việc làm mới nếu không

thay đổi.
2.1.5.2 Giới tính
Giới tính cũng ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận: Một số nghiên cứu cho
thấy giới tính nam dễ tiếp cận thành công việc làm hơn những lao động nhiều
tuổi và giới tính nữ.
2.1.5.3 Văn hóa
Trong quá trình tiếp cận việc làm thì yếu tố trí lực của con người đóng
vai trò vô cùng quan trọng, là yếu tố quyết định đến năng suất và chất lượng
công việc. Nếu một lao động có nhận thức đầy đủ, có kiến thức cơ bản và đặc
15
biệt là có kỹ năng, kinh nghiệm trong quá trình lao động sản xuất thì lao động
đó dễ được thị trường lao động tiếp nhận.
Đối với thanh niên DTTS do trình độ dân trí thấp, thiếu thông tin vì vậy
tạo ra nhiều việc làm cho lao động dân tộc thiểu số, gắn tạo việc làm với hạn
chế tốc độ phát triển dân số ở các vùng dân tộc thiểu số là một vấn đề cấp
thiết hiện nay.
2.1.5.4 Trình độ chuyên môn lao động thanh niên DTTS
Trong giai đoạn hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ, của kinh tế tri thức đỏi hỏi người lao động phải có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực thanh niên
DTTS, ngày càng đóng vai trò quyết định tới quy mô, tốc độ và chiều sâu của
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp và nông thôn nước
ta trong điều kiện hiện nay. Để có được một nền nông nghiệp, nông thôn hiện
đại hóa thì cần phải có con người ở nông thôn hiện đại trước đã.
Nguồn lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao trước hết đóng vai
trò quyết định tới trình độ sản xuất (thông qua các chương trình đạo tạo, tập huấn
nâng cao trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn) và hiệu quả sản xuất trong
nông nghiệp, sau đó chính là làm giảm sức ép về thiếu việc làm trong khu vực
nông thôn (Các chương trình hỗi trợ tìm kiếm và tạo dựng việc làm…), thậm trí
còn có vai trò ổn định đời sống và an ninh trật tự xã hội …

2.1.5.5 Các cơ sở đào tạo nghề
Ở địa phương hiện nay các cơ sở đào tạo nghề có thể bao gồm các
trung tâm dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm, chợ lao động… Mỗi cơ
quan có ảnh hưởng khác nhau trong việc tạo việc làm cho lao động thanh niên
DTTS, cụ thể:
- Hệ thống Trung tâm Dạy nghề và Giới thiệu việc làm: Với chức
năng là dạy nghề và giới thiệu việc làm mạng lưới các Trung tâm Dạy nghề
và Giới thiệu việc làm góp phần chắp nối việc làm cho người lao động thông
16
qua việc đào tạo, định hướng đào tạo; tư vấn việc làm, nghề nghiệp cũng như
cung cấp thông tin về TTLĐ, về việc làm, các doanh nghiệp, nhà máy đang
tuyển dụng cho người lao động cũng như người sử dụng lao động.
- Các trung tâm dịch vụ việc làm: Nghị định 72/CP ngày 31/10/1995
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điểm của Bộ Luật lao động về
việc làm đã khẳng định: hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm được Nhà
nước đầu tư hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu từ ngân sách nhà nước để hoạt động
phục vụ cho việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, hỗ trợ việc hình thành
thị trường lao động. Sự hiện diện và hiệu quả hoạt động của các trung tâm này
càng lớn thì cơ hội và khả năng tiếp cận việc làm của thanh niên nông thôn
càng cao.
- Giao dịch lao động thông qua tuyển dụng: Có nhiều hình thức tuyển
dùng khác nhau, bao gồm tuyển chọn và thi tuyển trực tiếp và tuyển dụng qua
các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo chí. Việc tuyển chọn và thi
tuyển trực tiếp thường là hình thức được áp dụng nhiều trong các cơ quan
hành chính sự nghiệp nhà nước. Hình thức sau thường được sử dụng trong các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu
vực tư nhân. Các hình thức tuyển dụng càng phong phú thì cơ hội tiếp cận
việc làm của người lao động nói chung và thanh niên nông thôn nói riêng
càng cao
- Các chợ lao động: ở nước ta, các chợ lao động có tổ chức, chẳng

hạn như hội chợ lao động; triển lãm lao động - việc làm. Đây là hình thức khá
mới, được tổ chức ở một vài thành phố công nghiệp phía Nam như ở TP. Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng…Các chợ lao động có tổ chức thường là nơi giao dịch
của loại lao động có đào tạo, là nơi để các doanh nghiệp cần lao động tìm
kiếm được các đối tượng phù hợp, và là nơi để người có sức lao động có thể
lựa chọn loại hình công việc, mức trả công lao động mà mình mong muốn.
Các chợ lao động càng được tổ chức nhiều, thường xuyên và vươn tới các
17
vùng nông thôn thì khả năng tiếp cận việc làm của thanh niên càng cao.
2.1.5.6 Chính sách của Nhà nước
Thông qua chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước là nhân tố
góp phần định hướng cho hoạt động tiếp cận thị trường của người lao động.
Hiện nay, với các chính sách định hướng, hỗ trợ vay vốn, đào tạo, tìm kiếm
thị trường cho người lao động đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn
đã góp phần tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận dễ dàng hơn với thị
trường lao động.
Mặt khác, chính sách của Đảng, Nhà nước còn tạo hành lang pháp lý
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động tạo động lực cho người
lao động tham gia vào các quan hệ của TTLĐ.
Bên cạnh đó, các chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước; sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn, đồng nghĩa
với việc tiếp cận TTLĐ của người lao động mà đặc biệt là lao động thanh niên
nông thôn cũng gặp nhiều thuận lợi hơn.
2.2. Cơ sở thực tiễn giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số
2.2.1 Kinh nghiệm một số nước về vấn dề việc làm của thanh niên
Một số nước trong khu vực có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
khá giống nước ta, nhưng trình độ phát triển kinh tế lại hơn ta khá xa, điều đó
do nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân đáng kể đó là do lao động
của họ đáp ứng được yêu cầu của TTLĐ, lao động có việc làm đầy đủ và
mang lại năng suất lao động cao, có thu nhập cao. Có thể điểm qua một số nét

ở một số nước sau:
a. Tạo việc làm cho thanh niên ở Singapore
Singapore là một quốc gia thuộc Đông Nam châu Á¸ với diện tích đất
nhỏ và dân số ít, nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm nhưng đã đạt được
nhiều thành tựu kinh tế kỳ diệu. Việc phát triển kinh tế - xã hội Singapore
trông chờ vào tài năng và kỹ năng của con người để phát triển.
18
“Giáo dục, đào tạo là động lực chủ yếu thông qua đó mỗi cá nhân đều
có được cơ hội phát triển ngang nhau. Chiến lược phát triển nguồn lao động
của Singapore dựa trên những nguyên tắc sau:
- Giáo dục cho tất cả mọi người có được năng lực tối đa.
- Phát triển những kỹ năng đáp ứng được nhu cầu của các ngành công
nghiệp và doanh nghiệp.
- Khuyến khích tiếp tục đào tạo và đào tạo lại để thích ứng với sự phát
triển nhanh chóng của kỹ thuật và tiếp thu thêm những kỹ năng mới”.
Đồng thời Chính phủ Singapore tập trung vào việc thiết lập và mở rộng
các trung tâm đào tạo để có tiêu chuẩn hóa chất lượng lao động trên phạm vi
toàn quốc, chú trọng tới định hướng nghề nghiệp cụ thể là việc thực hành cho
các học sinh tại các trường Trung học phổ thông và các trường đại học cũng
như các học viện.
Thực tế cho thấy ngân sách dành cho giáo dục ở Singapore rất cao và
tăng liên tục từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay. Singapore là nước có
đội ngũ tri thức lớn, có khả năng tiếp thu và áp dụng thành công vốn tri thức
mới và công nghệ tiên tiến, đấy là nhờ vào coi trọng giáo dục đào tạo.
Song song với việc định hướng nghề nghiệp, đào tạo nâng cao chất
lượng lao động, việc hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển TTLĐ và thông
tin TTLĐ của được Chính phủ nước này đặc biệt quan tâm.
b. Tạo việc làm cho thanh niên ở Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương
đồng. Cải cách mở cửa của Trung Quốc và công cuộc đổi mới của Việt Nam

đều bắt đầu từ nông thôn. Với hơn 1,3 tỷ dân, gần 800 triệu người sống ở
nông thôn.
Về việc thực hiện những chính sách nhằm giải quyết hiệu quả vấn đề
“tam nông”, Chính phủ đã triển khai các chính sách như: Giảm phần lớn
những khoản thuế thu cho dân. Đầu những năm cải cách mở cửa, nộp thuế là
19
một gánh nặng đối với nông dân Trung Quốc. Nhưng hiện nay nông dân vừa
được miễn thuế, vừa được chính phủ hỗ trợ, như hỗ trợ lương thực, hỗ trợ
phân bón trong trồng trọt, hoặc hỗ trợ kỹ thuật khi trồng thử nghiệm….; chính
sách giải quyết việc làm, giải quyết khó khăn cuộc sống hàng ngày cho nông
dân; phát triển giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn, trình độ học vấn được nâng
cao. Trẻ em ở nông thôn hiện nay đều được miễn học phí.
Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng đầu tư cho khoa học - kỹ thuật.
Đầu tư cho khoa học – kỹ thuật đặc biệt chú trọng đến kỹ thuật trong nông
nghiệp, công nghệ phát triển, nghiên cứu ruộng đất Gắn chặt đầu tư với các
chương trình tuyên truyền hướng dẫn và trao đổi kỹ thuật, nhằm thúc đẩy ứng
dụng. Ngoài ra, Chính phủ còn xây dựng hệ thống thông tin công cộng nhằm
cung cấp miễn phí thông tin thị trường cho nông dân. Nông dân có thể thông
qua hệ thống này tự tìm thị trường cho sản phẩm của mình.
Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc còn có chính sách tăng cường đào
tạo lại nghề nghiệp cho những người lao động có trình độ kỹ thuật, tay nghề
thấp hoặc không còn phù hợp với yêu cầu mới của TTLĐ. Đối với các doanh
nghiệp có lao động dôi dư cũng bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình
đối với hoạt động đào tạo lại lao động.
Chính sách khuyến khích tự tạo việc làm: Trung Quốc áp dụng nhiều chính
sách ưu đãi (thuế, tín dụng, ưu đãi lãi suất vay vốn để khởi sự doanh nghiệp ) để
khuyến khích các doanh nghiệp tự tạo thêm việc làm. Đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp tiếp nhận nhiều lao động dôi dư và lao động đã cao tuổi.
Chính sách phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm: Từ năm 1992,
Trung Quốc đã đa dạng hoá hình thức sở hữu trung tâm giới thiệu việc làm,

bao gồm các trung tâm của nhà nước và ngoài nhà nước. Các trung tâm giới
thiệu việc làm ngoài nhà nước hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường.
Hoạt động của các trung tâm này trên TTLĐ, đặc biệt là tại nhiều thành phố,
khu đô thị mới đã làm cho người lao động quen dần với hành vi thị trường khi
20
tìm kiềm việc làm. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn Trung Quốc
đang rất cao (khoảng 78 triệu người), lao động nông thôn làm việc trong các
doanh nghiệp phần lớn đều trở về quê hương, vì nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh
khiến các doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản hoặc cắt giảm nhân công.
Nhưng trở về địa phương, họ đều nắm bắt được trình độ kỹ thuật nhất định,
họ có thể vận dụng vào chế biến nông sản, nâng cao kỹ thuật trồng trọt, từ đó
cải thiện cuộc sống. Ở một chừng mực nhất định có thể giảm nhẹ tình trạng
thất nghiệp.
c. Tạo việc làm cho thanh niên ở Nhật Bản
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản thiệt hại khoảng 1/4 số lượng
công nhân so với thời kỳ trước chiến tranh. Những năm đầu sau chiến tranh
kinh tế quốc gia có nhiều xáo trộn lớn. Mức sống của người lao động giảm
sút. Để hình thành nguồn nhân lực, Chính phủ đã thức đẩy đào tạo công cộng,
tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo và yêu cầu các hãng sử
dụng lao động phải có trách nhiệm đào tạo một số lượng nhất định lao động.
Bên cạnh đó, vai trò các chính sách, biện pháp của Chính phủ và các
doanh nghiệp Nhật Bản rất quan trọng đối với điều chỉnh hoạt động của
TTLĐ. Trong đó các chính sách như chính sách thu hút lao động mới gia
nhập vào TTLĐ, chính sách gắn trách nhiệm của các khu vực kinh tế, các
doanh nghiệp, cơ quan tham gia vào đào tạo phát triển nhân lực.
Chế độ tuyển dụng lao động suốt đời và chế độ trả công theo thâm niên
công tác: Việc các công ty cam kết không sa thải công nhân hoặc giãn thợ và
trả lương cũng như đề bạt các chức danh quan trọng trong công ty tuỳ thuộc
vào số năm công tác. Điều này làm cho lao động trung thành với công ty.
Công nhân Nhật Bản, ngoài việc luôn cố gắng đạt được các chỉ tiêu chất

lượng và năng suất cao, còn thể hiện kỷ luật lao động sắt, không tự động thôi
việc hoặc từ chối những công việc được giao phó. Mối quan hệ này được duy
trì suốt đời của người lao động, từ khi vào làm đến khi nghỉ hưu, được cả
21
người lao động và người chủ sử dụng lao động ngầm hiểu và trở thành đạo
luật bất thành văn trong qua hệ lao động tại TTLĐ Nhật Bản.
2.2.2. Tình hình thiếu việc làm, thất nghiệp ở thanh niên, giải pháp tạo việc
làm cho thanh niên ở Việt Nam
Số lượng lao động đang làm việc: Nếu tại thời điểm năm 2003 cả nước
chỉ có 39,5 triệu lao động đang làm việc, đến 1/7/2008 cả nước đã có hơn 44
triệu lao động đang làm việc trong các thành phần kinh tế, tăng 11,8% so với
năm 2002. Số lượng lao động tăng cao thể hiện qui mô lao động ngày càng
được mở rộng theo nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đồng thời góp phần
giải quyết việc làm cho toàn xã hội.
22
Bảng 2.1: Lực lượng lao động cả nước năm 2003 – và năm 2007
Đơn vị tính: nghìn người
2003 2007 So sánh(%)
SL
(1000.ng)
CC
(%)
SL
(1000.ng)
CC
(%)
+(-) 07/03
Tổng số 39.507,70 100 44.171,90 100 4.664,20 118,00
Phân theo thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước 3.750,50 9,49 3.974,60 8,99 224,10 105,97

Kinh tế ngoài Nhà nước 35.167,00 89,01 38.657,70 87,52 3.490,70 109,90
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 590,20 1,49 1.539,60 3,49 949,40 260,86
Phân theo ngành kinh tế
Nông nghiệp 24.455,80 61,9 23.810,80 53,90 -645,00 97,36
Công nghiệp khai thác mỏ 283,40 0,72 397,50 0,09 114,10 140,26
Công nghiệp chế biến 4.160,30 10,53 5.963,10 13,50 1.802,80 143,33
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt 114,70 0,03 197,00 0,04 82,30 171,75
Xây dựng 1.526,30 3,86 2.267,70 5,13 741,40 148,57
TN; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 4.281,00 10,68 5.291,70 11,98 1.010,70 123,61
Khách sạn và nhà hang 715,40 1,81 813,90 1,84 98,50 113,77
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 1.183,00 2,99 1.217,30 2,76 34,30 103,00
Tài chính, tín dụng 98,40 0,02 209,90 0,05 111,50 213,31
Hoạt động khoa học và công nghệ 19,20 0,005 26,90 0,006 7,70 140,00
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 90,50 0,23 216,00 0,49 125,50 238,67
QLNN; bảo đảm XH bắt buộc 438,40 1,11 793,20 1,80 354,80 180,93
Giáo dục và đào tạo 1.090,40 2,76 1.356,60 3,07 266,20 124,41
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 280,50 0,71 384,30 0,87 103,80 137,00
Hoạt động văn hoá và thể thao 126,40 0,32 136,40 0,31 10,00 107,91
Đảng, đoàn thể và hiệp hội 94,80 0,24 192,90 0,44 98,10 137,03
Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng và dịch vụ làm thuê 549,20 1,39 896,70 2,03 347,50 163,27
Nguồn: Niên giám thống kê
23
Qua bảng 2.1 cho thấy, hầu hết lực lượng lao động toàn xã hội đã tham
gia hoạt động trong các thành phần kinh tế và có xu hướng tăng qua các năm
điều đó thể hiện mức độ tiếp cận việc làm của lao động, là điều kiện tạo thu
nhập và cải thiện đời sống.
Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ lao động vẫn chưa tiếp cận được
việc làm hoặc là việc tiếp cận không thành công dẫn đến thấp nghiệp, thiếu
việc làm.
Bảng 2.2. : Tỷ lệ lao động thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao

động trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng trong cả nước
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thiếu việc làm
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
CẢ NƯỚC 2,38 4,65 1,53 5,10 2,34 6,10
Đồng bằng sông Hồng 2,29 5,35 1,29 6,85 2,13 8,23
Trung du và miền núi phía
Bắc
1,13 4,17 0,61 2,55 2,47 2,56
Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung
2,24 4,77 1,53 5,71 3,38 6,34
Tây Nguyên 1,42 2,51 1,00 5,12 3,72 5,65
Đông Nam Bộ 3,74 4,89 2,05 2,13 1,03 3,69
Đồng bằng sông Cửu Long 2,71 4,12 2,35 6,39 3,59 7,11
Nguồn: />Qua bảng 2.2 cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn thấp hơn
khu vực thành thị, song lao động thiếu việc làm ở đây còn chiếm tỷ lệ cao.
Thiếu việc làm và thất nghiệp đồng nghĩa với việc thu nhập thấp hay không
có thu nhập, số lao động này sẽ trở thành những người ăn theo trở thành gánh
nặng của gia đình và xã hội.

2.2.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số ở
24
một số địa phương trong nước
2.2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số
huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng
Huyện Hòa Vang nằm từ 15°56' Bắc đến 16°13' Bắc và từ 107°49'
Đông đến 108°13' Đông. Hòa vang là huyện ngoại thành duy nhất của Thành
phố Đà Nẵng, với cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Theo kết quả điều
tra dân số hiện nay toàn huyện có khoảng 106.910 người, trong đó có khoảng
200 hộ đồng bào dân tộc Cơ Tu với trên dưới 1.000 người.
Hiện nay huyện Hòa Vang có khoảng 38.230 người trong độ tuổi thanh
niên, trong đó thanh niên dân tộc thiểu số chỉ khoảng 350 người. Tuy lực
lượng TNDTTS chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng số thanh niên toàn huyện nhưng
trong những năm qua công tác giải giải quyết việc làm cho TNDTTS đã được
UBND huyện và các ban ngành hết sức quan tâm:
- Nhằm từng bước tạo công ăn, việc làm cho thanh niên người dân tộc
Cơtu, UBND xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang (thành phố Đà Nẵng) đã chủ
trương giải quyết theo hướng ổn định tại chỗ. Theo đó, UBND xã liên hệ với
Công ty Du lịch Bà Nà tuyển dụng 50 lao động phổ thông là thanh niên dân
tộc Cơ tu vào làm việc tại khu du lịch. Về lâu dài, UBND xã khôi phục làng
nghề truyền thống như: đan lát, dệt thổ cẩm, làm ghế mây chủ yếu cung cấp
sản phẩm cho khu du lịch Bà Nà. Bên cạnh đó, để người dân tận dụng tốt
nguồn nguyên liệu từ đất rừng, chính quyền xây dựng mô hình trồng nấm.
Giải pháp này dự báo sẽ có tính khả thi cao, bởi phù hợp với đất đai, thổ
nhưỡng và điều kiện sinh sống của người Cơ tu. Việc liên kết với Công ty Du
lịch để đưa thanh niên dân tộc thiểu số vào làm việc là cách làm mới mẻ ở xã
Hòa Bắc, huyện Hòa Vang. Cách làm ấy không những góp phần giúp địa
phương giải quyết nguồn lực lao động nhàn rỗi mà còn giúp thanh niên dân
tộc thiểu số tăng thêm thu nhập gia đình, có điều kiện “lập nghiệp” ngay
25

×