Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

sinh sản nhân tạo cá chạch lửa để làm cá cảnh và bước đầu nghiên cứu thăm dò sinh sản nhân tạo cá thái hổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 113 trang )

I

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tên đề tài: “Sinh sản nhân tạo cá Chạch lửa (Mastacembelus erythrotaenia
Bleeker, 1870) để làm cá cảnh và bƣớc đầu nghiên cứu thăm dò sinh sản
nhân tạo cá Thái hổ (Datnioides pulcher Kottelat, 1998)”
Đồng Chủ nhiệm đề tài:
- PGS. TS. Nguyễn Thị Nga – Chi nhánh phía Nam – TTNĐ Việt - Nga
- TS. Phạm Văn Khánh – Trung tâm Quốc gia giống Thủy sản nƣớc
ngọt Nam bộ - Viện NC NTTS 2
Cơ quan chủ trì: Chi nhánh phía Nam – Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga
Thời gian thực hiện đề tài: 6/2010 – 6/2013
Kinh phí được duyệt: 500.000.000đ
Kinh phí đã cấp:
- Đợt 1: 250.000.000đ theo TB số: 74/TB-SKHCN ngày 04/6/2010
- Đợt 2: 200.000.000đ theo TB số: 152/TB-SKHCN ngày 29/11/2011
2. Mục tiêu:
- Cung cấp cá giống Chạch lửa cho nuôi làm cá cảnh, góp phần làm phong
phú, đa dạng giống loài thủy sản của thị trƣờng cá cảnh.
- Làm cơ sở khoa học để sinh sản nhân tạo và sản xuất giống cá Thái hổ phục
vụ cho nghề nuôi cá cảnh trong nƣớc và xuất khẩu
- Bảo vệ nguồn lợi tự nhiên
3. Nội dung: (Theo đề cƣơng đã duyệt)
3.1. Nghiên cứu về cá Chạch lửa: Tập hợp và thuần dƣỡng đàn cá bố mẹ; Nuôi vỗ
cá bố mẹ; Kích thích sinh sản; Ƣơng nuôi cá bột lên cá hƣơng và cá giống.
3.2. Chuyển giao công nghệ cho 2 cơ sở đặt hàng
3.3. Nghiên cứu về cá Thái hổ: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học; Nghiên cứu
đặc điểm sinh học sinh sản; Bƣớc đầu nghiên cứu thăm dò sinh sản nhân tạo.
4. Sản phẩm của đề tài (theo Phụ lục 2, Hợp đồng số 77/HĐ-SKHCN)
4.1. Cá bột Chạch lửa


4.2. Cá giống cá Chạch lửa
4.3. Quy trình sản xuất giống cá Chạch lửa (M. erythrotaenia)
II

4.4. Chuyển giao quy trình sinh sản nhân tạo cá Chạch lửa.
4.5. Báo cáo quy trình kỹ thuật tuyển chọn, thuần dƣỡng, nuôi vỗ cá bố mẹ và sinh
sản nhân tạo.
4.6. Báo cáo Quy trình công nghệ ƣơng nuôi cá giống Chạch lửa
4.7. Báo cáo kết quả nghiên cứu cá Thái hổ
4.8. Các báo cáo (định kỳ và báo cáo tổng kết)
4.9. Đào tạo: 1 Tiến sĩ, 1 Thạc sĩ





III

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU I
MỤC LỤC III
DANH SÁCH BẢNG V
DANH SÁCH ĐỒ THỊ VI
DANH SÁCH HÌNH VII
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN 4
1.1. Cá Chạch lửa 4
1.2. Cá Thái hổ 10
1.3. Tổng quan về kích dục tố và chất kích thích sinh sản dùng cho cá 17

CHƢƠNG II. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 19
2.2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 19
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 19
2.3.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá Thái hổ 19
2.3.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản 20
2.3.4. Tập hợp và nuôi vỗ thành thục 22
2.3.5. Kích thích sinh sản 24
2.3.6. Ấp trứng 26
2.3.7. Ƣơng cá bột lên cá hƣơng và giống cá Chạch lửa 26
2.3.8. Khảo sát bệnh 27
2.3.9. Phƣơng pháp phân tích số liệu 27
CHƢƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 28
3.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁ CHẠCH LỬA 28
3.1.1. KẾT QUẢ NUÔI THUẦN DƢỠNG CÁ BỐ MẸ 28
3.1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ CHẠCH LỬA31
3.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁ THÁI HỔ 63
3.2.1. Tập hợp và thuần dƣỡng cá Thái hổ 63
IV

3.2.2. Đặc điểm sinh học 65
3.2.3. Một số đặc điểm sinh học sinh sản 70
3.2.4. Thăm dò khả năng sinh sản nhân tạo cá Hổ 82
CHƢƠNG IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 84
4.1. KẾT LUẬN 84
4.2. ĐỀ NGHỊ 86
QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ THUẦN DƢỠNG, NUÔI VỖ VÀ SINH SẢN NHÂN
TẠO CÁ CHẠCH LỬA 87
QUY TRÌNH ƢƠNG NUÔI GIỐNG CÁ CHẠCH LỬA 92

PHỤ LỤC 1: CÁC THÔNG SỐ MÔI TRƢỜNG NƢỚC 93
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀIError! Bookmark not
defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102


















V


DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Các loài thuộc họ Synbranchidae ở châu thổ sông Mekong 5
Bảng 1.2. Các loài thuộc giống cá hổ 10
Bảng 2.1. Các loại thức ăn khác nhau dùng ƣơng từ cá bột đến 60 ngày tuổi 26

Bảng 3.1. Các yếu tố chất lƣợng nƣớc bể nuôi trong thời gian thuần dƣỡng 29
Bảng 3.2. Kết quả sử dụng thức ăn của cá thuần dƣỡng 30
Bảng 3.3. Tăng trọng và tỷ lệ sống của cá sau khi thuần dƣỡng 31
Bảng 3.4. Kết quả các thử nghiệm thăm dò sinh sản nhân tạo 44
Bảng 3.5. Liều lƣợng kích dục tố sử dụng cho cá đực 46
Bảng 3.6. Kết quả sử dụng đơn HCG kích thích sinh sản 47
Bảng 3.7. Thời gian hiệu ứng của HCG ở cá Chạch lửa 49
Bảng 3.8. Sức sinh sản tuyệt đối và tƣơng đối lý thuyết của cá Chạch lửa 50
Bảng 3.9. Quá trình phát triển phôi của cá Chạch lửa 51
Bảng 3.10. Thời gian phát triển phôi của Chạch lửa và một số loài cá khác 54
Bảng 3.11. Thử nghiệm thăm dò thức ăn cho cá ƣơng nuôi 56
Bảng 3.12. Các chỉ tiêu môi trƣờng nƣớc ƣơng cá bột lên giống 57
Bảng 3.13. Kết quả ƣơng cá bột thành cá giống 60 ngày tuổi sử dụng thức ăn tƣơi
sống (Moina kết hợp trùn chỉ) 58
Bảng 3.14. Các yếu tố chất lƣợng nƣớc bể nuôi trong thời gian thuần dƣỡng 63
Bảng 3.15. Kết quả sử dụng thức ăn của cá Hổ nuôi thuần dƣỡng 64
Bảng 3.16. Tăng trọng và tỷ lệ sống của cá sau khi thuần dƣỡng 64
Bảng 3.17. Chiều dài tƣơng đối của ruột cá Hổ (n = 7) 68
Bảng 3.18. Kích cỡ cá thành thục và hệ số thành thục 71
Bảng 3.19. Hệ số thành thục cá Thái hổ theo giai đoạn phát triển tuyến sinh dục 73
Bảng 3.20. Độ béo Fulton và Clark của cá Hổ 79
Bảng 3.21. Sức sinh sản tuyệt đối và tƣơng đối lý thuyết của cá Hổ (2013) 80
Bảng 3.22. Thăm dò sinh sản 83


VI


DANH SÁCH ĐỒ THỊ
Trang

Đồ thị 3.1. Nhiệt độ nƣớc của bể nuôi vỗ 36
Đồ thị 3.2. pH nƣớc bể nuôi vỗ 37
Đồ thị 3.3. Oxy hòa tan (DO) bể nuôi vỗ 37
Đồ thị 3.4. Tỉ lệ thành thục của cá Chạch lửa cái nuôi vỗ 2 năm 2011 - 2012 38
Đồ thị 3.5. Tỉ lệ thành thục của cá Chạch lửa đực nuôi vỗ 2 năm 2011 - 2012 38
Đồ thị 3.6. Hệ số thành thục của cá Chạch lửa cái nuôi vỗ 2 năm 2011 – 2012 39
Đồ thị 3.7. Diễn biến độ béo Fulton cá Chạch lửa bố mẹ qua các tháng 40
Đồ thị 3.8. Tăng trƣởng của cá Chạch lửa ƣơng nuôi 59
Đồ thị 3.9. Tăng trƣởng của cá Hổ nuôi trong bể sau 3 năm 69
Đồ thị 3.10. Quan hệ chiều dài và khối lƣợng cá Hổ 70
Đồ thị 3.11. Tỷ lệ thành thục của cá bố mẹ nuôi vỗ trong 2 năm 2011-2012 72
VII

DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 1.1. Bản đồ phân bố cá Chạch lửa trên thế giới (OBIS, 2008) 4
Hình 1.2. Cá Chạch lửa (Mastacembeluserythrotaenia Bleeker, 1870) 5
Hình 1.3. Hình dạng ngoài các loài cá Hổ 11
Hình 1.4. Phân biệt các loài cá hổ qua sọc ở gốc đuôi 12
Hình 1.5. Địa bàn phân bố của các loài cá hổ (nguồn www.waterwolves.com) 12
Hình 1.6. Nơi phân bố hiện tại còn lại của cá Hổ 13
Hình 1.7. Cá Hổ sọc nhỏ (Datnioides undecimradiatus) 14
Hình 3.1. Cá Chạch lửa trú ẩn trong ống nhựa 29
Hình 3.2. Lỗ sinh dục cá Chạch lửa đực (A) và cá cái (B) 32
Hình 3.3. Buồng trứng và noãn bào cá Chạch lửa giai đoạn II 33
Hình 3.4. Buồng trứng và noãn bào cá Chạch lửa giai đoạn III 34
Hình 3.5. Noãn bào giai đoạn IV 34
Hình 3.6. Buồng tinh cá Chạch lửa giai đoạn III 35
Hình 3.7. Buồng tinh cá Chạch lửa giai đoạn IV 35
Hình 3.8. Các thao tác bắt cá, cố định cá và tiêm kích dục tố 42

Hình 3.9. Vuốt trứng cá Chạch lửa (A) và trứng sau khi vuốt ra (B) 48
Hình 3.10. Ấp trứng cá trong khay 52
Hinh 3.11. Quá trình phát triển phôi cá Chạch lửa (ở 28 – 30
0
C) 53
Hình 3.12. Cá giống Chạch lửa 59
Hình 3.13. Nấm thủy mi phát triển trên trứng cá 60
Hình 3.14. Trùng quả dƣa (Ichthyophthirius) 61
Hình 3.15. Trùng bánh xe (Trichodinasiluri Lom, 1970) 62
Hình 3.16. Cá Hổ sọc nhỏ 65
Hình 3.17. Miệng cá dãn dài ra khi bắt mồi 67
Hình 3.18. Cung mang và dạ dày của cá Hổ 68
Hình 3.19. Cá có buồng trứng giai đoạn II 74
Hình 3.20. Buồng trứng giai đoạn III 75
Hình 3.21. Buồng trứng giai đoạn IV 75
Hình 3.22. Buồng trứng giai đoạn V (trứng rụng) 76
VIII

Hình 3.23. Noãn bào giai đoạn II (độ phóng đại x 400) 77
Hình 3.24. Noãn bào giai đoạn III (độ phóng đại x 400) 77
Hình 3.25. Noãn bào giai đoạn IV (độ phóng đại x 400) 78
Hình 3.26. Buồng tinh giai đọan V và vuốt ra tinh dịch 79
Hình 3.27. Buồng trứng với nhiều vách ngăn chứa các hạt trứng 81
Hình 3.28. Cá cái có buồng trứng đang chuyển rụng 82

























1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghề nuôi cá cảnh đã có từ nhiều thế kỷ trƣớc. Các loài cá nuôi làm cảnh phát
triển ngày càng phong phú không chỉ về số lƣợng mà còn rất đa dạng về hình thể,
màu sắc và tính mới lạ.
Những nƣớc và khu vực có nghề nuôi và sinh sản cá cảnh lớn nhất là Thái
Lan, Hồng Công và Nhật bản. Một số quốc gia khác cũng bắt đầu nghiên cứu và sản
xuất giống cá cảnh nƣớc ngọt nhƣ Malaysia, Trung Quốc, Srilanka
Cá nhập khẩu có nguồn gốc chủ yếu từ Châu Á chiếm 65%, trong đó nƣớc
nhập khẩu nhiều nhất nhƣ Mỹ (13%), Nhật (13%), Đức (8,9%) Nƣớc xuất khẩu

nhiều nhất là Singapore chiếm 25% toàn thế giới. Hiện nay xuất khẩu cá cảnh của
Châu Á có 80% là cá nƣớc ngọt đƣợc sản xuất trong các trại cá, 15% cá cảnh biển
thu từ tự nhiên và 5% cá cảnh nƣớc ngọt thu từ tự nhiên.
Hiện nay ở nƣớc ta nghề nuôi cá cảnh phục vụ cho nhu cầu thị trƣờng trong
nƣớc và xuất khẩu đang từng bƣớc phát triển, đặc biệt tại TpHCM rất có tiềm năng
[15]. Tuy nhiên vấn đề này mới tập trung một ở số loài cá nhập nội: cá đĩa, cá Koi,
La hán việc nghiên cứu, khai thác, sử dụng cá bản địa làm cá cảnh còn rất hạn
chế. Nghề nuôi cá cảnh vẫn còn mang tính tự phát, chƣa đồng bộ. Chƣa có sự đầu
tƣ cho các chƣơng trình nghiên cứu toàn diện chuyên sâu, đặc biệt là sinh học -
sinh thái, sinh sản nhân tạo … của các loài cá để phục vụ cho việc phát triển nghề
nuôi cá cảnh.
Theo kết quả nghiên cứu của Hoàng Đức Đạt, Nguyễn Xuân Đồng (2009),
thành phần cá nƣớc ngọt bản địa, hoang dã có thể sử dụng làm cá cảnh tại khu vực
Nam bộ khá phong phú (149 loài). Trong đó có một số loài sinh sản tự nhiên dễ
dàng nên đƣợc ngƣ dân, ngƣời nuôi khai thác, nuôi dƣỡng, sinh sản để làm cá cảnh
(cá chép, cá bảy màu, cá ăn muỗi, cá thia cá ba đuôi ). Một số loài cá bản địa
hoang dã tự nhiên tuy có thể làm cá cảnh, nhƣng chƣa đƣợc chú ý nghiên cứu thuần
dƣỡng sinh sản, rất nhiều loài vẫn dựa vào khai thác tự nhiên, nguồn cung ngày
càng ít dần do sự khai thác quá mức dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên này. Trong
số đó có các loài nhƣ cá Chạch lửa (Mastacembelus erythrotaenia Bleeker, 1870) và
nhóm cá Hổ nhƣ cá Thái Hổ (Datnioides pulcher Kottelat, 1998) và cá Hổ sọc nhỏ
2

(Datnioides undecimradiatus Roberts &Kottelat, 1994) là những loài cá đẹp về màu
sắc, hình dáng, thích nghi với nuôi trong bể kính, đang đƣợc thị trƣờng rất ƣa
chuộng.Cá Thái Hổ và Hổ sọc nhỏ hiện nay là rất qúy hiếm, giá bán trên thị trƣờng
trong nƣớc cũng nhƣ trên thế giới rất cao. Đây là 2 loài cá có phân bố ở lƣu vực
sông Mekong, chúng vừa có giá trị kinh tế (nuôi thƣơng phẩm, làm cá cảnh), nhƣng
đồng thời có giá trị xuất khẩu cao. Hiện nay do đang có nhiều biến động về môi
trƣờng sống, nhƣ việc xây dựng rất nhiều đập nƣớc trên dòng sông Mekong và nhất

là tình trạng khai thác bừa bãi đang dẫn đến tình trạng nguồn lợi này đang bị đe dọa
nghiêm trọng. Cá Thái Hổ Datnioides pulcher hầu nhƣ đã bị tuyệt chủng ở khu vực
phân bố sông Chao-phraya của Thái Lan. Ở nƣớc ta 2 loài cá Hổ này trƣớc đây
khoảng 20 năm cũng có phân bố tại lƣu vực sông Vàm cỏ (Tây Ninh), nhƣng cũng
do khai thác bừa bãi và quá mức để cho xuất khẩu nên hiện nay cá Hổ cũng đã gần
nhƣ vắng bóng. Việc gìn giữ bảo tồn những loài này đang là một nhu cầu cấp thiết
và nghiên cứu sinh sản nhân tạo để tái sản xuất quần đàn nhằm khôi phục nguồn lợi
của chúng là một hƣớng khoa học và đúng đắn.
Thị trƣờng cá cảnh tại Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng hiện nay cũng rất ƣa chuộng các loài cá Chạch lửa và cá Hổ, nhƣng nguồn
chủ yếu khai thác từ tự nhiên và nhập từ nƣớc ngoài. Vấn đề này dẫn đến giá thành
cao, tỷ lệ sống thấp và nguồn lợi khai thác ngày càng cạn kiệt, trong khi đó nhu cầu
cá cảnh cho thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu ngày càng phát triển.
Đối với loài cá Chạch lửa, hiện đã có những tiền đề tốt cho nghiên cứu đối
tƣợng này: một số loài nằm trong nhóm cá Chạch tƣơng tự cá Chạch lửa nhƣ
Chạch lá tre (M. armatus), cá Chạch lấu (M.favus) đã do một số cơ quan nghiên
cứu sinh sản nhân tạo và sản xuất giống đƣợc. Những kết quả đó sẽ thuận lợi giúp
cho việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Chạch lửa nhanh chóng thành công.
Đối với cá Hổ, việc tiếp cận đối tƣợng này còn nhiều hạn chế. Những nghiên
cứu chung về sinh học cũng nhƣ sinh sản loài cá này hầu nhƣ chƣa có ở nƣớc ta. Vì
vậy bƣớc đầu tiên phải tìm hiểu về những đặc tính sinh học và từng bƣớc nghiên
cứu đặc điểm sinh học sinh sản của chúng. Từ những kết quả cơ bản trên làm cơ sở
cho việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo.
3

Với những lý do nêu trên vấn đề nghiên cứu sinh sản nhân tạo các loài cá này
nhằm góp phần tái tạo nguồn lợi tự nhiên và phát triển nghề nuôi cá cảnh tại
TpHCM là cần thiết và cấp bách. Trên những cơ sở đó chúng tôi tiến hành đề xuất
đề tài “Sinh sản nhân tạo cá Chạch lửa (Mastacembelus erythrotaenia Bleeker,
1870) để làm cá cảnh và bước đầu nghiên cứu thăm dò sinh sản nhân tạo cá

Thái Hổ (Datnioides pulcher Kottelat, 1998)”.






















4

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN

1.1. Cá Chạch lửa
Cá Chạch lửa (Mastacembeluserythrotaenia Bleeker, 1870) là loài cá nƣớc
ngọt thuộc họ cá Chạch, phân bố ở vùng Đông Nam Á thuộc hạ lƣu sông Mêkông

(Lào, Campuchia, Thái Lan, miền Nam Việt Nam), Malaysia và Indonesia.



Hình 1.1. Bản đồ phân bố cá Chạch lửa trên thế giới (OBIS, 2008)

Nhìn chung, các loài trong giống Mastacembelus có thân dài, vảy rất nhỏ, đầu
và mõm dài. Vây lƣng, vây hậu môn và vây đuôi nối liền nhau, không có vây hậu
môn. Trên thân có vân giống nhƣ dạng mạng lƣới hoặc dạng vân đốm và vân chấm.
Về phân loại, trên thế giới giống cá Chạch (Mastacembelusthuộc họ
Synbrachidae) có 61 loài. Theo tài liệu gần đây nhất của Ủy Hội sông Mê kông xuất
bản năm 2008 [35], họ Synbranchidaeở châu thổ sông Mekong (Mekong Delta)
trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam hiện có 9 loài (Bảng 1.1)




5

Bảng 1.1. Các loài thuộc họ Synbranchidae ở châu thổ sông Mekong
TT
Tên khoa học loài
Tên Việt Nam
1
Monopterus albus
Lƣơn
2
Ophisternon bengalense
cá Lịch
3

Macrotrema caligans
cá Lịch sông
4
Macrognathus circumcinctus
cá Chạch khoang
5
Matacembelus aculeatus
cá Chạch lá tre
6
Macrognathus cemiocellatus
cá Chạch khoang
7
Mastacembelus armatus
cá Chạch lấu vàng
8
Mastacembelus favus
cá Chạch lấu
9
Mastacembelus erythrotaenia
cá Chạch lửa

Phân lọai cá Chạch lửa nhƣ sau:
Bộ Synbranchiformes
Họ Synbranchidae
Giống Mastacembelus
Loài Mastacembelus erythrotaenia Bleeker, 1870.

Tên Việt Nam: cá Chạch Lửa, cá Lấu đỏ, cá Hỏa long.
Tên tiếng Anh: Fire eel.


Hình 1.2. Cá Chạch lửa (Mastacembeluserythrotaenia Bleeker, 1870)
6

Ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, hiện diện cả 3 loài thuộc
giống Mastacembelus là M. armatus (Chạch lấu vàng); M. favus (Chạch lấu) và M.
erythrotenia (Chạch lửa) [31]. Loài M. armatus có phân bố ở miền Bắc và miền
Trung nƣớc ta. Xem xét về hình dạng, màu sắc và kích thƣớc cơ thể, loài M.
armatus rất giống với loài M. favus, nhƣng có một số khác biệt cơ bản nhƣ ở loài
M. favus toàn cơ thể đƣợc phủ bởi các vân hình tổ ong màu tối, còn loài M. armatus
cơ thể cũng có vân hình tổ ong nhƣng chỉ phân bố từ vây lƣng đến cơ quan đƣờng
bên. Ngoài ra số gai cứng và tia mềm ở các vây của M. favus cũng ít hơn so với của
M. armatus [31]. Hình dạng và kích thƣớc của cá Chạch lửa cũng tƣơng tự cá
Chạch lấu, nhƣng màu sắc thân sặc sỡ hơn bởi sắc đỏ pha đen và có những chấm đỏ
hai bên thân từ sau nắp mang đến gốc vây đuôi.
Ở Việt Nam và một số nƣớc có cá Chạch, các nghiên cứu trƣớc đây chỉ mới
dừng lại ở mức độ phân loại và khu vực phân bố (Smith, 1945 [28]; Kuronuma,
1961 [29]; Taki, 1974 [33]; Trƣơng Thủ Khoa, 1982 [11]; Mai Đình Yên, 1992
[26]; Rainboth, 1996 [31]; Chavalit Vithayanon, 2008) [35].
Trong nhóm lƣơn và cá lịch, loài lƣơn (Monopterus albus) ở Trung Quốc và
Việt Nam đều đã có những nghiên cứu về sinh học sinh sản, sản xuất giống và nuôi
thƣơng phẩm [16, 30 ].
Những năm gần đây, nghề nuôi cá cảnh phát triển, vì thế vấn đề sinh sản các
loài cá có tiềm năng làm cảnh mới đƣợc chú ý đến. Năm 2009, Nguyễn Xuân Đồng
công bố công trình nghiên cứu “Nghiên cứu đặc điểm sinh học một số loài cá có
khả năng thuần hóa để làm cá cảnh ở thủy vực nội địa các tỉnh Nam Bộ”, trong đó
có đề câp đến khả năng thuần hóa cá Chạch lửa để làm cá cảnh [7]
Cho đến nay, vẫn chƣa có công trình nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá
Chạch lửa đƣợc công bố. Tuy nhiên đã có những loài cùng họ với cá Chạch lửa
đƣơc nghiên cứu sinh sản nhân tạo thành công.
Năm 2007, Nguyễn Quốc Đạt công bố công trình nghiên cứu thử nghiệm sản

xuất giống nhân tạo cá Chạch sông (Macgnonathus siamemsis). Cá Chạch sông là
loài có tuổi thành thục khá sớm (0
+
), chiều dài thành thục đầu tiên của cá đực là
13,3 ± 0,17 cm và cá cái là 14,47 ± 2,2 cm. Trong tự nhiên, các bắt đầu thành thục
từ tháng 3 và sẵn sàng sinh sản từ tháng 5 đến tháng 7, đến tháng 8 tuyến sinh dục
7

cá cái bắt đầu thoái hóa. Nghiên cứu mô học buồng trứng cho thấy, tế bào trứng có
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, điển hình của loài cá đẻ nhiều năm. Công trình
nghiên cứu sử dụng 2 loại kích dục tố là HCG và LRHa + DOM, trong đó cả HCG
và LRHa đều có tác dụng gây rụng rứng với liều lƣợng HCG là 1500 UI/kg cá cái,
LRH
a
là 50 µg/kg cá cái, phƣơng pháp tiêm 2 lần trong điều kiện nhiệt độ nƣớc là
28 – 29
o
C, sức sinh sản tuyệt đối đạt 2.223 ± 932 hạt/cá thể, sức sinh sản tƣơng đối
thực tế 70 ± 24 hạt/g cá cái, thời gian hiệu ứng từ 10 đến 10,5 giờ, thời gian phát
triển phôi là 142 giờ. Đƣờng kính trứng dao động 1,05 ± 0,1mm. Cá bột sau khi tiêu
hết noãn hoàng có tập tính sống bám vào giá thể hoặc lẩn trốn trong các khe rãnh.
Giá thể thích hợp nhất là xơ ni lông. Mật độ ƣơng cho hiệu quả cao nhất là 100
con/m
2
[5].
Năm 2009, Nguyễn Văn Triều công bố công trình “Nghiên cứu đặc điểm sinh
học và thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá Chạch lấu (Mastacembelus armatus
Lacepade, 1800)”. Kết quả nghiên cứu cho thấy mùa vụ sinh sản của cá Chạch lấu
là mùa mƣa, từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm nhƣng tập trung chủ yếu vào tháng 6
và tháng 7. Nghiên cứu cho thấy HCG với liều lƣợng 2500UI/kg cá cái với phƣơng

pháp tiêm 2 lần (500 UI/kg cho liều dẫn và 2000 UI/kg cho liều quyết định) cho kết
quả rụng trứng cao, đạt đên 100%, tỉ lệ thụ tinh 73,3%, tỉ lệ nở 71,3%, sức sinh sản
21.189 ± 1309 trứng/kg cá cái. Ƣơng cá bột bằng moina và trùn chỉ ở mật độ 2 - 2,5
con/lít cho kết quả tăng trƣởng tốt (đạt 63,7 – 65,6mm sau 45 ngày ƣơng) và tỉ lệ
sống cao (63,2 – 66,5%) [22].
Phan Phƣơng Loan, 2010 [14 ] đã có nghiên cứu sinh sản nhân tạo và ƣơng cá
giống thành công (có thể có sự nhầm lẫn, tác giả dùng tên khoa học cá Chạch lấu là
M. armatus). Ở nghiên cứu này tác giả đã sử dụng kích dục tố não thùy thể và HCG
để kích thích cá rụng trứng, trong đó chỉ có HCG có tác dụng và cho kết quả sinh
sản tốt nhất.
Năm 2010, Đặng Văn Trƣờng và Phạm Văn Khánh công bố công trình
“Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất giống cá Chạch lấu
(Mastacembelus favus Hora, 1923)”. Kết quả cho thấy, cá Chạch lấu bố mẹ thành
thục tốt trong điều kiện nhân tạo cả trong ao lẫn trong bể xi măng. Cá bắt đầu thành
thục vào sau khi nuôi vỗ khảng 4 – 5 tháng, mùa vụ sinh sản bắt đầu từ tháng 5 đến
8

tháng 9 và tập trung vào tháng 6 đến tháng 8. Các chất kích thích sinh sản nhƣ não
thùy thể cá chép, HCG, LH-RHa và DOM đều gây rụng trứng ở cá Chạch lấu. Tuy
nhiên HCG có tác dụng tốt nhất với tổng liều tiêm 5.300 UI/kg cá cái với 3 lần tiêm
đạt tỉ lệ rụng trứng, thụ tinh và nở đều khá cao và ổn định. Trứng cá Chạch lấu ấp
trong điều kiện nhiệt độ 28 – 30
o
C sẽ nở sau 46 – 55 giờ. Thức ăn thích hợp để
ƣơng cá Chạch lấu là thức ăn tƣơi sống (moina, trùn chỉ, cá tạp xay nhuyễn) và mật
độ thích hợp nhất là 500 con/m
3
với tỉ lệ sống đạt 82% ở 30 ngày tuổi. Trong quá
trình ƣơng, cá dễ bị nhiễm kí sinh trùng, có thể sử dụng Kali permanganate
(KMnO

4
) với nồng độ 4 ppm + 1% muối ăn tắm cho cá để trị các bệnh này [23]
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu sinh học sinh sản của cá Chạch lá
tre (Matacembelus aculeatus) của Huỳnh Nha Trang, 2006 (Đại học Cần Thơ);
nghiên cứu sinh sản nhân tạo và sản xuất giống cá Chạch lấu (Matacembelus favus)
của Dƣơng Nhựt Long và cộng sự (Đại học Cần Thơ), Nguyễn Thành Trung
(Trƣờng Cao đẳng Kinh tế thành phố Cần Thơ).
Các loài thuộc nhóm cá Chạch đều có giá trị cao. Thịt cá Chạch lửa thơm ngon
và có giá trị kinh tế rất cao, cá cỡ 300 – 500 g đƣợc bán với giá 70.000 – 1.000.000
đ/kg (gấp 3 lần cá Chạch lấu). Cá Chạch lửa còn là loài nuôi cá cảnh rất đẹp.
Cá Chạch lửa (Mastacembelus erythrotaenia) có đầu nhỏ, dẹp bên, dài đầu
tƣơng đƣơng 2,6 cao đầu qua chẩm. Thân dài dạng ống, phần dƣới hơi tròn, phần
sau dẹp bên. Mõm dài nhọn, kéo dài thành một râu ngắn ở phía trƣớc. Răng nhỏ,
mịn. Mắt nhỏ, nằm dƣới da, lệch về nửa trên của đầu. Phần trán giữa 2 mắt hẹp,
phẳng, tƣơng đƣơng 1,5 lần đƣờng kính mắt. Lỗ mang nhỏ, lƣợc mang ngắn, xếp
thƣa. Cạnh sau xƣơng trƣớc nắp mang có 2 - 3 gai ngắn. Thân màu xám xanh hoặc
hơi đen. Trên trục giữa thân có hàng đốm tròn đỏ, trên và dƣới hàng đốm này có 2 -
3 sọc màu vàng nhạt, ngọn vây lƣng, vây đuôi, vây hậu môn màu vàng và nhiều
đốm tròn nhỏ màu nâu vàng trên các vây đó. Gốc vây lƣng dài, gốc các gai vây lƣng
có màu đỏ. Phần trƣớc vây lƣng có từ 31 - 33 gai, gai cuối cùng to và dài nhất,
màng da giữa các gai chỉ hiện diện ở gốc, phần sau các tia mềm dính nhau bởi màng
da và cơ dày. Vây ngực tròn, nhỏ. Vây đuôi rất nhỏ và dính liền với vây hậu môn và
vây lƣng. Gốc vây đuôi có một đốm đen nhỏ. Cá Chạch lửa không có vây bụng.
Đƣờng bên liên tục nằm trên trục giữa thân.
9

Cá sống chủ yếu ở trung và thƣợng nguồn các con sông, nơi có dòng chảy vừa
đến lớn. Chúng thích các thủy vực có nền sỏi hoặc đá nhỏ, nhiều hang hốc, rễ cây
và bụi rậm.
Theo tác giả Nguyễn xuân Đồng [7], cá khai thác trong tự nhiên (năm 2009)

khu vực sông Sài gòn, sông Hậu có kích thƣớc trung bình 213,32 ± 15,42mm (dao
động từ 102 - 450mm). Khối lƣợng trung bình 63,18 ± 11,55gam, dao động từ
14,50 - 192,73gam. Tác giả [6,7] còn cho rằng số lƣợng cá khai thác khi chƣa đến
tuổi trƣởng thành và dƣới 2 năm tuổi chiếm tới 70,59%. Điều này cảnh báo sự khan
hiếm của cá này trong tƣơng lai không xa. Cá nghiên cứu đƣợc chia ra 3 nhóm kích
thƣớc: nhóm nhỏ hơn 180mm thì chƣa trƣởng thành; nhóm 180-250mm có tuyến
sinh dục giai đoạn II và một số chƣa phân biệt tuyến sinh dục; nhóm kích thƣớc lớn
hơn 250mm thì đã trƣởng thành và thành thục về sinh dục, phần lớn nhóm này nếu
khai thác vào mùa sinh sản thì đều có thể có tuyến sinh dục đạt từ giai đoạn III trở
lên; nếu kích thƣớc 350mm trở lên thì khả năng gặp cá thành thục cao hơn.
Thức ăn trong ruột cá khi khai thác cho thấy chúng sử dụng khá nhiều dạng
thức ăn, tới 16 loại thức ăn và đa số là động vật phù du, động vật đáy, ấu trùng
muỗi, tép, tôm con, cua con, cá nhỏ và một lƣợng nhỏ mùn bã hữu cơ. Chiều dài
ống tiêu hóa của cá chỉ bằng 85,77 ± 4,58% chiều dài thân, chứng tỏ đây là loài cá
ăn thiên về động vật. Cá Chạch lửa có tập tính ăn vào ban đêm, kiếm ăn chủ yếu ở
tầng đáy và tầng giữa, kiếm ăn gần bờ, ban ngày thƣờng trốn trong các vách đá,
trong hang hoặc chui trong rễ cây các loài thủy sinh.
Tƣơng quan giữa chiều dài và khối lƣợng của cá Chạch lửa trong khai thác tự
nhiên [7] thể hiện bằng phƣơng trình W = 0,001.L
2,019
, R
2
= 0,7837. Tỷ lệ đực cái
trong đàn cá khai thác với cá cái nhiều hơn (17 cá thể cá cái/14 cá thể đực). Tuổi
thành thục của cá khi đạt trên 2 tuổi.
Tỷ lệ đực cái trong thành phần cá khai thác trong tự nhiên với tỷ lệ đực/cái là
14/17. Tuổi thành thục ở cá cái chủ yếu là 2 tuổi. Mùa vụ sinh sản của cá Chạch lửa
tập trung vào mùa mƣa kéo dài từ tháng 6 - 10, cao nhất là khoảng tháng 7 - 9. Sức
sinh sản tuyệt đối dao động từ 18.392 - 37.055 trứng (khối lƣợng cá thể 44,4 -
192,73). Sức sinh sản tƣơng đối dao động từ 127,88 - 234,27 trứng/gam khối lƣợng

cơ thể. Đƣờng kính trứng trung bình 0,68mm. Hệ số thành thục 3,05 ± 0,45% với
10

các cá thể trong đàn cá khai thác trên. Sức sinh sản tuyệt đối 27.685 trứng ở cá thể
cái nặng 142,5 gam, chiều dài 309,59mm.
Do tình hình khai thác cá Chạch lấu, Chạch lửa trong tự nhiên quá mức và
bằng cả những phƣơng tiện mang tính hủy diệt (dùng xung điện, hóa chất…) nên
sản lƣợng cá Chạch ngoài tự nhiên đã giảm nghiêm trọng. Đặc biệt cá Chạch lửa có
nguy cơ tuyệt chủng cao hơn.
Hiện nay đã có một số hộ ngƣ dân nuôi thƣơng phẩm cá Chạch lấu bằng
nguồn giống tự nhiên, nhƣng sản lƣợng chƣa nhiều do con giống tự nhiên chƣa chủ
động và kích cỡ thƣờng không đều, tỷ lệ sống trong quá trình nuôi còn chƣa ổn
định. Cá Chạch lửa còn hiếm gặp hơn và cũng chƣa có mô hình nuôi thƣơng phẩm
vì con giống tự nhiên hầu nhƣ rất ít. Từ trƣớc đến nay, loài cá Chạch lửa cũng
thƣờng gặp trong tự nhiên nhƣng số lƣợng ít hơn rất nhiều so với các loài Chạch
khác.
Xuất phát từ những vấn đề cấp bách trên, việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá
Chạch lửa là rất cần thiết nhằm tiến tới hoàn thiện quy trình và chủ động trong sản
xuất giống, nâng cao năng suất sinh sản và ƣơng nuôi cá giống, góp phần đẩy mạnh
phát triển một đối tƣợng cá quý hiếm đang tiềm ẩn nguy cơ bị tuyệt chủng.
1.2. Cá Thái hổ
Cá Thái hổ thuộc nhóm (giống) cá Datnioides, chúng phân bố ở Borneo và
Sumatra, Chao Phraya (Thái Lan) và những nƣớc thuộc lƣu vực sông Mekong (Thái
Lan, Campuchia, Việt Nam). Nhóm cá Hổ hiện có các loài sau:
Bảng 1.2. Các loài thuộc giống cá hổ
TT
Tên khoa học loài
Tên Việt Nam
1
Datnioides pulcher

Cá Thái hổ
2
Datnioides microlepis
Cá hổ Indonesia
3
Datnioides undecimradiatus
Cá hổ Việt Nam, hổ sọc nhỏ
4
Datnioides campbelli
Cá hổ New Guinea
5
Datnioides polota
Cá hổ polota

11

- Cá Thái hổ (Datnioides pulcher), có ở Thái Lan, Việt Nam và Campuchia.
Gốc đuôi có 2 sọc, sọc trƣớc lớn hơn sọc sau. Cá Thái Lan thì gốc đuôi có 2 sọc nhỏ
và khá đều. Chúng còn có tên là cá Hổ sọc to.
- Cá Hổ Indonesia (Datnioides microlepis): phân bố ở Indonesia, gốc đuôi có
ba sọc, hai sọc sau nhỏ và đều.
- Cá Hổ sọc nhỏ (Datnioides undecimradiatus). Phân bố ở Thái Lan, các nƣớc
Đông Dƣơng, trong đó có ở Việt Nam, còn gọi là cá Hổ Campuchia. Cũng có các
sọc tƣơng tự trên thân, nhƣng nhỏ hơn sọc của cá Thái hổ (D. pulcher).
- Cá Hổ New Guinea (Datnioides campbelli) phân bố ở vịnh Papua, New
Guinea. Chúng thƣờng có đầu rất đậm màu với những đốm đen lấm tấm trên nền
thân màu vàng, đôi chỗ hơi ánh xanh. Viền của các sọc trên mình cá không rõ ràng
nhƣ ở các loài cá Hổ khác. Kích thƣớc tối đa của loài này lên đến 45cm hay hơn.
- Cá Hổ Polota (Datnioides polota). Loài này có màu bạc và đầu rất thuôn.
Thân thƣờng có các sọc không đầy đủ. Kích thƣớc tối đa của loài này nhỏ nhất

trong số các loài cá Hổ, khoảng 30cm. Địa bàn phân bố của chúng rộng hơn rất
nhiều so với Datnioides campbelli, trải dài từ Ấn Độ qua Indonesia đến New
Guinea.



Hình 1.3. Hình dạng ngoài các loài cá Hổ
12


Hình 1.4. Phân biệt các loài cá hổ qua sọc ở gốc đuôi




Hình 1.5. Địa bàn phân bố của các loài cá hổ (nguồn www.waterwolves.com)
13

- Cá Hổ bạc (vòng xanh lá cây): phân bố trải dài từ Ấn Độ, qua Đông Nam Á
đến tận New Guinea.
- Cá Hổ Việt Nam hay cá Hổ vảy nhỏ (vòng xanh dƣơng): phân bố ở lƣu vực
sông Mekong.
- Cá Thái hổ Datnioides pulcher (vòng đỏ): phân bố ở lƣu vực sông Mekong
và Chao Phraya. Lƣu ý rằng vòng đỏ đƣợc chia ra làm hai khu vực riêng biệt. Cá
Hổ ở lƣu vực sông Chao Phraya có thể lớn đến 60 cm còn cá Hổ ở lƣu vực sông
Mekong (Việt Nam và Campuchia) có kích thƣớc nhỏ hơn.
- Cá hổ Indonesia: phân bố ở lƣu vực sông Musi, đảo Sumatra (vòng nâu) và
lƣu vực sông Kapuas, đảo Borneo (vòng tím).
- Cá hổ New Guinea (vòng hồng): phân bố ở vịnh Papua, New Guinea.
Có hai loài cá Hổ nƣớc lợ là cá Hổ bạc và cá Hổ New Guinea, chúng sống nơi các

cửa sông, đầm lầy ven biển và các nhánh sông, hồ bị ảnh hƣởng bởi thủy triều. Các
loài cá Thái hổ, cá Thái hổ bắc và cá Hổ Indonesia là những loài cá thuần nƣớc
ngọt, chúng sống trong các nhánh sông nhỏ, đầm lầy và ao hồ nằm sâu trong nội
địa, nơi nƣớc tĩnh hay có dòng chảy nhẹ.



Hình 1.6. Nơi phân bố hiện tại còn lại của cá Hổ
14

Về phân loại cá hổ sọc nhỏ nhƣ sau:
Bộ: Perciformes
Họ: Datnioididae
Giống: Datnioides
Loài: Datnioides undecimradiatus(Roberts &Kottelat 1994)
Theo một số tài liệu trƣớc đây, họ Datnioididae còn đƣợc gọi là Labotidae hay
Coiidae.
Ngƣời Việt Nam quen gọi là cá Hƣờng vện và gần đây mới đƣợc gọi là cá Hổ.
Danh từ “cá Thái hổ ” là gọi chung cá có nguồn gốc Thái Lan. Tuy nhiên giữa loài
cá Hổ Việt Nam (sọc nhỏ) và loài cá Hổ Thái Lan (sọc to) rất giống nhau, chỉ có
điểm khác nhau là 3 sọc thân của cá Thái Lan thì lớn hơn và 1 trong 2 sọc ở gốc cán
đuôi của cá Việt Nam hoặc Campuchia thì đậm hơn.
Cá Hổ cókích thƣớc chiều dài thân đạt tới hơn 60cm. Có 4 - 5 sọc lớn trên
thân, sọc thứ nhất chạy từ lƣng qua nắp mang đến cổ họng, sọc thứ hai xuất phát từ
gai vây lƣng 2 - 5 chạy đến phía trƣớc vây hậu môn, sọc thứ ba bắt đầu từ phía dƣới
gai vây lƣng thứ 9 và tia vây lƣng thứ 2 kéo dài đến tia vây hậu môn 2 - 6, sọc thứ 4
nằm ở phần sau của gốc đuôi. Thân cá Thái hổ có ba sọc đen lớn trên nền màu vàng
cam. Cá Thái hổ là loài đẹp nhất trong họ cá Hổ mặc dù một số cá thể xuất sắc
thuộc loài cá Hổ Indonesia cũng có ba sọc lớn và kích thƣớc xấp xỉ 60 cm.



Hình 1.7. Cá Hổ sọc nhỏ (Datnioides undecimradiatus)
15

Dựa vào những đặc điểm hình thái, ở Việt Nam hiện nay phát hiện có 2 loài có
tên gọi là cá Hƣờng hay cá Hƣờng sông chính là cá Hổ bạc và cá Hƣờng vện là cá
Hổ. Tuy nhiên, nếu cá Hổ là tên thông dụng trong lãnh vực cá cảnh thì "cá Hƣờng"
lại có thể nhầm lẫn với tên gọi của một số loài cá khác, chẳng hạn loài Nandus
nandus cũng đƣợc gọi là cá hƣờng vện.
Cá Hổ là loài cá đẹp và hiếm. Hơn nữa, chúng sinh sản rất khó, đến nay chƣa
có trƣờng hợp sinh sản nhân tạo thành công nào của cá Hổ trong môi trƣờng nuôi
dƣỡng đƣợc ghi nhận. Cá Thái hổ (D. pulcher và D. undecimradiatus) là 2 loài đẹp
nhất. Cá Thái hổ gần nhƣ bị tuyệt chủng ở Thái Lan và đã bị chính quyền sở tại cấm
xuất khẩu từ lâu, vì vậy cá Thái hổ lƣu hành trên thị trƣờng cá cảnh chủ yếu có xuất
xứ từ Việt Nam và Campuchia.
Theo giới chơi cá cảnh của ngƣời Nhật thì chỉ có những cá thể phân bố ở lƣu
vực sông Chao Phraya, Thái Lan mới là cá Thái hổ đúng nghĩa bởi vì chúng có thể
lớn đến xấp xỉ 60cm. Họ gọi những cá thể cùng loài phân bố ở lƣu vực sông
Mekong là cá Hổ Campuchia. Bởi vì cá Thái hổ bị cấm xuất khẩu ở Thái Lan cho
nên cá Thái hổ mà chúng ta thấy trên thị trƣờng cá cảnh thế giới và trong nƣớc hầu
nhƣ có xuất xứ từ Việt Nam và Campuchia (tức cá Hổ Campuchia theo cách gọi của
ngƣời Nhật). Nhƣ vậy, nếu xét theo tiêu chuẩn của ngƣời Nhật thì chúng ta hầu nhƣ
không thể mua đƣợc cá Thái hổ đúng nghĩa. Tuy nhiên, bề ngoài hai loại cá Thái hổ
này rất giống nhau ngoại trừ các sọc ở gốc đuôi.
Cá hổ có thể đƣợc nuôi chung với cá hiền có kích thƣớc lớn để cá Hổ không
thể bắt ăn đƣợc. Những loài có thể nuôi chung với cá hổ gồm cá Khủng long
(bichir), cá Thát lát, cá Rồng, các loài kích thƣớc lớn thuộc họ cá chép. Cá Hổ rất
háu ăn và chúng là cá săn mồi (cá dữ). Cá còn nhỏ có thể ăn trùn đỏ và artemia. Cá
lớn ăn nhiều loại thức ăn nhƣ thịt băm nhỏ, sò, cá nhỏ, tép và trùn đất.
Trong tự nhiên, cá hổ có tính ăn là cá dữ, có thể bắt ăn tôm, cua, trùn, ấu trùng

côn trùng và cá. Ở Campuchia ngƣời ta có thể đánh bắt cá hổ bằng các loại lƣới, bẫy
hoặc câu [35].
Cá Hổ tƣơng đối khỏe, rất ít khi nhiễm bệnh và là loài cá giỏi chịu đựng. Khi
quan sát bên ngoài, chúng không có đặc điểm phân biệt giới tính, chỉ khi đã thành
thục sinh dục thì có thể nhận biết cá đực khi vuốt dọc bụng xuống phía đuôi sẽ có
16

tinh dịch màu trắng chảy ra; cá cái thành thục thì có bụng căng to, lớp vẩy trên thân
trở nết nhám ráp hơn bình thƣờng.
Những năm trƣớc đây ngƣời ta vẫn khai thác cá Hổ ở khu vực sông Vàm Cỏ
Đông, chủ yếu ở khu vực huyện Hòa Thành và Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Theo tác giả
Nguyễn Thị Phƣơng Tâm và Lê Thị Thanh Muốn (1995) [25], cá đƣợc khai thác
trong sông, có kích thƣớc 0,5 - 1,5cm; mùa vụ kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 năm
sau. Việc khai thác mỗi tháng 2 kỳ, theo chu kỳ con nƣớc triều cƣờng. Vị trí khai
thác là những vùng trũng nƣớc tràn vào. Cá con thƣờng nổi trên mặt nƣớc nhƣng trú
dƣới bộ rễ của thực vật thủy sinh nhƣ lục bình, cây nga, cây dứa dại. Ngƣời dân
thƣờng dùng vợt hoặc rổ để vớt cá con kích thƣớc nhỏ hơn 1cm. Cá lớn hơn 1,5cm
chỉ khai thác đƣợc bằng lƣới giăng, lƣới đáy hay cắm chà.
Hiện nay cá Hổ ở vùng sông Vàm Cỏ Đông đã gần nhƣ cạn kiệt, chỉ còn ở một
số vùng thuộc địa phận của Campuchia là còn khai thác đƣợc cá hổ trong tự nhiên.
Về tính ăn của cá hổ, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phƣơng Tâm (1995), tỷ
lệ chiều dài ruột và chiều dài thân (L
i
/L
s
) biến thiên từ 0,81 - 1,07, chứng tỏ đây là
loài cá thích ăn động vật. Trong quá trình thuần dƣỡng đã sử dụng thức ăn cho cá là
mồi sống và thích hợp nhất là tép bò (Macrobrachium lanchetster De Man, 1911).
Đồng thời việc nuôi thuần dƣỡng trong bể kính đạt hiệu quả hơn trong ao đất, do
chủ động đƣợc trong chăm sóc, phòng trị bệnh, quản lý địch hại

Cá hổ khai thác ở vùng thuộc tỉnh Tây Ninh có ngƣỡng nhiệt độ 15 và 35
0
C,
nhƣng thích hợp nhất với nhiệt độ 27 - 28
0
C. Cá thích hợp pH trung tính (=7); Thí
nghiệm với cá cỡ nhỏ 2 - 3 gam/con (L = 4 - 5cm), khả năng chịu đựng pH của
chúng ở pH = 5 thì cá bị sốc và chết khoảng 3%, pH = 6 thì cá hoạt động bình
thƣờng. Tiêu hao oxy của cá nhỏ (2 - 3gam/con, L = 4 - 5cm) là 1,928mgO
2
/g/giờ
và ngƣỡng oxy là 1,681mg/lít.
Cá Hổ đang đứng trƣớc nguy cơ cao bị tuyệt chủng (đã xảy ra ở Thái Lan và
có thể cả ở Việt Nam). Hiện nay chỉ còn lại ở khu vực phía đông Campuchia giáp
với Việt Nam là còn hiện diện loài này. Tuy nhiên vì bị đánh bắt quá mức, đến nay
sản lƣợng đánh bắt cá Hổ cũng ngày càng ít dần. Năm 2012 không còn cá giống và
cả cá cỡ lớn khai thác tự nhiên đƣợc đƣa sang bán ở khu vực thành phố Hồ Chí
Minh. Với những động thái bất lợi từ con ngƣời nhằm phục vụ cho xuất khẩu ra các
17

nƣớc khác làm cá cảnh, thì trong tƣơng lai gần sẽ đến lƣợt cá Hổ ở khu vực này
cũng sẽ biến mất. Do đó vấn đề nghiên cứu để tiến tới chủ động sinh sản nhân tạo
loài cá hổ nhằm khôi phục, bảo vệ nguồn lợi nguồn cá quý hiếm đang là nhu cầu
bức thiết.
1.3. Tổng quan về kích dục tố và chất kích thích sinh sản dùng cho cá
Hiện nay trong sinh sản nhân tạo các loài cá, chất kích thích sinh sản đƣợc sử
dụng thông dụng gồm 3 nhóm chính [1]:
- Nhóm thứ nhất: gồm các loại chế phẩm kích dục (kích dục tố), là não thùy
thể (tuyến yên) của cá và HCG.
Hoạt chất của não thùy lấy ở các loài thích hợp nhƣ cá thuộc nhóm cá chép

(chép, mè, trắm ), cá da trơn (tra, trê ) có tác dụng kích thích tuyến sinh dục phát
triển, thúc đẩy sự thành thục hoàn toàn, gây chín và rụng trứng ở cá cái hoặc tiết
tinh dịch ở cá đực. Liều lƣợng sử dụng não thùy cho cá bố mẹ sinh sản tùy thuộc
vào nhiều yếu tố nhƣ chất lƣợng hoạt tính của não thùy, mức độ thành thục, hệ số
thành thục, nhiệt độ nƣớc và các điều kiện khác của môi trƣờng chứa cá sau khi
đƣợc tiêm thuốc kích thích giống nhƣ các yếu tố ở bãi đẻ tự nhiên của cá. Cá đƣợc
tiêm một hay nhiều lần cũng tùy thuộc vào từng loài cá. Tuy nhiên hạn chế của việc
sử dụng não thùy là sự không ổn định của hoạt tính trong não thùy và phải giết chết
cá để lấy sản phẩm. Ngoài ra khi sử dụng não thùy rất dễ xảy ra các phản ứng phụ
không có lợi cho cá sinh sản vì trong não thùy có chứa nhiều loại hormon khác
nhau.
HCG (Human Chorionic Gonadotropin) là một Glycoprotein tan trong nƣớc.
HCG đƣợc chiết xuất từ nƣớc tiểu phụ nữ có thai dựa vào nguyên lý tách protein tan
trong nƣớc. Đây là hormon kích thích sinh sản, làm giải phóng tinh trùng và tế bào
trứng trong tuyến sinh dục đã thành thục của cá. HCG gây đƣợc những phản ứng
oxy hóa cho các enzym chuyển hóa protein và lipid nhƣ Dehydrogenaza và Estaraza
của cá mè trắng tƣơng tự nhƣ não thùy của cá chép trên loài này. HCG đƣợc coi là
loại kích dục tố dị chủng thông dụng gây rụng trứng hiệu quả cho nhiều loài cá.
Liều lƣợng dùng từ 4.000 - 8.000 UI/kg cá cái cho nhiều loài cá.
- Nhóm thứ hai: là tổ hợp hoạt chất của GnRH-a (Gonadotropin Releasing
Hormon analog), một chất tổng hợp tƣơng tự hormon phóng thích kích dục tố từ

×