BÁO CÁO ĐỀ TÀI KINH TẾ VĨ MÔ:
VIỆT NAM VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG
ĐỂ GIỮ MỨC TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD: TS.NGUYỄN TIẾN DŨNG
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên nhóm tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Tiến Dũng đã nhiệt tình hướng dẫn để
chúng tôi thực hiện đề tài này và cũng xin cảm ơn các bạn trong lớp đã có những đóng góp ý kiến
qúy báu cùng những nổ lực của tất cả các thành viên trong nhóm để hoàn thành đề tài này.
MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG.
II. SƠ LƯỢC VỀ KHỦNG HOẢNG 2008.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TỚI VIỆT NAM.
IV.VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG.
V.BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
VI.CÁC CHỈ SỐ TĂNG TRƯỞNG 2009- 2010.
NỘI DUNG
I.KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG.
- Khủng hoảng là một quá trình, nhờ quá trình đó kinh tế thị trường được cứu thoát khỏi tình trạng
cùng cực, kinh tế trong tương lai tránh được sai lầm từ sự phồn vinh tạm thời cùng với lạm phát
lần trước; và tạo động năng để hồi phục tình trạng kinh tế vững chắc. Đình đốn là hiện tượng
không dễ chịu, nhưng là sự ph
ản ứng cần thiết.
- Khủng hoảng kinh tế: là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy
thoái trong chu kỳ kinh tế. Là sự tàn phá nền kinh tế. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình
tái sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai
tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi độ
ng một quá trình tích tụ tư bản mới.
- Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm
quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng
trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời
của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như
việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh
nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh
giá cả (lạm phát) trong thời kì đình lạm. Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng
hoảng kinh tế.
II.SƠ LƯỢC VỀ KHỦNG HOẢNG.
Khủng hoảng tài chính đầu tiên trong lịch sử đã nổ ra vào thời kỳ đế chế La Mã năm 88 trước
Công Nguyên ( theo Giáo sư đại học Oxford, nhà lịch sử học Phillip Kay ). Khủng hoảng kinh tế
đã diễn ra vào thời Trung cổ (Florence, năm 1342), thời đại Phục hưng (Venice, năm 1492), thời
kỳ Cận đại (Pháp, năm 1720). Nhưng cho đến giữa thế kỷ
19, những hiện tượng đó mang tính chất
địa phương là chủ yếu.
Trong quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, tần số và sự ảnh hưởng của chúng tăng lên. Nhưng
điều chính là tất cả những khủng hoảng đó đều được khắc phục. Và cứ mỗi lần một quốc gia nào
đó thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì nó lại trở nên hùng mạnh hơn trước khi rơi vào khủ
ng hoảng.
Khủng hoảng và suy thoái hiện nay thực chất là sự điều chỉnh sự mâu thuẩn giữa sản xuất và
tiêu dùng, điều chỉnh sự mâu thuẩn giữa quyền lợi của các giai cấp, mâu thuẩn giữa người nghèo
và người giàu, v.v…
Hơn nữa, khủng hoảng có thể làm chứng cứ về việc kinh tế những nước công nghiệp phát triển
chuyển đổi khoa học kỹ thuậ
t và kinh tế-xã hội lên cấp độ mới. Khủng hoảng xuất hiện khi hệ
thống tài chính và kinh tế tích lũy quá nhiều thành phần xơ cứng, không hiệu quả và không hợp
lý.
Một số cuộc khủng hoảng:
- Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên.
- Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ Anh, Đức và Hà
Lan.Toàn bộ hệ thống ngân hàng những n
ước đó bị thiệt hại nghiêm trọng
- Vào năm 1857, một trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng nổ
- Khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ năm 1861
- Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên.
- Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế.
- Thời kỳ đình trệ năm 1920-1922 và giai đoạn Đại suy thoái năm 1929-1933 đã tác động đến đời
sống mọi giới con ngườ
i.
- Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu.
- Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mexico, hai năm sau thị trường quỹ của châu Á sụp
đổ.
- Khủng hoảng tài chính năm 2007-2010: là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt
hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy
mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồ
n gốc từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Mỹ dẫn tới một cuộc khủng
hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ
tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Mỹ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ
Mỹ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới nh
ững đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Đầu tiên là việc các hợp đồng cho vay bất động sản thế chấp, tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD,
trong đó 3 đến 4 ngàn tỷ USD là dưới chuẩn, khó đòi. Những người không có khả năng trả nợ
cũng được cho vay.
Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có ng
ười mua, nên các ngân
hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán
được, mất khả năng thanh khoản, và mất khả năng thanh toán, đi đến gục ngã hoặc phá sản.
Nhiều ngân hàng vì mất khả năng thanh khoản đã co lại, rút lại tín dụng, điều này đã khiến các
doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường vốn và bị ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất kinh
doanh.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TỚI VIỆT NAM.
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ diễn biến phức tạp, lan rộng tới nhiều nướ
c và đã dẫn tới suy
thoái kinh tế thế giới. Sự tác động này tới nền kinh tế Việt Nam được thể hiện qua một số yếu tố
sau:
- Đối với thị trường tài chính:
+ Vì chưa có định chế tài chính nào của Việt Nam đầu tư vào trái phiếu MBS và các hợp đồng
cho vay cầm cố như Mỹ nên ảnh hưởng trực tiếp thì cũng có giới hạn.
+ Tiền tệ Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn chiếm 30% tổng sản lượng, chu chuyển
vốn thị trường thế giới. Trong điều kiện hội nhập “nhất cử, nhất động” c
ủa một nền kinh tế nào đó
cũng có ảnh hưởng nhất định đối với thế giới, chưa nói tới một nền kinh tế lớn như Mỹ.
Giá bất động sản ở Việt Nam có thể xuống thấp hơn nữa. Mà bất động sản xuống thì tài sản ngân
hàng cũng xuống theo và nợ xấu có thể tăng lên. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước thì dư nợ
cho vay bất độ
ng sản tính đến cuối tháng 9/2008 là 115.500 tỷ VND, chiếm 9,15% tổng dư nợ
toàn hệ thống.
+Thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh mẽ, nửa đầu năm 2008 tỉ số chứng
khoán tụt dốc nhanh chóng
. Đầu tháng 1-2008, Vn-Index còn trên 900 điểm, tới đầu tháng 6-2008,
hàn thử biểu kinh tế lần đầu rơi xuống dưới ngưỡng 400 điểm. Thị trường tiếp tục giằng co trong
quý III-2008. Từ sau tháng 10-2008, thị trường chứng khoán liên tục giảm điểm. Tới ngày 11-12-
2008, Vn-Index chỉ còn 288 điểm. Tại Hà Nội, HaSTC-Index còn 101 điểm. Trước đó, thị trường
Hà Nội thậm chí còn lùi về sau vạch xuất phát, tụt xuống 97,61 đ
iểm khi kết thúc phiên giao dịch
ngày 27-11-2008.
. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số chứng khoán giảm tới 70% so với đầu
năm. Ngay một số cổ phiếu thuộc nhóm “blue-chip” còn có mức sụt giảm lớn hơn nhiều, như SSI
(- 84%) và FPT (- 78%).
Bảng 2: Tương quan chặt chẽ giữa các chỉ số chứng khoán
Ngày DJAI Nikkei 225 Vn-Index
30/9/2008 -777,68 -483,75 -22,30
-6,98% -4,12% -4,66%
10/10/2008 -128 -881,06 -18,58
-1,49% -9,62% -4,68%
16/10/2008 -733,08 -1089,02 -12,54
-7,87% -11,41% -3,16%
23/10/2008 -514 -213,71 -14,48
-5,70% -2,46% -3,86%
6/11/2008 -443,48 -622,1 -13,54
-4,85% -6,53% -3,57%
11/11/2008 -176,58 -272,13 -9,38
-1,99% -3% -2,67%
- Đối với hoạt động xuất nhập khẩu:
Các chỉ số về GDP theo sức mua
Năm
GDP theo
sức mua
(tỷ USD)
GDP sức
mua theo
đầu người
(USD)
2007 230,8 2700
2008 245,1 2800
2009 258,1 2900
Nền kinh tế Mỹ bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vì xuất khẩu
chiếm tới 60% GDP, trong khi đó Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng dệt may,
da giày, thuỷ sản…của nước ta. Điều này được thể hiện thông qua hai tác động sau:
- Thứ nhất, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của Mỹ đối với Việt Nam (Việt Nam là m
ột trong 37
nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Mỹ, trong đó có một số mặt hàng đứng thứ hạng cao như:
Dệt may, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, đồ gỗ, thuỷ sản ) có xu hướng giảm sút vì hai lý do
+ Hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn vẫn là các loại hàng thô, trong khi giá các nguyên liệu
thô trên thị trường thế giới đang giảm, kể cả khi không có khủng hoảng ở Mỹ
.
+ Sự eo hẹp của thị trường tài chính dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu hàng hóa, nhu cầu về
hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm đi.
- Thứ hai, tỷ giá VND/USD bị tác động nhiều và cần được điều chỉnh linh hoạt do đồng Việt
Nam được xác định giá gắn với đồng USD. Khi đồng USD giảm trên thị trường thế giới thì có thể
dẫn tới lạ
m phát trong nước nếu đồng VND không lên giá, và khi đó người tiêu dùng chịu giá cả
tăng do nhập khẩu. Nhưng nếu tỷ giá VND/USD giảm (tức là VND lên giá so với USD) ở mức
không phù hợp sẽ làm cho xuất khẩu vào Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam bị lỗ. Trong khi để
cạnh tranh bán hàng vào Mỹ, nhiều nước có mặt hàng tương đồng cũng đã giảm giá. Nhìn vào
lĩnh vực xuất khẩu, năm 2008 mức xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng ngoạn mục (do tăng
về số lượng và cả giá cả). Nhưng sáu tháng đầu năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 27,6
tỷ USD, kém xa so với mục tiêu đề ra (mục tiêu đặt ra cho cả năm là 64,75 tỷ USD) giảm tới
10,15% so với cùng kỳ (mục tiêu là tăng 13%).
Các chỉ số về GDP theo tỷ giá
Năm
GDP theo
tỷ giá
(tỷ USD)
GDP tỷ giá theo
đầu người
(USD)
Tăng
trưởng
2007 71,4 823 8,5%
2008 89,83 1024 6,2%
2009 92,84 1040 5,3%
Hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đều suy giảm: Nếu so cùng kỳ, 6 tháng đầu năm
2009 hàng dệt nay giảm 1,3%; giày dép giảm 8,7%; thuỷ hải sản giảm 10,7%. Nếu năm 2008 giá
xuất khẩu rất cao thì năm nay giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều giảm sút
nghiêm trọng: giá dầu thô giảm 53%; giá cà phê giảm 28,3% và còn có xu hướng giảm tiếp, giá
cao su giảm 44%; giá gạo giảm hơn 20%
Do ảnh hưởng c
ủa cuộc khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu hàng Việt Nam ở hầu hết các thị
trường chính đều giảm như thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Australia Hơn nữa
để chống trọi với tình trạng thiếu hụt phương tiện thanh toán và bảo vệ các doanh nghiệp trong
nước, ở hầu hết các thị trường này đều đang gia tăng các biện pháp bảo hộ, từ chố
i đơn hàng, tung
tin thất thiệt để hạ uy tín của hàng Việt Nam.
Các chỉ số về xuất nhập khẩu
Năm
Xuất khẩu
(tỷ USD)
Nhập khẩu
(tỷ USD)
Thâm hụt
(tỷ USD)
2007 48,38 60,83 -12,45
2008 63,0 80,5 -17,5
2009 56,58 68,83 -12,25
- Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Khủng hoảng tài chính lan rộng, hầu hết các doanh nghiệp Mỹ và Châu Âu sẽ giảm đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài, nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng
kể. Hơn thế nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng
dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn t
ới việc giải ngân FDI
giảm. Hầu hết các nước trên thế giới đều phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hoặc
âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu tố này
Ngoài ra, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể chững lại, thậm chí vốn đã cam kết sẽ thực
hiện trễ hơn bởi khoảng 80% vốn đầu tư vào Việ
t Nam là đi vay. Khi không đi vay được thì nhà
đầu tư sẽ khó giải ngân vào Việt Nam. Vốn cam kết thì lớn, nhưng vốn thực hiện có thể thấp, tình
hình giải ngân những tháng cuối năm sẽ gặp khó khăn.
Tiền gửi ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước sẽ bị giảm lợi tức do nhiều nước nới
lỏng tiền tệ để tránh lâm vào suy thoái sâu rộng; dòng ngoại hối sẽ suy giảm; nhiều hoạt động
kinh t
ế ở nước ta cũng gặp khó khăn, đặc biệt các hợp đồng đã ký kết với đối tác nước ngoài có
thể bị ngưng trệ và có thể các hợp đồng này sẽ không còn được ký kết.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Năm
FDI đăng ký
(tỷ USD)
FDI giải ngân
(tỷ USD)
2007 8
2008 71,7 11,5
2009 21,48 10
- Đối với các lĩnh vực khác:
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng dẫn tới giá nhiều loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản
xuất kinh doanh giảm, đặc biệt là dầu thô. Giá dầu thế giới giảm đã ảnh hưởng đến nguồn thu
ngân sách do xuất khẩu dầu thô bị giảm sút. Ngoài ra, nhiều loại nguyên liệu khác phục vụ cho
hoạt động của nền kinh tế như
sắt, thép, phân đạm, giấy, xi măng cũng gặp khó khăn và hiện tại
thị trường tiêu thụ của các ngành này đang bị thu hẹp
Bên cạnh đó khủng hoảng còn làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp,ảnh hưởng tới đời sống người dân,gây
bất ổn trong xã hội…
Mặc dù khủng hoảng tài chính đã gây ra một số tác động tiêu cực, nhưng nó cũng tạo ra cho Việt
Nam một số
cơ hội:
+ Việc thu hút vốn đầu tư có nhiều thuận lợi do dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những
nước có môi trường kinh doanh và chính trị ổn định
+ Hoạt động xuất khẩu có thể tăng do nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều lợi thế so
sánh như hàng dệt may ; nhập khẩu có thể chọn lọc do nhiều nước trên thế giới phải bán các mặt
hàng, công nghệ do kinh tế đi xuống.
+ Việc giảm các loại nguyên vật liệu này tuy gây khó khăn cho nền kinh tế nhưng cũng tác động
tích cực tới nền kinh tế như: H
ạn chế lạm phát; xăng dầu giảm dẫn tới chi phí vận chuyển và giá
của nhiều loại vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi măng, cát, đá cũng giảm, góp phần thúc đẩy thị
trường bất động sản hồi phục sau một thời gian "đóng băng" .
IV. VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG.
Trước tác động của cuộc khủng ho
ảng tài chính toàn cầu, từ qúy I năm 2008 Chính Phủ Việt Nam
đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn phòng ngừa những hậu quả khôn lường của “Cơn Bão Tài
Chính”. Việt Nam đã kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý nhằm đưa đất nước vượt qua khủng
hoảng:
- Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt nhiều biện pháp kích thích tài chính trong giai đoạn từ tháng
1 – tháng 5/2009 làm dịu tác động của sự suy giảm kinh tế
toàn cầu đối với nền kinh tế Việt
Nam.“Nền kinh tế Việt Nam được "giải cứu" bởi gói kích thích trị giá 147.000 tỷ đồng (8,6 tỷ
USD). Tuy nhiên ngày 04/05/2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã công bố gói kích cầu 8 tỷ
USD thay vì 6 tỷ USD như công bố. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, đây là một quyết sách
nhậy bén và kịp thời của Chính phủ.
Theo đó, gói kích cầu tương đương 8 tỷ USD được chia thành 8 phần có các giá trị khác nhau.
Cụ thể các phần của gói kích cầu này bao gồm:
+Thứ nhất, hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng.
+Thứ hai, tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng.
+Thứ ba, ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án c
ấp bách khoảng 37.200 tỷ
đồng.
+Thứ tư, chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200 tỷ đồng.
+Thứ năm, phát hành thêm trái phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng.
+Thứ sáu, thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng.
+Thứ bảy, tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ đồng.
+Thứ tám, các khoản chi kích cầu khác nhằm ng
ăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã
hội khoảng 7.200 tỷ đồng.
-Việt Nam cũng đã sử dụng các công cụ chính sách truyền thống mạnh mẽ để giải quyết những
bất cân bằng kinh tế vĩ mô.
-Khi đối mặt với tình trạng phát triển nóng, Chính phủ Việt Nam đã cho thấy sự sẵn sàng thực
hiện các biện pháp cứng rắn để ổn định nền kinh t
ế. Những biện pháp này gồm cả việc thắt chặt
các chính sách tài khóa và tiền tệ, bất chấp phản ứng từ các doanh nghiệp trong nước. , Chính phủ
đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế
lạm phát là m
ục tiêu ưu tiên hàng đầu. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong
việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường - chính sách lãi suất thực
dương, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo
đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Kịp thời
phát hiện, xử lý các vi phạm theo
đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động ngân hàng
- Cùng với việc ổn định nền kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục các nỗ lực tự do hóa nền
kinh tế thay vì ngừng công cuộc cải tổ kinh tế thực hiện trong những năm gần đây như một số
người lo ngại.Bằng cách thực hiện những cam kết WTO của mình, Việt Nam đã cấp phép cho một
loạt chi nhánh địa phương của các ngân hàng nước ngoài. Trần sở hữu đối với một đối tác đơn
nước ngoài tại các ngân hàng cổ phần cũng đã được nâng lên 20%, cao hơn mức 15% trước đây.
Giới hạn sở hữu 49% đối với các doanh nghiệp nước ngoài tại các công ty nội địa trước đ
ây được
áp dụng cho các công ty đã niêm yết nay cũng được mở rộng tới cả các công ty không niêm yết.
Mức hạn chế 3% lao động nước ngoài làm việc tại các công ty trong nước cũng đã được dỡ bỏ.
- Việt Nam phát động phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” Mở rộng thị
trường nội địa là một chủ trương được tập trung chỉ đạo. Đã triển khai cuộc vận động “ng
ười Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Chính phủ đã bố trí ngân sách xúc tiến thương mại trên thị
trường nội địa.
- Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư
vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp; phấn đấu giảm
tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
- Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm 2008 từ
nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả, các công trình chưa thực
sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính triển khai nội dung này ngay trong
việc rà soát lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước, theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các
hạng mục đầu tư để cắ
t bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công
trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế
để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất, khẩn trương hoàn chỉnh các văn bản về đầu tư xây
dựng, kịp thời ban hành hướng dẫn xử lý các vướng mắc phát sinh để đẩy nhanh tiến độ giải ngân
các công trình sớm đưa vào khai thác phát huy hiệu quả, chủ trì việc nghiên cứu để chuyển một số
công trình đầu tư từ nguồn vốn ngân sách sang hình thức đầu tư BOT từ nguồn vốn trong và ngoài
nước hoặc bán, chuyển nhượng công trình có khả năng thu hồi vốn cho doanh nghiệp, tư nhân
khai thác hoặc đầu tư tiếp để nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các ngành,
trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong
sản xuất và đời sống vào chương trình cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh" trong năm 2008 và những năm tiếp theo. Năm 2008, ngoài việc tiết kiệm bình quân
10% chi phí hành chính (trừ tiền lương, phụ cấp lương, các khoản chi cho con người theo chế độ
quy định) của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua
sắm chưa thật cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất là đi lại bằng
máy bay); cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác nước ngoài bằng vốn ngân sách
hoặc có nguồn gốc ngân sách mà không thật thiết thực; tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để
hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu thi
đua, gây tốn kém, lãng phí.
-Đề ra 8 nhóm biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và
tăng trưởng b
ền vững:
+Nhóm giải pháp đầu tiên, mang tính mấu chốt mà Chính phủ đưa ra là thực hiện chính sách
tiền tệ chặt chẽ. Một trong những mục tiêu của nhóm giải pháp này, theo Nghị quyết, để giảm dần
lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Các hoạt động của ngân
hàng thương mại về huy động, cho vay, tín dụng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy
định.
+ Th
ứ hai, Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ, nâng
cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi phí hành chính.Các
hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ.
+Thứ ba, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân
đối cung cầu về hàng hóa. Muốn vậy, Chính phủ yêu cầu khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai,
dịch bệnh, tập trung phát triển trồng rau màu, chăn nuôi, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ hè
thu, tăng nguồn cung thực phẩm. Từ đó, giá cả lương thực, thực phẩm sẽ sớm được ổn định.
Chính phủ nhấn mạnh việc khắc phục tình trạng thiếu điện, bảo đảm điện cho sản xuất.
+Thứ tư, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập
siêu. Theo đó, Bộ Công Thương được giao phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
điều hành và kiểm soát để xuất khẩu gạo năm 2008 ở mức 3,5 - 4 triệu tấn. Bộ Tài chính cần điều
chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng
không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, rượu, bia nhưng vẫn đảm bảo phù hợp cam kết hội nhập.
+Thứ năm, Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên
liệu và năng lượng. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí
lưu thông. Từ đó, giả
i pháp triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng được triển khai
thành công.
+Thứ sáu, tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương
mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Các hành vi vi phạm pháp luật Nhà
nước về giá sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong
việc thực hiện yêu cầu này và chị
u trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ,
đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
+Thứ bảy, tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng
việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Điển hình là từ nay cho đến hết tháng 6/2008,
chưa tăng giá điện, than, xăng, dầu, giữ ổn đị
nh giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa
bệnh, vé máy bay, tàu hỏa, vé xe buýt, mức thu học phí, viện phí. Các biện pháp thích hợp tiếp
theo trên sẽ được đề ra tùy thuộc vào diễn biến của lạm phát. Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài
chính kiểm tra việc xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho đồng bào bị thiên tai, thiếu
đói.
+Thứ tám, thực hiện chính sách lãi suất thực dương là thực hiện lãi suất huy
động vốn nội tệ
của các ngân hàng thương mại ít ra phải bằng hoặc cao hơn chỉ số lạm phát. Mục tiêu trực tiếp của
chính sách lãi suất thực dương là duy trì khối lượng tiền tệ thích hợp trên thị trường, còn mục tiêu
cuối cùng là tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh phát triển ổn định.
>>> Chính nhờ những giải pháp và chủ trương đúng mà xuất khẩu tuy có giảm như
ng vẫn đạt
kim ngạch 65 tỉ USD, giảm 9,9% so với năm trước. Nhập siêu năm 2009 giảm còn 11 tỉ USD,
chiếm 16,5% kim nghạch xuất khẩu (năm 2008 là 18 tỉ USD chiếm 28,8%). Tình hình kinh tế vĩ
mô ổn định hơn, lạm phát được kiểm soát dưới 7% so với tháng 12- 2008, hệ thống tài chính, tín
dụng ổn định hơn, các doanh nghiệp đã duy trì được sản xuất ổn định hơn. Đặc biệt, nhờ quay lại
và phát triển thị trường nội địa của các doanh nghiệp mà tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ, sau
khi loại trừ yếu tố tăng giá đã tăng được hai con số và cao gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng của năm
trước, cao gấp hai lần tốc độ tăng trưởng GDP. Tiêu thụ trong nước đã trở thành động lực của tăng
trưởng kinh tế mà lâu nay các doanh nghiệp mải mê cho xuất khẩu, đã quên thị trường tiềm năng
với 86 triệu dân này.
Theo báo cáo triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2010 của Chính phủ, nước ta có thể đạt mức tăng trưởng kinh tế 6,5% trong năm nay.
Chính phủ cũng khẳng định có thể đảm bảo về cơ bản những mục tiêu kinh tế chủ chốt
như: kiềm chế lạm phát, ổn định mức thu - chi ngân sách nhà nước, xuất nhập khẩu và cán
cân thanh toán quốc tế Nhìn lại k
ết quả tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2010 cho thấy
có khá nhiều tín hiệu lạc quan cho việc hoàn thành các chỉ tiêu đã đặt ra. Cụ thể, tốc độ
tăng trưởng GDP riêng quý III đạt 7,18%; trước đó, GDP trong quý I/2010 tăng 5,83%,
quý II/2010 tăng 6,4%; Tính chung 9 tháng đầu năm đạt 6,52% so với cùng kỳ năm 2009.
V .BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Năm 2009 vừa qua,chúng ta đã ngăn chặn được suy giảm kinh tế và đạt tốc độ tăng trưởng
5,3%. Không những thế, chúng ta còn kiểm soát được lạm phát dưới hai con số : 6,8%. Các
chuyên gia kinh tế cho rằng, chúng ta đã thành công kép: vừa giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lý,
vừa kiểm soát được lạm phát.
Chính năm 2009 vừa qua, có nhiều nét đặc biệt và để lại nhiều bài học kinh nghiệ
m trong công
tác quản lý, điều hành kinh tế. Có lẽ cũng chính vì những thành quả mà Việt Nam đã đạt được
trong năm 2009 mà tại Diễn đàn kinh tế thế giới diễn ra ở Thụy Sĩ, tổng thổng nước chủ nhà đã
mời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng báo cáo về kinh nghiệm vượt qua khủng hoảng của Việt Nam
tại hội nghị.
- Bài học thứ nhất: Chúng ta đã biết điều chỉnh và lựa chọn mục tiêu ưu tiên bởi diễn biến tình
hình thay đổi thì mục tiêu cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
Với sự nhìn thẳng vào sự thật những yếu kém của nến kinh tế và là năm thứ 3 bước vào gia nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO và hiệu ứng phụ
của năm trước trong việc kiềm chế lạm phát,
lại được sự cộng hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới,
Chính phủ đã chuyển từ mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm tăng trưởng
kinh tế. Việc này thể hiện tính chủ động, kịp thời vượt trước ngăn chặn nhằm ổn đị
nh ở trong
nước để ứng phó với tác động bất ổn ở bên ngoài. Chính sự chủ động và kèm theo biện pháp cụ
thể mà chúng ta không bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng, không bị suy thoái, chỉ suy
giảm tốc độ tăng trưởng. Tức là vẫn giữ được tăng trưởng dương nhưng có suy giảm so với trước,
chứ không bị tốc độ tăng trưởng âm như các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Lại một sự điều chỉnh rất hợp lý khi quí 1 còn giữ được tăng trưởng tuy không cao nhưng do bắt
mạch được nền kinh tế nên Chính phủ trong quí 2 lại tiếp tục điều chỉnh mục tiêu từ mục tiêu
ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế, được bổ sung thêm nội dung : “duy trì và phục hồi tăng
trưởng kinh tế” . Và từ đầu tháng 12-2009, để ngăn chặn nguy cơ lạm phát cao tăng trở lại do
hàng loạt các biện pháp kích thích kinh tế như kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng, cho vay bù lãi
suất .v.v. thì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn tái lạm phát cao trở lại, lại được đề cao.
- Bài học thứ hai: Trong khi vượt qua khủng hoảng chúng ta đã lựa chọn giải pháp chủ yếu rất phù
hợp với mục tiêu ở từng thời điểm của nến kinh tế.
Mục tiêu ưu tiên đã chuyển từ kiếm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế,
nên biện pháp chủ yếu cũng được chuyển từ thắt chặt sang nới lỏng, linh hoạt, thận trọng tiền tệ -
tài khóa. Trong các giải pháp, đáng chú ý là hỗ trợ bù lãi suất 4%. Việc cấp bù lãi suất 4% có 4
điểm nổi bật: là cách làm riêng, có sáng tạo của Việt Nam, phù hợp với ngu
ồn lực có hạn chế của
Việt Nam, có nguồn vốn để doanh nghiệp tiếp cận được , có tác động lan tỏa để ngân hàng đưa
vốn ra thị trường. Nhờ bù lại suất 4% với nguồn vốn bù 17.000 tỉ đồng mà doanh số cho vay từ
các ngân hàng cho các doanh nghiệp đã lên con số trên 400.000 tỉ đồng. Khi các doanh nghiệp có
vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, việc làm cho người lao động được ổn định tạo đượ
c sự
đồng thuận cao trong toàn xã hội. Cũng chính vì vậy mà các chủ trưởng, giải pháp của Chính phủ
đưa ra đã có sự phối họp chặt chẽ cùng một hướng của các ngành, các cấp, sự đồng thuận giữa
Chính phủ, doanh nghiệp và dân chúng.
Trước đây, chúng ta tập trung các giải pháp chủ yếu lĩnh vực tiền tệ, đặt gánh nặng quá mức vào
lĩnh vực này, làm cho chính sách tiền tệ thắt quá chặt, thậm chí có lúc giật cục khó dự đoán, thì
năm 2009, chúng ta có sự phối hợp đồng bộ hơn với nhiều giải pháp về tài chính, giá cả, sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm .v.v. Nếu có vốn nhưng địa phương giải phóng mặt bằng chậm thì cũng không
giúp cho dự án triển khai thực hiện được. Nếu doanh nghiệp sản xuất nhưng không tiêu thụ được
thì hàng tồn kho, doanh nghiệp phải khốn đốn. Nghĩa là các giải pháp của Chính phủ đưa ra đã tạo
được sự đồng thuận cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, các cấp, làm cho sự vận hành của nền
kinh tế đồng bộ hơn và gặt hái được thành công.
- Bài học thứ ba: Sự kết hợp giữa nội lực trong nước và ngoại lực, trên cơ sở đề cao nội lực và
tranh thủ ngoại lực.
Như chúng ta đã thấy, khi suy giảm kinh tế toàn cầu thì cả thế giới đều khó khăn và mọi quốc
gia đều có các giả
i pháp để cứu nền kinh tế ở quốc gia mình. Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư
giảm tiếp FDI bị sụt giảm mạnh, nguồn vốn đầu tư trực tiếp rất khó khăn nhưng phải bằng mọi giá
tạo được nguồn vốn tiềm ẩn trong xã hội đưa vào sản xuất kinh doanh. Đối với tiêu thụ, xuất
khẩu chắc chắn sẽ
giảm do hàng rào kỹ thuật của các quốc gia thì phải mở rộng thêm thị trường
mới, đặc biệt là đẩy mạnh thị trường nội địa, vận động phong trào “người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam”. Khi có bất ổn ở bên ngoài tác động thì ổn định trong nước là yếu tố rất quan
trọng để duy trì hoạt động kinh tế xã hội bình thường.
Tuy nhiên,cuộc khủng khoảng tài chính - kinh tế vừa qua đã cho chúng ta th
ấy sự yếu kém,
bất cập của công tác giám sát, dự báo và cảnh báo về khả năng xảy ra khủng khoảng. Đồng thời
dự báo cũng có vai trò rất quan trọng trong hoạch định chính sách và bảo đảm tăng trưởng dài
hạn.
Tóm lại, sự điều hành và lèo lái con thuyền kinh tế của Chính phủ trong năm vừa qua là sự kết
hợp chặt chẽ giữa bàn tay hữu hình của Nhà nước và bàn tay vô hình của thị tr
ường, là sự nắm
bắt, dự báo đúng sự phát triển kinh tế trong điều kiện khủng hoảng để có các chính sách vĩ mô và
vi mô và đã gặt được những kết quả khả quan mà chúng ta đã thấy. Bước sang năm 2010 này thì
mục tiêu ngăn chặn lạm phát cao trở lại và tái cấu trúc kinh tế, tám nhóm giải pháp ở trên mà
Chính phủ đã triển khai, hi vọng tiếp tục sẽ gặt hái được những thành công.
VI. MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHÍNH.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009 phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế giới, đặc
biệt là các nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản, các n
ước EU, do đây là đối tác đầu tư và thương mại quan
trọng của Việt Nam trong thời gian qua. Mức độ suy giảm cũng như triển vọng phục hồi của các
nền kinh tế lớn trên thế giới sẽ là yếu tố quan trọng đến kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Kinh tế Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn trong năm 2008. Mặc dù lạm phát cao đã được
kiềm chế
nhưng tác động của nó đang làm tăng trưởng suy giảm mạnh và đà suy giảm này sẽ còn
tiếp diễn trong năm 2009. Bên cạnh đó, tác động sự suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ làm
giảm lượng vốn FDI và xuất khẩu của nước ta. Công nghiệp Việt Nam tháng 1 năm 2009 đã giảm
so với tháng trước là 8,6% và so với tháng cùng kỳ năm ngoái là 4,4%. Còn xuất khẩu giảm
24%. Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng. Thứ nhất, kim ngạch
xuất khẩu giảm do giá giảm và nhu cầu tại các thị trường truyền thống giảm. nhưng nhờ Việt Nam
đã đa dạng hoá cao thị trường xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn giữ
được năng lực
cạnh tranh nên tăng tốc độ xuất khẩu có khả năng đạt 11%. Thứ hai, việc thu hút vốn FDI giảm so
với năm 2008, nhưng vốn FDI đăng ký và thực hiện vẫn đạt mức tương đương các năm 2006 và
2007. Nhờ đó, tổng vốn đầu tư phát triển có thể đạt 768.000 tỷ đồng, tương đương 44 tỷ USD.
Ngoài ra, kịch bản này cũng giả thiết rằng các chính sách kích cầu, thúc đẩy tăng trưởng của
Chính phủ sẽ sớm được thực hiện và tác động tích cực.
GDP
91,76 tỉ USD (ước tính năm 2009)
Tăng GDP thực tế
+5,32 % (2009, ước sơ bộ, theo giá so sánh năm
1994)
GDP đầu người
1000 USD (ước tính năm 2009)
GDP(PPP)/người
2.900 USD (2008 ước tính)
GDP theo lĩnh vực
Nông nghiệp (22%), công nghiệp (39,9%), dịch vụ
(38,1%) (2008 ước)
Lạm phát
6,88 % (CPI, 2009, ước sơ bộ)
Lực lượng lao động
47,66 triệu (2009 ước tính)
Lao động theo nghề
Nông nghiệp (56,8 %), công nghiệp (37 %), dịch vụ
(6,2%) (2005 ước tính)
Thất nghiệp
6,5% (2009)
Ngành công nghiệp
chính
Dầu mỏ, sản xuất quần áo, giầy dép, xi măng, thép,
hóa chất, vật liệu xây dựng, than, chế biến thực
phẩm
Trao đổi thương mại
Xuất khẩu
61,6 tỉ USD (2008 ước)
Mặt hàng xuất
khẩu
Dầu thô
(23%), hàng dệt may (15 %), giầy dép
(9,3%), hải sản
(8,5%), điện tử máy tính (4,5%),
gạo
(4,3%), cao su (2,4%), cà phê (2,2%) (năm
2005).
Đối tác xuất khẩu
Hoa Kỳ
(20,9%), Nhật Bản (13,7%), Trung Quốc
(6,9%) Úc
(7,4%), Đức (4,5%) (năm 2008).
Nhập khẩu
77,61 tỉ USD (2008 ước)
Mặt hàng nhập
khẩu
Máy móc, thiết bị (14,2%), xăng dầu
(13,5%), thép
(8%), vải
(6,5%), nguyên phụ liệu dệt may da
(6,3%), điện tử máy tính (4,6%), phân bón (1,8%).
Đối tác nhập khẩu
Trung Quốc
(21,3%), Singapore (11,7%), Nhật
(10,4%), Hàn Quốc
(7,4%), Thái Lan (6,6%) (năm
2008)
Tài chính công
Nợ công
52,3 % GDP (2004)
Thu
21,89 tỉ USD (2009)
Chi
30,42 USD (2003)
Viện trợ
Nhận viện trợ, 2,8 tỷ USD (2004)
- GDP Việt Nam năm 2010 theo giá thực tế khoảng 102,2 tỷ USD.
Báo cáo được Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền trình bày trong phiên họp Quốc hội lần
thứ 8 kỳ họp thứ XII diễn ra tại Hà Nội sáng nay (20/10).
+ Trong 21 chỉ tiêu theo nghị quyết của Quốc hội, có 15 chỉ tiêu đạt và vượt so với kế hoạch
(GDP cả năm khả năng đạt 6,7%, cao hơn kế hoạch (6,5%), Tổng GDP theo giá thực tế n
ăm 2010
là khoảng 1.951,2 nghìn tỷ đồng, tương đương 102,2 tỷ USD.
+ Tuy nhiên, kinh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn
không ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định trong
những năm tiếp theo.
+ Nhập siêu tuy đạt mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu nhưng số tuyệt đối dự kiến vẫn là 13,5
tỷ USD, tă
ng 5% so với năm 2009, nếu loại trừ đá quý, kim loại quý xuất khẩu thì nhập siêu vẫn
trên 23%.
Chỉ số giá tiêu dùng cả năm dự kiến được kiểm soát dưới 8% nhưng diễn biến không ổn định
trong năm, mức tăng bình quân CPI theo tháng của quý I là 1,35%, trong đó tháng 2 tăng tới
1,96% so với tháng 1, đến quý II còn 0,21%/tháng, quý III tăng bình quân 0,53%/tháng, nhưng
tháng 9 tăng tới 1,31% so với tháng 8, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tác động x
ấu đến tâm lý của người dân và khó khăn cho các cơ quan hoạch định và điều
hành chính sách.
Các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh do tác
động bởi một số chính sách cụ thể. Lãi suất vay ngân hàng trong Quý I/2010 lên tới 17-18%/năm,
đến tháng 8/2010 vẫn phổ biến ở mức trên 13%/năm. (Theo một khảo sát của Phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam quý II năm 2010, 65% số doanh nghiệp được hỏi cho biết h
ọ phải vay ở
mức lãi suất từ 12-13% trở lên, 36% thấy không thể chịu được mức lãi vay này trong lâu dài)
-Các mục tiêu tổng quát năm 2011:
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, Chính phủ dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 (GDP)
tăng khoảng 7-7,5%; CPI tăng khoảng 7%; nhập siêu dự kiến 19,5% kim ngạch xuất khẩu, tương
đương 14,6 tỷ USD (Ủy ban Kinh tế yêu cầu nhập siêu không được vượ
t năm 2010, đạt khoảng
13,5 tỷ USD, bằng 18% kim ngạch xuất khẩu).
Về thâm hụt ngân sách nhà nước, Chính phủ đề xuất khoảng 5,5% GDP (125.100 tỷ đồng), Ủy
ban Kinh tế đề xuất không quá 5%.
Theo Ủy ban Kinh tế, nợ công đang có xu hướng tăng nhanh, năm 2009 là 52,6% GDP, năm 2010
khoảng 56,7% GDP (vẫn ở trong ngưỡng an toàn). Vượt thu ngân sách năm 2010 dự kiến là
58.600 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương là 35.600 tỷ đồng. Ủy ban Kinh tế cho rằng, nếu
bổ sung một phần số vượt thu ngân sách trung ương năm 2010 cho ngân sách năm 2011 để bù vào
bội chi thì mức bội chi ngân sách năm 2011 sẽ ở mức không quá 5% GDP.
Ước tính đến hết năm 2010, nợ công khoảng 56,7% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ bằng 44,5%
GDP (bao gồm cả trái phiếu Chính phủ) đang tiến dần đến ngưỡng an toàn cho phép. Vì vậy, cần
ki
ểm soát vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và giảm phát hành trái phiếu Chính phủ (vốn trái
phiếu Chính phủ năm 2010 tăng 47,8% so với năm 2009) để tránh làm vấn đề nợ công trở nên
trầm trọng hơn.
- Ủy ban Kinh tế tán thành với dự kiến huy động vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 152
nghìn tỷ đồng, giảm 15,5%; vốn trái phiếu Chính phủ 45 nghìn tỷ đồng, giảm 34% so với ước
thực hi
ện năm 2010.
Tóm lại, mặc dù bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhưng khả năng tăng trưởng
của kinh tế Việt Nam vẫn khả quan do cả những yếu tố khách quan và nội lực chủ quan.
Nguồn thông tin:
1.
WWW.VNEXPRESS.COM.VN
2.
WWW.VNECONOMY.COM.VN
3.
WWW.CHINHPHU .VN