Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

đề cương môn học xây dựng đảng có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.79 KB, 45 trang )

1
Câu 1: “Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành của giai cấp
công nhân, nhân dân lao
động của dân tộc” (điều lệ
ĐCS Việt Nam, NXB CTQG
1996, tr4). Đ/c hãy phân tích
khẳng định trên của đảng về
giai cấp công nhân. Ý nghĩa
của vấn đề đối với phương
hướng gìn giữ và tăng
cường bản chất giai cấp
công nhân của đảng trong
giai đoạn cách mạng hiện
nay.
Tại sao Đảng mang bản
chất giai cấp công nhân
Vận dụng của Đảng cộng
sản Việt Nam : 6 phương
hướng giữ gìn bản chất giai
cấp con người của Đảng
cộng sản Việt Nam
Ý nghĩa thực tiễn
Bài làm

Chúng ta biết rằng, ĐCS
là chính đảng của giai cấp
công nhân, ĐCS ra đời gắn
liền với vai trò vị trí và sứ


mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp công nhân. Về bản
chất mà nói từ chính đảng
cũng là của một tổ chức
chính đảng mang tính chất
giai cấp rõ rệt không có
chính đảng phi giai cấp, siêu
giai cấp không có tính đảng
của toàn dân.
Trên thế giới, ĐCS ra đời
là kết quả của sự kết hợp
CN Mác-lênin với phong
trào công nhân. Riêng với
điều kiện Việt Nam đảng ra
đời là sự kết hợp CN Mác-
lênin + phong trào công
nhân + phong trào yêu
nước.
Điều lệ ĐCS Việt Nam
nêu: “đảng viên ĐCS Việt
Nam là chiến sĩ cách mạng
trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam
suốt đời phấn đấu cho lợi
ích của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lên
trên lợi ích cá nhân. Chấp
hành nghiêm chỉnh cương
lĩnh ctrị, diều lệ đảng, các
nghị quyết của đảng và

pháp luật của Nhà nước, có
lao động không bốc lột,
hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, có đạo đức và lối
sống lành mạnh gắn bó mật
thiết với nhân dân, phục
tùng tổ chức kỷ luật của
đảng, giữ gìn đoàn kết
thống nhất trong đảng …
Từ ngày thành lập ĐCS
đến nay, đảng ta luôn xác
định là đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam, là đội
tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu có tổ chức và là
tổ chức cao nhất của công
nhân Việt Nam. Quá trình
xây dựng đảng, đảng ta luôn
phấn đấu không ngừng
nâng cao bản chất giai cấp
công nhân của đảng.
Khẳng định đảng là của
giai cấp công nhân có ý
nghĩa là khẳng định lập
trường của giai cấp công
nhân, giai cấp gắn liền với
sản xuất đại công nghiệp,
tiêu biểu cho xu thế phát
triển của thời đại. Giai cấp
công nhân có hệ tư tưởng là

CN Mác-lênin, vì đấy là lý
luận tiên phong, vũ khí tư
tưởng sắc bén trong cuộc
đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp công nhân, giai cấp
phong kiến và giai cấp tư
sản.
Lênin chỉ rằng: “chỉ có
đảng nào có được lý luận
tiên phong hướng dẫn thì
mnơ1i có khả năng làm tròn
vai trò người chiến sĩ tiên
phong” cho nên, khẳng định
lập trường của đảng ta là
lập trường của giai cấp công
nhân cũng có nghĩa khẳng
định là lập trường của CN
Mác-lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng, kim
chỉ nam cho mọi hành động
của đảng.
Đảng là một bộ phận của
giai cấp nhưng phải phân
biệt đảng với giai cấp , theo
lênin: “đảng là đội tiên
phong chính trị, là đội ngũ
có t/chức, t/chức chặt chẽ
nhất, có giác ngộ nhất, đảng
người đủ yếu tố tự giác nhất
vào phong trào công nhân,

là người xác định hướng
chính trị và là người giáo
dục động viên, t/chức cho
giai cấp hành động cách
mạng” – lênin chỉ rằng:
“không đảng lẫn lộn đảng
tức là đội tiên phong của
giai cấp công nhân với toàn
bộ giai cấp…”
* Sự khẳng định đấy
của đảng về bản chất của
giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là
giai cấp của những người
lao động sản xuất ra của cải
vật chất trong lĩnh vực công
nghiệp với trình độ kỹ thuật
đại công nghiệp ngày càng
hiện đại. Sản phẩm thặng
dư do họ làm ra là nguồn
gốc chủ yếu cho sự giàu có
và phát triển của xã hội.
Sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân: ‘ thủ tiêu
chế độ tư bản và tiền TBCN,
xóa bỏ áp bức bóc lột, giải
phóng mình đồng thời giải
phóng nhân loại…, đó là nội
dung cơ bản, bao trùm của
sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân Việt Nam.
Những đặc điểm chính trị
- xã hội của giai cấp công
nhân:
+ Giai cấp công nhân là
giai cấp tiên tiến nhất, có
tính tổ chức, kỷ luật cao.
+ Giai cấp công nhân là
giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để. Tính triệt để
cách mạng của giai cấp
công nhân thể hiện rõ nét ở
chỗ nó được vũ trang bởi hệ
tư tưởng tiên tiến là học
thuyết Mác – lênin, được đội
ngũ tiên phong của nó là
ĐCS lãnh đạo.
+ Giai cấp công nhân là
giai cấp có bản chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt
Nam :
Giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời từ những năm
đầu của thế kỷ XX, nhưng
sớm trở thành lực lượng
chính trị – xã hội độc lập,
thống nhất cả về tư tưởng
và tổ chức, do đó sớm giữ
được vị trí lảnh đạo cuộc
đấu tranh kiên cường bất

khuất của nhân dân Việt
Nam. Được như vậy là do
giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời từ một nước thuộc địa
½ pk, bị ba tầng bóc lột và
kế thừa truyền thống đấu
tranh kiên cường bất khuất
của dân tộc, giai cấp công
nhân Việt Nam sớm thành
2
lập được chính đảng của
mình để lãnh đạo sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp. Giai
cấp công nhân Việt Nam
gắn bó mật thiết với phát
triển đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới.
Để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, giai cấp
công nhân tự tổ chức ra
chính đảng của mình.
Ngay từ khi ra đời, giai
cấp công nhân đã tiến hành
các cuộc đấu tranh chống lại
sự áp bức bóc lột của giai
cấp tư sản.
Cuộc đấu tranh đã trải
qua giai đoạn từ thấp đến

cao, phát triển nhảy vọt về
chất, từ tự phát lên tự giác,
là sự thâm nhập chủ nghĩa
Mác vào phong trào công
nhân.
Ơû nước ta, sự ra đời
chính đảng của giai cấp
công nhân là sản phẩm kết
hợp CN Mác-lênin với
phong trào công nhân và
phong trào yêu nước chân
chính.
Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH của đảng ta xác
định: ĐCS Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc.
Đảng lấy CN Mác-lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản.
Là đội tiên phong chính
trị của giai cấp công nhân và
của toàn xã hội, đảng có

nhiệm vụ vận dụng sáng tạo
CN Mác-lênin, phân tích
đúng đắn hoàn cảnh lịch sử
cụ thể trong mỗi giai đoạn
lịch sử cách mạng, đề ra
mục tiêu, phương hướng,
đường lối, chính sách đúng,
phù hợp với yêu cầu phát
triển khách quan của đất
nước. Đồng thời giáo dục, tổ
chức, lãnh đạo giai cấp
công nhân và toàn thể nhân
dân thực hiện công cuộc
xóa bỏ chế độ xã hội cũ, xây
dựng thành công chế độ xã
hội mới – chế độ xã hội chủ
nghĩa, tiến lên cộng sản chủ
nghĩa.
Đảm nhận vai trò đội tiên
phong chính trị của giai cấp
công nhân và của toàn xã hội,
ĐCS Việt Nam đã thể hiện vai
trò lãnh đạo, tinh thần phụ
trách trước giai cấp và dân tộc
khi thắng lợi cũng như lúc khó
khăn, khi thành công cũng như
lúc sai lầm, khuyết điểm.
Đảng luôn giữ được bản
chất giai cấp, dù trong tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”

* Bản chất giai cấp công
nhân của đảng: CN Mác-lênin
chỉ rõ sự ra đời của ĐCS là kết
quả của sự kết hợp CNCSKH
với phong trào công nhân (tư
tưởng Hồ Chí Minh đưa thêm
yếu tố phong trào yêu nước
trên lập trường giai cấp công
nhân).
Một mặt ĐCS hình thành
trên cơ sở giai cấp công nhân,
phong trào công nhân nhằm
đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Đây là mặt
thứ nhất chứng minh bản chất
giai cấp công nhân của đảng.
Mặt khác, đảng hình thành
nhờ tiếp thu lý luận CNCSKH
và truyền bá lý luận đó vào
phong trào CN Mác-lênin. Đây
là mặt thứ hai chứng minh bản
chất giai cấp công nhân của
đảng.
Bản chất công nhân của
đảng không phải chỉ quyết
định bởi những yếu tố hình
thành nên đảng mà nó còn
quyết định (và đây là điều
quan trọng hơn) ở chỗ trong
quá trình cách mạng đảng

luôn
2
đứng vững trên lập
trường quan điểm của giai cấp
công nhân đề ra cương lĩnh,
đường lối chính trị đúng đắn.
Trong tổ chức và hoạt động,
đảng luôn giữ vững vị trí hạt
nhân lãnh đạo đối với phong
trào cách mạng, luôn gắn bó
với quần chúng nhân dân và
có thái độ đúng đắn trước
những sai lầm khuyết điểm.
* Tính tiên phong của
đảng :
CN Mác-lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh chỉ rõ đảng phải
tiên phong về lý luận và “chỉ
có đảng nào có lý luận tiên
phong hướng dẫn mới có thể
làm tròn vai trò người chiến sĩ
tiên phong” – (Lênin). “đảng
muốn vững phải có CN Mác-
lênin làm cốt” – (Hồ Chí Minh).
Cơ sở lý luận của đảng là
CNCSKH. Tiên phong về lý
luận đòi hỏi đảng phải nắm
vững bản chất cách mạng và
khoa học của lý luận để “phân
tích cụ thể một tình hình cụ

thể”. Đảng phải nhận thức
đúng đắn rằng lý luận
CNCSKH không phải là cái bất
khả xâm phạm mà “ chỉ coi đó
như là những nền tảng giúp ta
về mặt phương pháp” –
(Lênin) và “như bản chỉ nam
giúp ta về phương hướng” –
(Hồ Chí Minh).
Chỉ tiên phong về lý luận
chưa đủ, đảng phải tiên
phong về mặt tổ chức. Tổ
chức lỏng lẻo, tư tưởng sẽ hỗn
loạn. Tính tổ chức của đảng
thể hiện ngay trong điều kiện
gia nhập đảng và đòi hỏi sự
giác ngộ về tổ chức. Cán bộ
đảng viên phải sinh hoạt trong
một tổ chức của đảng, phải
bằng hành động có tổ chức để
chiến đấu cho nhiệm vụ của
đảng, phải chấp hành mọi
nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt của đảng (như nguyên
tắc tập trung dân chủ, chấp
hành kỷ luật sắt của đảng).
Tiên phong về mặt tổ chức
khẳng định đảng là hình thức
tổ chức cao nhất, là tổ chức
“cầm quyền” đối với xã hội.

Đồng thời phê phán mọi biểu
hiện đòi “tính độc lập” , “tính
tập trung”, “tính bình đẳng” để
tách ra khỏi sự lãnh đạo của
đảng. CN Mác-lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng đảng
phải tiên phong về hành động
vì “tính đảng không chỉ thể
hiện ở lời nói mà còn ở việc
làm” – (Lênin) cho nên “đảng
phải đi trước để làng nước
theo sau” – (Hồ Chí Minh).
Tiên phong về hành động,
không chấp nhận cán bộ, đảng
viên “hữu danh vô thực”,
nhưng “đảng viên trung bình”
vì thực chất họ không phải là
đảng viên.
* Mối quan hệ bản chất
giai cấp và tính tiên phong:
3
Trước hết xét mối quan hệ
giữa đảng và giai cấp, đảng
viên giai cấp có chung lợi ích,
lập tường, quan điểm. Nhưng
đảng không phải là toàn bộ
giai cấp, đảng là bộ phận ưu
tú, là đội tiên phong của giai
cấp. Do đó:
- Bản chất giai cấp quyết

định tính tiên phong của
đảng.
- Tính tiên phong là biểu
hiện cao nhất của bản chất
giai cấp.
Nói cách khác là chỉ khi nào
có lập trường giai cấp cao mới
có những hành động tiên
phong cao và khi tính tiên
phong cao càng làm cho lập
trường giai cấp cao hơn, vững
chắc hơn.
* Phương hướng gìn giữ
bản chất giai cấp công nhân
của đảng trong giai đoạn
hiện nay là:
- Kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH trong quá
trình đổi mới.
- Kiên định CN Mác-lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, là kim
chỉ nam cho hành động của
đảng và của cách mạng
nước ta.
- Giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức
và sinh hoạt đảng .
- Thường xuyên giáo dục,
bồi dưỡng lập trường, quan

điểm, ý thức tổ chức của giai
cấp công nhân, xây dựng đội
ngũ cán bộ và đảng viên theo
quan điểm của giai cấp công
nhân.
- Củng cố mqh mật thiết với
nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân.
- Trung thành với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công
nhân, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
* Về ý nghĩa :
Học thuyết Mác – Lênin và
chính đảng cách mạng của
giai cấp công nhân cũng như
toàn bộ CN Mác-lênin với
thuộc tính cách mạng và khoa
học của nó đòi hỏi các đảng
cách mạng của giai cấp công
nhân phải xuất phát từ điều
kiện cụ thể của dân tộc, giai
cấp, từ thực tiễn chính trị và xã
hội của đất nước mình và vận
dụng một cách sáng tạo, đúng
đắn. Kinh nghiệm của nhiều

nước đông âu và liên xô vừa
qua cũng đã chứng minh quan
điểm của đảng ta rằng: mọi
thành công hay thất bại của
cách mạng vô sản đểu bắt
nguồn trước hết từ vấn đề
đảng, là sự lãnh đạo của đảng.
Bất cứ nơi nào, vào lúc nào,
đảng vận dụng nó một cách
giáo điều, vi phạm nguyên lý
về đảng của giai cấp công
nhân thì trước sau cũng phạm
sai lầm, đội ngũ đảng chia rẽ,
mất uy tín trước quần chúng,
có thể đưa cách mạng đến
thất bại nặng nề.
ĐCS Việt Nam do chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện đã trải qua nhiều thử
thách, trở thành một đảng Mác
– lênin kiên cường, trưởng
thành về chính trị, vững váng
trước những biến cố khó khăn
của lịch sử trong nước và thế
giới. Đó là thành công giữa
học thuyết máclênin và đảng
được vận dụng sáng tạo về
việc xây dựng một chính đảng
cách mạng của giai cấp công
nhân trong một nước có một

nền kinh tế chậm phát triển
vốn là xã hội thuộc địa ½ pk.
Hiện nay trên thế giới, bọn
cơ hội xét lại và giai cấp tư bản
đang tìm mọi cách xuyên tạc
nhằm phủ nhận học thuyết
Máclênin và đảng, vì vậy việc
nghiên cứu thực chất nguyên
lý của học thuyết Mlênin về
đảng có ý nghĩa to lớn giúp
chúng ta những cơ sở lý luận
quán triệt và vận dụng sáng
tạo đường lối chính sách xây
dựng đảng ngày càng vững
mạnh, xứng đáng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, người
lãnh đạo duy nhất của giai cấp
công nhân và nhân dân lao
động Việt Nam vượt qua khó
khăn, xây dựng thành công
CNXH.
Trong phong trào cộng
sản quốc tế từ trước đến
nay, cuộc đấu tranh giữa
những người cộng sản chân
chính với các trào lưu cơ hội
trên lĩnh vực xây dựng đảng
đều xoay quanh vấn đề bản
chất giai cấp của đảng. Về

mặt nhận thức, có hiểu đúng
đắn bản chất giai cấp công
nhân và tính tiên phong của
đảng mới hiểu đúng các vấn
đề khác của xây dựng đảng,
như tập trung dân chủ, đoàn
kết thống nhất… trong hoạt
động thực tiễn có hiểu và
nắng vững chắc bản chất
giai cấp, tính tiên phong mới
có thể tiến hành xây dựng
đảng về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và mới khắc phục
những chiều hướng sai lầm
hoặc là mơ hồ lập trường
giai cấp, hoặc là chủ nghĩa
thành phần dẫn đến chia rẽ
đảng với dân tộc. Điều này
cáng có ý nghĩa quan trong
đối với ĐCS Việt Nam vì
90% đảng viên xuất thân từ
nông dân, tiểu tư sản.
4
Câu 01: “Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân
tộc”(Điều lệ Đảng Cộng Sản

Việt Nam, Nxb
CTQGHN,1996, Tr3). Đồng
chí hãy phân tích sự khẳng
định đó của Đảng. Ý nghĩa
thực tiễn của vấn đề (bản
chất giai cấp công nhân) đối
với phương hướng giữ gìn,
tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.
Liên hệ thực tế địa phương,
đơn vị.
BÀI LÀM

1.Từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta luôn khẳng
định bản chất giai cấp công
nhân của mình. Đây là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu trong công tác xây
dựng Đảng, được quán triệt
trong toàn bộ Điều lệ Đảng,
chi phối toàn bộ nội dung
xây dựng Đảng về chính trị,
tư tưởng và tổ chức. Điều lệ
Đảng hiện nay chỉ rõ: “Đảng
là đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân,

nhân dân lao động và của
cả dân tộc”. Điều đó có
nghĩa, Đảng Cộng Sản Việt
Nam đứng vững trên lập
trường, quan điểm của giai
cấp công nhân, quyết tâm
phấn đấu thực hiện mục
đích của Đảng là xây dựng
nước Việt Nam độc lập, dân
chủ, giàu mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, xây dựng
thanh công chủ nghĩa xã hội
và cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản. Mục tiêu đó bảo
đảm lợi ích của giai cấp
công nhân đồng thời cũng
thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động, của cả
dân tộc. Đảng tập hợp, đoàn
kết toàn dân tạo nên sức
mạnh tổng hợp thực hiện
các nhiệm vụ, mục tiêu của
cách mạng.
Xác định bản chất giai
cấp công nhân của Đảng,
Đảng ta xuất phát từ nhận
thức khoa học về vai trò và
sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân: Đó là giai
cấp hình thành, phát triển

cùng với đại công nghiệp,
đại biểu cho phương thức
sản xuất mới tiến bộ, có tinh
thần cách mạng triệt để và
tính tổ chức cao. Giai cấp
công nhân có hệ tư tưởng
khoa học và cách mạng, cơ
sở lý luận tiên tiến hướng
dẫn, đó là Chủ nghĩa Mác-
Lênin. Là giai cấp bị giai cấp
tư sản bóc lột nặng nề nên
có điều kiện liên minh với
giai cấp nông dân và quần
chúng lao động để xóa bỏ
chủ nghĩa tư bản, xây dựng
xã hội mới không có áp bức,
bóc lột. Đó là chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp
công nhân là vấn đề cơ bản,
bao trùm, có tính nguyên tắc
đối với tất cả các Đảng Mác
xít- Lênin nít chân chính.
Điều đó càng đặc biệt quan
trọng đối với nước ta - một
Đảng ra đời và trưởng thành
ở 1 nước nông nghiệp lạc
hậu, công nghiệp chưa phát
triển, giai cấp công nhân

còn nhỏ bé, Đảng viên xuất
thân từ công nhân không
nhiều. Hiện nay, Đảng ta lại
đang hoạt động trong điều
kiện phát triển kinh tế nhiều
thành phần, áp dụng cơ chế
thị trường, mở cửa, môi
trường xã hội có nhiều phức
tạp; cán bộ, Đảng viên giữ
nhiều trọng trách, hàng ngày
hàng giờ tiếp xúc với hàng
và tiền, đối mặt với chủ
nghĩa tư bản. Vì vậy, cần
phải chăm lo giữ vững bản
chất giai cấp công nhân và
tính tiên phong của Đảng.
Nếu không nhân thức sâu
sắc điều này dễ mơ hồ và
Đảng không tích cực rèn
luyện thì rất dễ bị biến chất.
Vấn đề giữ cho Đảng không
biến chất, trước sau đều là
Đảng cộng sản, Đảng cách
mạng chân chính, Đảng
hoạt động vì sự nghiệp của
giai cấp, của dân tộc, vì lợi
ích của nhân dân, là vấn đề
hết sức cơ bản và quyết
định. Đại hội VIII của được
coi “Đây là nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu đối với Đảng
ta lúc này”. Vả chăng, đây
không phải là ý muốn chủ
quan hoặc là điều chúng ta
cường điệu. Bởi vì ai cũng
biết bất kỳ 1 Đảng chính trị
nào cũng là sản phẩm của
đấu tranh giai cấp và mang
bản chất của 1 giai cấp nhất
định. Dù tổ chức chặt chẽ
hay lỏng lẻo, hoạt động
cách mạng hay nghị trường
(ở 1 số nước tư bản)…,
Đảng nào cũng đứng trên
lập trường của 1 giai cấp
nhất định, không như thế
không phải là 1 chính đảng.
Nói bản chất giai cấp
công nhân là nói bản chất
cách mạng và khoa học, ý
chí kiên định và trì tuệ tiên
phong, đạo đức vị tha và ý
thức tổ chức kỷ luật chặt
chẽ,…của giai cấp công
nhân- hơn nữa, của giai cấp
công nhân hiện đại, giai cấp
công nhân đang được trí
thức hóa. Bản chất giai cấp
công nhân của được thấm
sâu vào tất cả các mặt chính

trị, tư tưởng và tổ chức, tức
là cả trong đường lối chính
trị, nền tảng tư tưởng,
nguyên tắc tổ chức và mọi
hoạt động của Đảng.
Nói về bản chất giai
cấp của Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Đảng
Cộng Sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân,
mang bản chất giai cấp công
nhân, “Đảng là đội tiền
phong của giai cấp vô sản”,
là “đội quân tiên phong của
đạo quân vô sản”, là “Đảng
của giai cấp vô sản”. Đảng
phải tập hợp được trong
hàng ngũ của mình những
người trong giai cấp công
nhân, thủ công nghiệp, nông
dân nghèo, binh lính…miễn
là những người đó “tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương
trình Đảng và Quốc tế Cộng
sản, hăng hái đấu tranh và
dám hy sinh, phục tùng
mệnh lệnh Đảng và đóng
kinh phí, chịu phấn đấu
trong 1 bộ phận Đảng”(Hồ
Chí Minh toàn tập, T3, Nxb

CTQG, HN, 1995, Tr3-5).
Người cho rằng lực lượng
mà Đảng cần phải tập hợp
để tiến hành cách mạng
5
trước hết là giai cấp công
nhân, kế đến là “đa số quần
chúng nông dân”, “dựa vững
chắc vào hạng dân cày
nghèo”, đồng thời lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, lợi dụng và lôi kéo
phú nông, tư sản bậc trung,
trung và tiểu địa chủ. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Đảng Cộng
Sản Việt Nam tổ chức ra để
lãnh đạo quần chúng lao
khổ làm giai cấp đấu tranh
để tiêu trừ tư bản đế quốc
chủ nghĩa, làm cho thực
hiện xã hội cộng sản”(Hồ
Chí Minh toàn tập, T3, Nxb
CTQG, HN, 1995, Tr1-5).
Những luận điểm đó của Hồ
Chí Minh cho thấy, ngay từ
khi tuyên bố thành lập Đảng
Cộng Sản Việt Nam, Người
đã xác định rõ bản chất giai
cấp của Đảng là bản chất
giai cấp công nhân, Đảng

Cộng Sản Việt Nam trước
hết là Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Hồ Chí
Minh cũng đã chỉ rõ: “…
quyền lợi của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động
và của dân tộc là 1. chính vì
Đảng Lao Động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động,
cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam” (Hồ Chí
Minh toàn tập, T6, Nxb
CTQG, HN, 1995, Tr175).
Hồ Chí Minh cũng cho rằng:
“Đảng không phải là 1 tổ
chức để làm quan, phát tài.
Nó phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho
Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng” (Hồ Chí
Minh toàn tập, T5, Nxb
CTQG, HN, 1995, Tr294),
Đảng bao giờ cũng là “đội
tiên phong dũng cảm và bộ
tham mưu sáng suốt của
giai cấp vô sản, của nhân
dân lao động và của cả dân
tộc” (Hồ Chí Minh toàn tập,
T11, Nxb CTQG, HN, 1995,

Tr493-494), luôn “phấn đấu
hy sinh vì lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân, của
giai cấp vô sản, chứ không
vì lợi ích nào khác” (Hồ Chí
Minh toàn tập, T11, Nxb
CTQG, HN, 1995, Tr374).
Giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng trước
hết có nghĩa là Đảng phải
kiên định quan điểm, lập
trường của giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành
với lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc; phấn đấu
cho mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Dù tình
hình trong nước và thế giới
khó khăn, phức tạp đến đâu,
Đảng cũng không chao đảo,
dao động, xa rời mục tiêu, lý
tưởng đó.
Đảng lấy Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Trong tình hình
hiện nay, phải kiên định Chủ

nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; vận
dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta để
hoàn chỉnh cương lĩnh,
đường lối; và từ thực tiễn
mà tổng kết, khái quát, bổ
sung, phát triển, làm phong
phú thêm học thuyết cách
mạng và khoa học đó- vũ
khí tinh thần của giai cấp
công nhân có giác ngộ cách
mạng.
Bản chất giai cấp
công nhân đòi hỏi Đảng phải
được tổ chức chặt chẽ và
hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thường xuyên tự phê bình
và phê bình, giữ gìn đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Mọi sự chia rẽ, bè phái,
buông lỏng kỷ luật đều trái
với bản chất giai cấp công
nhân.
Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân và dân
tộc, lãnh đạo xây dựng và
làm nòng cốt trong khối đại

đoàn kết toàn dân. Bản chất
giai cấp công nhân không
tương dung với chủ nghĩa
phường hội, cục bộ, bản vị,
phân tán. Trái lại nó đòi hỏi
phải có tư tưởng thống nhất,
hành động thống nhất, kết
hợp hài hòa các lợi ich cá
nhân và tập thể, bộ phận và
toàn cục.
Đảng kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công
nhân; kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đồng thời tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Như vậy, bản chất
giai cấp công nhân không
đối lập với tinh thần dân tộc;
trái lại, nó quyện chắt,
nhuần nhuyễn với tính dân
tộc. Nói theo nghĩa nào đó,
trong bản chất giai cấp công
nhân đã bao hàm tính dân
tộc; và ngược lại, khi nói
đến tính dân tộc trong thời
đại hiện nay khi có Đảng
cộng sản lãnh đạo đã bao

hàm tính giai cấp công
nhân. Ở hoàn cảnh cụ thể
của nước ta, giai cấp công
nhân có quan hệ máu thịt
với giai cấp nông dân và
toàn thể dân tộc; lợi ích của
giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của nhân
dân lao động và của toàn
dân tộc; sự nghiệp của
được cũng là sự nghiệp của
dân tộc, cho nên tính giai
cấp gắn bó chặt chẽ với tính
nhân dân, tính dân tộc.
Đảng chẳng những đại biểu
cho lợi ích của giai cấp mà
còn đại biểu cho lợi ích của
nhân dân lao động và của
cả dân tộc. Và trên thực tế
Đảng đã phấn đấu hy sinh vì
lợi ích của giai cấp, của
nhân dân và dân tộc. Được
chẳng những thường xuyên
giữ vững và nâng cao bản
chất giai cấp công nhân mà
còn chú ý học tập, tiếp thu,
phát triển tinh hoa và truyền
thống dân tộc, giữ gìn và
phát huy bản sắc Việt Nam.
chính truyền thống dân tộc

đã nhân lên sức mạnh của
Đảng. Đảng thực tế đã trở
thành lãnh tụ của cả dân
tộc. Sức mạnh của Đảng là
ở sự kết hợp nhuần nhuyễn
hệ tư tưởng tiên tiến của
giai cấp công nhân với khí
phách, bản lĩnh, tinh hoa
truyền thống dân tộc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh- người
sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện Đảng ta- là sự thể
hiện đến mức tuyệt vời sự
thống nhất giữa lợi ích giai
cấp với lợi ích dân tộc, giữa
chủ nghĩa yêu nước và chủ
6
nghĩa xã hội. người chẳng
những là lãnh tụ tối cao của
Đảng mà còn là lãnh tụ tối
cao của dân tộc. Và như vậy
cũng có thể nói rằng, Đảng
ta chẳng những là đội tiên
phong chính trị của giai cấp
công nhân, mang bản chất
cách mạng và khoa học của
giai cấp công nhân, mà còn
là đội tiên phong lãnh đạo
của cả dân tộc, mang trong
mình dòng máu và những

phẩm chất tốt đẹp của dân
tộc. Đảng phải ra sức phấn
đấu để không ngừng nâng
cao và ngày càng đạt đến
sự nhuần nhuyễn tính chất
giai cấp công nhân với tinh
hoa truyền thống dân tộc
làm thành bản chất đặc sắc
của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
2. Trên cơ sở nắm
vững những quan điểm
chung về bản chất của
Đảng, các cấp ủy và tổ
chức Đảng cần vận dụng
vào các công việc cụ thể
trong công tác xây dựng
Đảng. Từ việc định ra chủ
trương, chính sách đến việc
giáo dục, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên; từ việc thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc
tổ chức sinh hoạt Đảng đến
việc thực hiện chính sách
đoàn kết dân tộc, mở rộng
và tăng cường quan hệ
quốc tế…. Tất cả đều phải
thấm nhuần và quán triệt
sâu sắc quan điểm giai cấp

công nhân và truyền thống
tốt đẹp của dân tộc.
Ở nước ta, giai cấp
công nhân tuy số lượng còn
nhỏ bé nhưng giai cấp công
nhân Việt Nam và chính
đảng của nó vẫn luôn đứng
vững trên lập trường cách
mạng, giữ vững bản chất
giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động,
phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của nhân
loại, nắm vững quy luật
khách quan, xu thế của thời
đại và thực tiễn nước ta để
đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn. Ví vậy, đảng ta đã
giữ vững vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. thực
tiễn lịch sử hơn 70 năm qua
đã chứng minh điều đó. Tuy
vậy, giai cấp công nhân Việt
Nam và Đảng của mình
cũng thấy rõ những điểm
yếu và hạn chế về nhiều
mặt. Việc khắc phục những

yếu kém, nhược điểm cũng
như việc tăng cường tỷ lệ
giai cấp công nhân trong
Đảng sẽ góp phần tăng
cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, bảo
đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng trong thời kỳ phát triển
mới- thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để giữ vững và
tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng
trong thời kỳ mới, Điều lệ
Đảng và VK ĐHĐBTQ lần
thứ VIII của Đảng chỉ rõ:
- Kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. trong bất kỳ
tình huống nào cũng không
dao động, xa rời mục tiêu
đó.
- Kiên định và vận
dụng sáng tạo, góp hần phát
triển Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất
phát đầy đủ từ thực tiễn cụ
thể của nước ta để đề ra
đường lối, chủ trương và
các chính sách đúng đắn.

- Giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thường
xuyên tự phê bình và phê
bình, giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
- Thường xuyên
giáo dục, bồi dưỡng lập
trường, quan điểm, ý thức tổ
chức của giai cấp công
nhân; xây dựng đội ngũ cán
bộ và Đảng viên theo quan
điểm của giai cấp công
nhân.
- Củng cố mối
quan hệ gắn bó mật thiết với
nhân dân, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân.
Chăm lo đời sống, thực sự
phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
- Kết hợp chặt chẽ
chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp
công nhân. Kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của cách

mạng.
Tóm lại: Bản chất
giai cấp công nhân của
Đảng thể hiện trước hết và
chủ yếu là thế giới quan, hệ
tư tưởng, cương lĩnh,
đường lối chính trị, nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng. Bản chất giai cấp
công nhân của Đảng bao
gồm đầy đủ 06 nội dung nêu
trên còn số lượng giai cấp
công nhân trong Đảng chỉ
đóng vai trò quan trọng chứ
không quyết định bản chất
giai cấp công nhân của
Đảng.
Liên hệ thực tế:
7
Câu 2: “ĐCS Việt Nam tổ
chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ” (điều lệ ĐCS Việt
Nam - NXB CTQG 1996-tr15).
Đ/c hãy phân tích khẳng định
trên của Đảng. Để thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ
hiện nay cần làm gì?
Bài làm

Tập trung dân chủ là nguyên

tắc cơ bản về xây dựng tổ chức
và hoạt động của Đảng. Nguyên
tắc tập trung dân chủ nhằm bảo
đảm sự thống nhất ý chí và hành
động, tạo nên sức mạnh vô địch
của Đảng cách mạng. Đây là
nguyên tắc để phân biệt chính
Đảng của giai cấp công nhân,
Đảng cách mạng chân chính với
các Đảng phái khác, là điểm mà
mọi thế lực chống đối thường
công kích và phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng. Một trong những
nguyên nhân sụp đổ của chế độ
XHCN ở Liên Xô và Đông Aâu là
do xa rời nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Tập trung dân chủ vốn có
trong bản chất của giai cấp
công nhân đại công nghiệp. Vì
giai cấp công nhân là giai cấp
tiên tiến và tiêu biểu cho lực
lượng sản xuất XH hóa nhất trí
về quyền lợi lại được rèn luyện
trong nền sản xuất công
nghiệp, có tính tập thể và kỷ
luật cao. Đó là đặc tính vốn có
của giai cấp vô sản.
Nguyên tắc tập trung dân
chủ xuất phát từ bản chất của

ĐCS. ĐCS Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nông dân lao động
và của cả dân tộc. Muốn làm
tròn vai trò là đội tiên phong
chính trị, Đảng phải tập trung
theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Đó là yêu cầu đòi hỏi yếu
tố khách quan của lịch sử chứ
không phải do chủ quan của
những người sáng lập ra ĐCS
áp đặt.
Tư tưởng về xây dựng
Đảng theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, đã được Mác và ăng
ghen là những người đầu tiên
nêu lên và được ghi vào “điều
lệ của liên đoàn những người
cộng sản” điều lệ hội liên hiệp
công nhân quốc tế. Hai ông
nêu rõ chế độ tập trung được
trong Đảng và mqh tập trung
và dân chủ.
Sau khi Mác và Ăngghen qua
đời. Lênin kế thừa tập trung của
Mác và ăng ghen xây dựng nên
học thuyết về Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân. Chính tập
trung của lênin về nguyên tắc tổ
chức của ĐCS đã đặt nền móng

cho việc xây dựng ĐCS Nga, sau
đó đã được các ĐCS quốc tế
thừa nhận. Lênin cho rằng điều
kiện gia nhập quốc tế cộng sản là
các Đảng phải tổ chức theo
nguyên tắc nguyên tắc tập trung
dân chủ. Lê nin nhấn mạnh: “sức
mạnh về chính trị tập trung của
Đảng, được tổ chức và thông qua
tổ chức”, “sức mạnh của giai cấp
công nhân là ở tổ chức, không có
tổ chức quần chúng, giai cấp vô
sản sẽ không là cái gì hết. Được
tổ chức, giai cấp vô sản sẽ là tất
cả” (Lênin TT, NXB Maccova tập
14, tr163). Người nói, không có sự
phục tùng của tiểu số đối với đa
số thì không thể có tổ chức mà
không có dân chủ thì không có sự
thống nhất. Giai cấp vô sản chỉ có
một chế độ tập trung tuyệt đối và
kỷ luật hết sức nghiêm minh, đó là
một trong những điều kiện để
chiến thắng, thống nhất hành
động, tự do thảo luận, phê bình đó
là quy định của ĐCS. Tự do đó
phải được đặt trong khuôn khổ
của giai cấp vô sản, nghĩa là phải
đúng lúc đúng nơi.
ĐCS Việt Nam dưới sự lãnh

đạo, sáng lập và rèn luyện của
chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngy từ
những chính cương, sách lược
vắn tắt, điều lệ vắn tắt đã khẳng
định Đảng ta dân chủ hành động
theo nguyện tắc tập trung dân
chủ, CT Hồ Chí Minh luôn dặn
chúng ta rằng: “dân chủ phải gắn
liền với tập trung, kiên quyết thực
hành kỷ luật. Từng điều kiện cụ
thể ở mỗi nơi mà lúc thì Người
nhắc nhở tập trung phải dân chủ
hay nói khác thì dân chủ phải tập
trung, không nên nhấn mạnh yếu
tố nào. Cần uốn nắn lệch lạc cả
hai phía, tập trung quan liêu hoặc
dân chủ cực đoan.
Đảng ta cho rằng thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ là
vấn đề quyết định bảo đảm cho
sức mạnh thống nhất của Đảng.
Xa rời nguyên tắc tập trung dân
chủ là tự phá hoại sức mạnh về
dân chủ của Đảng, kẻ địch đang
muốn và kích động chúng ta làm
điều đó. Hiện nay có những ý kiến
cho rằng: tập trung dân chủ không
còn phù hợp nữa. Trong cơ chế
thị trường của xã hội hiện nay, nó
chỉ phù hợp trong xã hội trước

đây. Tập trung dân chủ có thể dẫn
đến độc đoàn chuyên quyền, gia
trưởng. Do vậy phải tìm ra nguyên
nhân khách quan hay chủ quan
mà khắc phục sử chửa những sai
lầm đó.
Song đương nhiên để thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ, phải nhận thức đúng và
8
thống nhất nội dung, bàn chất của
tập trung dân chủ và mqh biện
chứng giữa hai mặt tập trung và
dân chủ; đồng thời phải cụ thể
hóa thành quy chế, quy trình cụ
thể không chỉ là trong việc dân
chủ thảo luận và quyết định trong
công tác cán bộ.
Nộu dung cơ bản nguyên tắc
tập trung dân chủ của ĐCS Việt
Nam được ghi rõ tại điều chính
chương II Điều lệ ĐCS Việt Nam.
“ĐH ĐB toàn quốc lần IX của
Đảng” ĐCS Việt Nam tổ chức
theo nước ta tập trung dân chủ
theo những nguyên tắc cơ bản đó
là:
Cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng do bầu cử lập ra.
Cơ quan lãnh đạo các cấp của

Đảng thực hiện theo nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách.
BCH Đảng bộ các cấp báo
cáo và chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình trước ĐH cùng
cấp, trước BCH Đảng bộ cấp trên
và cấp dưới, định kỳ thông báo
tình hình hoạt động của mình đến
các t/chức Đảng trực thuộc, thực
hiện nghiêm túc chế độ tự phê
bình và phê bình.
Nghị quyết của Đảng phải
được chấp hành nghiêm chỉnh.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phải phục tùng cấp trên, cá
nhân phục tùng t/chức, các t/chức
toàn Đảng phục tùng ĐH đại biểu
toàn quốc và BCH Trung ương.
Nghị quyết của cơ quan lãnh
đạo của Đảng phải được biểu
quyết với sự tán thành của trên
một nửa số thành viên trong cơ
quan đó. Trước khi biểu quyết các
đảng viên được phát biểu ý kiến
của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về tiểu số được quyền bảo
lưu và báo cáo lên cấp ủy trên cho
đến đại hội đại biểu toàn quốc,
song phải chấp hành nghiêm

chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết
của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó, nếu
thấy thực tiễn chứng minh là đúng
thì tiếp thu. Tổ chức Đảng không
được phân biệt đối xử với đảng
viên có ý kiến thuộc về tiểu số.
Tổ chức cấp dưới được quyền
quyết định các vấn đề thuộc về
phạm vi, quyền hạn của mình,
song không được trái với đường
lối chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của
cấp trên.
Tập trung dân chủ thể hiện sự
thống nhất hài hòa và biện chứng
giữa hai mặt tập trung và dân chủ
trong một sự việc, một hiện
tượng. Sự thống hất này không
phải do chủ quan áp đặt mà là do
yêu cầu nhiệm vụ lịch sử đặt ra
cho Đảng.
Tập trung trên cơ sở dân chủ
trong Đảng được thể hiện ở tính
tự giác của toàn thể đảng viên.
Tính tập trung trong Đảng đòi hỏi
Đảng phải có cương lĩnh, đường
lối, mục tiêu cách mạng thống
nhất, được mọi tổ chức Đảng và

đảng viên tuân thủ và thực hiện,
toàn dân hướng vào phấn đấu.
Đảng phải có điều lệ thống nhất -
Điều lệ chính là bộ luật của toàn
Đảng mà mọi tổ chức Đảng và
đảng viên phải chấp hành vô điều
kiện (cả về mặt nhận thức và
chấp hành)
Tập trung trong Đảng còn đòi
hỏi Đảng phải có một cơ quan
lãnh đạo thống nhất. Phải có kỷ
luật thống nhất mà mọi tổ chức
Đảng, đảng viên không phân biệt
đều phải chấp hành nghiêm túc
kỷ luật của Đảng, không có những
đặc quyền đặc lợi.
Dân chủ là cơ sở của tập trung
và càng phát huy được mạnh mẽ
trí sáng tạo, tự giác của mọi đảng
viên tham gia vào công việc của
Đảng đồng thời phải có lãnh đạo
và có kỹ luật kỷ cương. Do vậy
dân chủ trong Đảng, tất cả mọi
công việc của đều phải được toàn
thể đảng viên bình đẳng như
nhau về quyền lợi và lợi ích. Đảng
viên có thể trực tiếp hoặc thông
qua đại biểu để thể hiện ý kiến
của mình.
Tất cả những người có trách

nhiệm trong Đảng và t/cả các cơ
quan lãnh đạo của Đảng đề do
dân chủ bầu cử mà lập nên, đều
có trách nhiệm thực hiện và báo
cáo trước tổ chức đã bầu ra mình
và họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc
nào nếu không xứng đáng và
không hoàn thành nhiệm vụ tổ
chức giao.
Quá trình phát triển của Đảng
gắn liền với việc Đảng kiên trì và
từng bước cụ thể hóa, thể chế
hóa nguyên tắc tập trung dân chủ.
Khi chưa cầm quyền, do điều
kiện hoàn cảnh khó khăn phức
tạp song Đảng ta luôn nhắc nhở,
nếu có điều kiện thì phải thực hiện
tập trung dân chủ.
Khi đã cầm quyền thì nguyên
tắc tập trung dân chủ được thể
hiện trong tiêu chuẩn sinh hoạt
Đảng, chế độ bầu cử, báo cáo
thảo luận, quyết định các vấn đề,
nguyên tắc tập trung dân chủ trở
thành phương tiện quan trong
nhất để nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng,
Đảng ta không đối lập dân chủ với
tập trung mà phát huy dân chủ nội
bộ để trở thành phương tiện củng

cố kỷ luật, tự giác của cán bộ
đảng viên nâng cao sự lãnh đạo
tập trung của Đảng, song cũng
cần phải tránh khuynh hướng dân
chủ tự do mức dẫn đến mất định
hướng, tự do vô chính phủ và
cũng không nên tuyết đối hóa tập
trung dẫn đến quan liêu chuyên
quyền độc đoán xa rời quần
chúng, thực hiện đường lối chủ
trương của Đảng không đúng nội
dung tinh thần.
Thực tiễn cho thấy, việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng có lúc còn nặng về tập
trung, chưa coi trọng và phát huy
dân chủ. Có lúc có nơi còn vi
phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ, vẫn còn tình tạng quan liêu,
độc đoán thiếu dân chủ hoặc dân
chủ hình thức, chưa phát huy
được tích cực chủ động sáng tạo
của đảng viên và dân chủ trong
Đảng. Những hiện tượng vô
được, vô kỷ luật, truyền bá ý kiến
đối với quan điểm, đường lối của
Đảng, vi phạm điều lệ Đảng và
pháp luật của Nhà nước đã diễn
ra ở một số cán bộ, không ít cấp
ủy thiếu tôn trọng trong việc phát

huy quyền làm chủ của nhân dân,
của đảng viên, ít chịu lắng nghe ý
kiến cấp dưới. Việc giáo dục, kiểm
tra của cấp ủy còn qua loa chiếu
lệ.
Do vậy trước tình hình trên
cần phải có nhận thức đúng đắn,
thống nhất về yêu cầu nội dung
dân chủ và nguyên tắc tập trung
dân chủ đồng thời có cơ chế bảo
đảm thực hiện nội dung đó, song
phải có tinh thần đấu tranh khách
quan (vừa qua Đảng ta có chỉ thị
29, 30 đề cập vấn đề này)
Đặc biệt hiện nay trước yêu
cầu nhiệm vụ đổi mới đòi hỏi
Đảng ta phải thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc dân chủ và sinh hoạt
Đảng. Hội nghị Trung ương 6 lần
2 khóa 8 đã nhấn mạnh đến chấn
chỉnh việc thực hiện nguyên tắc t
dân chủ chế độ tự phê bình và
phê bình trong Đảng.
Trước hết cần nâng cao nhận
thức trong Đảng về nguyên tắc
tập trung dân chủ. Coi đó là
nguyên tắc cơ bản trong dân chủ
và sinh hoạt Đảng, đảm bảo sự
thống nhất ý chí và hành động của
9

Đảng, giữ gìn bản chất giai cấp
công nhân và tính tiên phong của
Đảng.
Giữ vững và cải tiến nội dung
chế độ sinh hoạt định kỳ của các
tổ chức Đảng, thực hiện tốt
nguyên tắc quyền của đảng viên
trong thảo luận được trao đổi một
cách thẳng thắn, quyền được phê
bình chất vấn trong phạm vi tổ
chức. Đảng viên có quyền được
thông tin, quyền được bảo lưu ý
kiến của mình.
Thực hiện nghiêm túc chế độ
báo cáo phê và tự phê bình, chịu
sự giám sát của tổ chức Đảng,
cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Cụ thể hóa nguyên tắc lãnh
đạo tập thể, cá nhân phụ trách,
chế độ trách nhiệm của người
đứng đầu.
Kịp thời bổ sung, điều chỉnh
chủ trưởng chính sách, là tốt công
tác cán bộ, kịp thời thay đổi những
cán bộ không đảm đương được
nhiệm vụ, kiện toàn cấp ủy, sửa
đổi phong cách làm việc. Phải
công khai tài chính, công khai các
ý kiến khác nhau về vấn đề xử lý
kỷ luật.

Xây dựng và thực hiện nề nếp
chế độ tự phê bình và phê bình
trong nội bộ Đảng. Xây dựng quy
chế nội dung đóng góp xây dựng
Đảng.
Củng cố sự đoàn kết thống
nhất trong nội bộ Đảng, gắng tự
phê bình và phê bình với xử lý
cán bộ, cấp ủy đã xảy ra mất
đoàn kết.
Tăng cường công tác kiểm tra
giám sát của cấp ủy, tổ chức
Đảng, nâng cao vai trò trách
nhiệm quyền hạn của ủy ban kiểm
tra các cấp, kết hợp chặt chẽ với
cơ quan thanh tra Nhà nước và
của giai cấp công nhân.
Rõ ràng ý nghĩa to lớn và bài
học quan trọng trong điều kiện
Đảng nắm chính quyền là chẳng
những phải phát huy mạnh mẽ
dân chủ, mở rộng dân chủ mà
đồng thời còn phải kết hợp chặt
chẽ hai mặt tập trung và được để
thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Liên hệ địa phương, chi bộ cơ
quan ra quy chế làm việc cụ thể,
trên cơ sở đó mà lãnh đạo tốt việc
thực hiện, theo đó mà tạo điều

kiện cho từng cán bộ, đảng viên
mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi phát
hiện ra những sáng kiến hay để
đóng góp vào xây dựng địa
phương, đơn vị mình vững
mạnh, đối với cấp ủy, thường
xuyên hoặc định kỳ (theo quy
định) gặp gỡ trao đổi với cán bộ,
đảng viên, quần chúng, chú ý lắng
nghe ý kiến nguyện vọng của mọi
người. Từ đó tiếp thu phản ánh và
giải quyết kịp thời vướng mắc,
đáp ứng được đòi hỏi của cán bộ,
đảng viên trong đơn vị, thực hiện
tốt chế độ lãnh đạo tập thể, cá
nhân phụ trách, phân công nhiệm
vụ rõ ràng cho từng thành viên.
Chi bộ thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Liên hệ và kết luận.
10
Câu 02: “Đảng Cộng Sản Việt
Nam tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ”. Đồng chí
hãy phân tích sự khẳng định
đó.
BÀI LÀM
1.Tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản về xây
dựng tổ chức và hoạt động của

Đảng. Nguyên tắc tập trung
dân chủ nhằm đảm bảo sự
thống nhất ý chí và hành động,
tạo nên sứch mạnh vô địch của
Đảng cách mạng. Đây là
nguyên tắc để phân biệt chính
Đảng của giai cấp công nhân,
Đảng cách mạng chân chính
với các Đảng phái khác, là
điểm mà mọi thế lực chống đối
thường công kích và phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng.
2.Tập trung dân chủ là
tất yếu khách quan:
Tập trung dân chủ vốn có
từ trong bản chất giai cấp công
nhân đại công nghiệp. Vì giai
cấp công nhân là giai cấp tiên
tiến nhất, tiêu biểu cho lực
lượng sản xuất xã hội hóa nhất
trí về quyền lợi, lại được rèn
luyện trong nền sản xuất công
nghiệp, có tính tập thể và kỷ
luật cao. Đó là đặc tính vốn có
của giai cấp vô sản. Tập trung
dân chủ phản ánh tính bản
chất của giai cấp vô sản.
Nguyên tắc tập trung dân
chủ xuất phát từ bản chất của
Đảng cộng sản. Đảng Cộng

Sản Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Muốn làm tròn
vai trò là đội tiên phong chính
trị, Đảng phải tập trung theo
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đ1o là yêu cầu đòi hỏi khách
quan của lịch sử chứ không
phải do chủ quan của những
người sáng lập ra Đảng cộng
sản áp đặt.
3.Quan điểm của Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về tập trung dân
chủ.
Tư tưởng về xây dựng
Đảng theo nguyên tắc tập trung
dân chủ đã được Mác và
Ănghen là người đầu tiên nêu
lên và được ghi vào “Điều lệ
của liên đoàn những người
cộng sản”, “Điều lệ hội liên hiệp
công nhân quốc tế”. Hai ông
cho rằng: Đảng phải là 1 tổ
chức tập trung chặt chẽ. Các
cơ quan lãnh đạo của Đảng
phải được bầu 1 cách dân chủ,
họ sẽ bị bãi miễn bất kỳ lúc nào
nếu họ không hoàn thành

nhiệm vụ được giao. Đảng phải
là 1 khối thống nhất về chính
trị, tư tưởng và hành động.
Sau khi Mác và Ănghen
qua đời, Lênin kế thừa tư
tưởng của Mác và Aênghen,
xây dựng nên học thuyết về
Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. Lênin cho rằng tổ
chức chỉ trở thành hiện thực và
có ích cho cuộc sống khi nó có
các nguyên tắc để liên kết
thống nhất và điều khiển hành
vi của các thành viên. Ông
cũng cho rằng: Đảng phải là 1
đội ngũ có tổ chức, và là tổ
chức chặt chẽ của giai cấp
công nhân, Đảng phải là 1 khối
thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Từ những tư tưởng nêu
trên đòi hỏi Đảng phải thực
hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng và hoạt
động của Đảng. Đồng thời phải
bảo đảm phát huy sáng kiến và
tính tích cực của mọi tổ chức
Đảng và Đảng viên.
Hồ Chí Minh- người sáng
lập, giáo dục, rèn luyện Đảng

ta đã vận dụng sáng tạo học
thuyết về xây dựng Đảng của
giai cấp công nhân, của Chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Người
quán triệt đầy đủ nguyên tắc
xây dựng Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân vào việc
xây dựng Đảng ta. Đảng Cộng
Sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ,
Đảng là khối thống nhất ý chí
và hành động. Điều lệ Đảng
1930: Đảng cộng sản Đông
dương và các chi bộ phải lấy
nguyên tắc tập trung dân chủ
làm nguyên tắc xây dựng và tổ
chức sinh hoạt. Người chỉ rõ
rằng dân chủ phải đi đôi với với
tập trung, phải kiên quyết thực
hành kỷ luật. Người căn dặn
Đảng ta phải chống tập trung
quan liêu, độc đoán, đồng thời
chống dân chủ hình thức,
chống mọi biểu hiện phân tán
cục bộ, hẹp hòi, bè phái, tự do
vô kỷ luật.
4. Bản chất, nội dung
cơ bản của nguyên tắc tập
trung dân chủ của Đảng ta.

- Bản chất:
+Tập trung ở trong Đảng:
Đảng phải có cương lĩnh,
đường lối, điều lệ thống nhất.
Đảng phải có cơ quan
lãnh đạo thống nhất đó là đại
hội đại biểu toàn quốc, giữa 2
kỳ đại hội là BCH TW do đại
hội bầu ra.
Về mặt tổ chức, Đảng
phải thống nhất về quy mô và
hình thức tổ chức của Đảng.
Đảng phải có kỷ luật
thống nhất, bắt buộc mọi tổ
chức Đảng, Đảng viên phải
chấp hành không có ngoại lệ
đối với Đảng viên và mọi tổ
chức Đảng.
+ Dân chủ ở trong Đảng:
Toàn thể Đảng viên đều
bình quyền, đều được trực tiếp
hoặc thông qua đại biểu để
thực hiện quyền của mình
trong tham gia vào mọi công
việc của Đảng.
Tất cả các cơ quan lãnh
đạo và những người có trách
nhiệm trong Đảng đều do dân
chủ bầu cử mà lập nên và họ
có thể bị bãi miễn nếu không

hoàn thành nhiệm vụ hoặc
không xứng đáng.
-Quán triệt Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguyên tắc tập trung
dân chủ, chương II điều 09
Điều lệ Đảng ta ghi rõ: “Đảng
cộng sản Việt Nam tổ chức
theo nguyên tắc tập trung dân
chủ”(trang 130 Điều lệ Đảng
Cộng Sản Việt Nam, 1991). Nội
dung cơ bản của nguyên tắc
tập trung dân chủ được quy
định thành 06 nội dung cơ bản
như sau:
Cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng đều do bầu cử
lập ra.
Cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng thực hiện
nguyên tắc lãnh đạo tập thể- cá
nhân phụ trách.
Ban chấp hành Đảng bộ
các cấp báo cáo và chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước
ban chấp hành Đảng bộ cấp
trên và cấp dưới, định kỳ thông
báo tình hình hoạt động của
mình đến các tổ chức Đảng

trực thuộc, thực hiện nghiêm
túc chế độ tự phê bình và phê
bình.
11
Nghị quyết của Đảng
phải được chấp hành nghiêm
chỉnh. Thiểu số phục tùng đa
số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các tổ chức toàn Đảng
phục tùng đại hội đại biểu toàn
quốc và BCH TW.
Nghị quyết của cơ quan
lãnh đạo của Đảng phải được
biểu quyết với sự tán thành của
trên 1 nửa số thành viên trong
cơ quan đó. Trước khi biểu
quyết các Đảng viên được phát
biểu ý kiến của mình. Đảng
viên có ý kiến thuộc về thiểu số
được quyền bảo lưu và báo
cáo lên cấp ủy cấp trên cho
đến đại hội đại biểu toàn quốc,
song phải chấp hành nghiêm
chỉnh Nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với Nghị
quyết của Đảng. Cấp ủy có
thẩm quyền nghiên cứu, xem
xét ý kiến đó, nếu thấy thực
tiễn chứng minh là đúng thì tiếp

thu. Tổ chức Đảng không được
phân biệt đối xử với Đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số.
Tổ chức cấp dưới được
quyền quyết định các vấn đề
thuộc phạm vi, quyền hạn của
mình, song không được trái với
đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước
và Nghị quyết của cấp trên.
5.Tập trung dân chủ là
sự thống nhất biện chứng
giữa 2 mặt tập trung và dân
chủ. Nó tạo thành 1 chỉnh
thể thống nhất trong 1
nguyên tắc. Thể hiện: tập
trung, dân chủ là 2 mặt có mối
quan hệ biện chứng không
tách rời nhau. Hai mặt tập
trung, dân chủ tuy mâu thuẩn
nhưng lại bổ sung cho nhau,
thống nhất nhau. Dân chủ là
điều kiện, là tiền đề cho tập
trung, còn tập trung là cơ sở, là
điều kiện bảo đảm cho dân chủ
được thực hiện 1 cách triệt để.
Giữa 2 mặt tập trung và dân
chủ phải được coi trọng như
nhau, không được xem nhẹ
mặt nào, không nên tuyệt đối

hóa 1 mặt nào đều dẫn đến sai
lầm nguy hiểm, có hại cho sự
lãnh đạo của Đảng, càng
không thể đối lập giữa tập
trung và dân chủ vì trong tập
trung chân chính nó đã chứa
đựng yếu tố dân chủ và trong
dân chủ chân chính nó đã
chứa đựng yếu tố tập trung.
6.Thực tế vận dụng
nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng Đảng
qua các thời kỳ cách mạng
của Đảng ta, có lúc, có nơi có
những biểu hiện thiên lệch về
phía tập trung quan liêu, thống
nhất cứng nhắc, dẫn đến vi
phạm dân chủ trong Đảng.
Biểu hiện sai lầm: gia trưởng,
độc đoán, sùng bái cá nhân, cá
nhân trùm lên tập thể. Trong
kinh tế thì nhấn mạnh 1 chiều,
tập trung thống nhất, coi nhẹ
dân chủ, nhân mạnh tính kế
hoạch, coi nhẹ thị trường, nhân
mạnh quan hệ dọc, coi nhẹ
quan hệ ngang, do đó không
phát huy được tính đa dạng,
phong phú, tính sáng tạo của
các hành phần kinh tế, ở 1 số

nước xã hội chủ nghĩa chú ý
phê phán nhiều về tập trung
quan liêu, lại rơi vào 1 trạng
thái phủ nhận hoặc hạ thấp
tính tập trung thống nhất, đề
cao 1 chiều tự do dân chủ, dẫn
đến sự hỗn loạn, vô chính phủ,
không kiểm soát được. Đây là
sai lầm hữu khuynh mà nhiều
người cho đó là “đổi mới”. Ta
cần đấu tranh phê phán những
quan điểm sai trái nói trên.
7. Thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong
giai đoạn hiện nay (từ 1986
đến nay).
Trong giai đoạn hiện nay,
nguyên tắc tập trung dân chủ
càng phải được thực hiện một
cách nghiêm túc trong các cơ
quan Đảng và bộ máy Nhà
nước. trong những năm qua,
Đảng ta có nhiều chuyển biến
tích cực trong việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chúng ta vẫn giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo cá nhân phụ trách, có
tiến bộ về thực hiện dân chủ
trong xã hội, phát huy trí tuệ

tập thể và sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân.
Nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng
ở các cấp đã có không khí thảo
luận cởi mở, thẳng thắn hơn….
Các cấp ủy Đảng thực hiện
đúng chế độ hàng năm kiểm
điểm công tác tự phê bình và
phê bình. Đã kiểm tra, phát
hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm
kỷ luật Đảng và pháp luật của
Nhà nước. bảo đảm sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng….
Song, bên cạnh đó vẫn
bộc lộ những mặt tiêu cực:
Trong nhận thức và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ
chưa tốt, có những chỗ sai
phạm, 1 số cán bộ và cấp ủy
chưa tôn trọng và thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ (tách rời 2 mặt hoặc nhấn
mạnh 1 mặt tập trung hoặc dân
chủ…). Tình trạng phổ biến
hiện nay là dân chủ vẫn còn
mang tính hình thức, không ít
nới tập thể chỉ là “bình phong”
hợp thức hóa ý kiến người
đứng đầu. Trong sinh hoạt của
nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng

chuẩn bị không chu đáo, thảo
luận qua loa, Nghị quyết không
cụ thể, không tạo sự thống
nhất cao trong nhận thức và
hành động. Dân chủ không đi
đôi với kỷ luật dẫn đến tình
trạng kỷ cương lỏng lẻo, nói và
làm tùy tiện, chấp hành kỷ luật
của Đảng, Nhà nước không
nghiêm, có tình trạng vi phạm
dân chủ như tán phát tờ rơi,
thư nặc danh, mạo danh, đưa
tin đồn…để nói xấu, đả kích,
làm mất uy tín, gây nghi ngờ,
chia rẽ nôi bộ…
Nguyên nhân của tình
hình trên là :
Do chưa có sự thống
nhất cao trong nhận thức về
nguyên tắc tập trung dân chủ,
không ít cán bộ hiểu tách rời 2
mặt hoặc nhấn mạnh 1 chiếu
tập trung hoặc dân chủ và trên
thực tế thực hiện nguyên tắc
này còn nhiều đơn giản.
Do công tác nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn về
nguyên tắc tập trung dân chủ
chưa được đặt ra đúng mức và
thiếu những quyết định cụ thể

phù hợp với từng lĩnh vực,
từng ngành, từng cấp, từng
nơi.
Nguyên nhân sâu xa này
1 mặt là do ảnh hưởng từ nền
sản xuất nhỏ phân tán, mặt
khác trãi qua thời kỳ lâu dài
quen với tập trung quan liêu
bao cấp đã làm cho 1 số can
bộ Đảng viên quen ỷ lại cấp
trên, quen chấp hành những
hành động mang tính hình
thức.
Do chủ nghĩa cá nhân
thực dụng, ít kỷ, vụ lợi phát
triển, trong khi đó công tác
kiểm tra của chúng ta không
thường xuyên nên đã ảnh
hưởng không tốt đến việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình
trong Đảng….
8. Một số giải pháp
nhằm thực hiện nghiêm
12
chỉnh nguyên tắc tập trung
dân chủ.
- Cần phải nâng cao
nhận thức đúng đắn, thống
nhất về yêu cầu và nội dung

của nguyên tắc tập trung dân
chủ.
- Phải thể chế hóa, cụ
thể hóa nguyên tắc thành
những điều lệ, cơ chế, quy
định để bảo đảm quyền làm
chủ của Đảng viên và trách
nhiệm của cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng.
+ Trước hết phải bảo
đảm thực hiện các quyền của
Đảng viên, nhất là quyền được
thảo luận 1 cách thẳng thắn
các vấn đề về đường lối, chính
sách của Đảng, quyền được
phê bình chất vấn trong phạm
vi tổ chức, về hoạt động của tổ
chức Đảng và Đảng viên ở mọi
cấp, Đảng viên có quyền được
thông tin, được quyền bảo lưu
ý kiến của mình. Những quy
định trên tạo điều kiện khắc
phục tình trạng cấp ủy viên vi
phạm quyền của Đảng viên,
còn Đảng viên thì thụ động tiêu
cực.
+ Đối với cơ quan lãnh
đạo của Đảng từ TW đến cơ
sở phải chấp hành nghiêm
chỉnh chế độ báo cáo, chế độ

tự phê bình và phê bình. Các
cơ uan được bầu phải chịu sự
giám sát của tổ chức và Đảng
viên, phải báo cáo hoạt động
trước cơ quan đã bầu ra mình,
thường xuyên thông báo tình
hình và hoạt động của mình
đến các tổ chức Đảng cấp
dưới và Đảng viên, quy định
thời gian tiến hành tự phê bình
và phê bình, tổ chức để quần
chúng phê bình và bỏ phiếu tín
nhiệm cán bộ, Đảng viên từ cơ
quan cao nhất đến tổ chức cơ
sở, xử lý nghiêm khắc những
người có thái độ trấn áp, trù
dập, phê bình hoặc lợi dụng
phê bình để đả kích, vu cáo
người khác, gây chia rẽ mất
đoàn kết.
- Để tăng cường vai trò
kiểm tra, giám sát của tổ chức
Đảng đối với hoạt động của
cấp ủy, cần kịp thời bổ sung,
điều chỉnh chủ trương, chính
sách thay thế những cán bộ
không đảm đương nhiệm vụ
nhằm kiện toàn cấp ủy không
chờ hết nhiệm kỳ.
+ Nâng cao vai trò trách

nhiệm và quyền hạn của ủy
ban kiểm tra các cấp, ủy ban
kiểm tra có chức năng kiểm tra
việc thực hiện các nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt Đảng,
kiểm tra việc chấp hành quy
chế làm việc của tổ chức Đảng
cấp dưới, kiểm tra việc giữ gìn
phẩm chất đạo đức cách mạng
của Đảng viên, xem xét và xử
lý kỷ luật các tổ chức Đảng và
Đảng viên theo đúng Điều lệ
Đảng. Phối hợp chặt chẽ với
thanh tra Nhà nước và công
tác kiểm tra giám sát của các
tổ chức quần chúng và toàn
thể nhân dân.
+Trong công tác cán bộ,
cần quy định cụ thể tiêu chuẩn
cho từng chức danh cán bộ.
Việc giới thiệu người để bầu
vào cấp ủy phải được tiến hành
từ cơ sở. Bổ nhiệm cán bộ phải
hỏi ý kiến của cơ sở và lấy
phiếu tín nhiệm từ cơ sở. Việc
đánh gia cán bộ nhất thiết phải
hỏi ý kiến cấp quản lý cán bô,
hỏi ý kiến quần chúng và cấp
dưới, cùng những người có
quan hệ, có hiểu biết về cán bộ

đó, trực tiếp với cán bộ đó.
+ Quy định thành chế độ
cán bộ lãnh đạo các cấp đi làm
việc trực tiếp ở cơ sở, tiếp xúc
với dân, đối thoại với quần
chúng và cấp dưới, giải quyết
kịp thời và dứt khoát những
công việc cấp bách.
- Đương nhiên, cũng
không phải cứ có quy chế quy
định là mọi việc được thực
hiện. Muôn thực hiện quy chế,
trước hết cán bộ cấp trên, cán
bộ lãnh đạo phải gương mẫu,
các cơ quan kiểm tra giám sát
phải tích cực hoạt động.
Nhưng vấn đề cực kỳ quan
trọng là phải có sự giám sát
thường xuyên của quần chúng,
có sự đấu tranh của công luận.
Tùy vấn đề và ở từng mức độ,
phạm vi thích hợp, phải thực
hiện công khai các hoạt động
của Đảng, của những người
lãnh đạo các cấp. Đặc biệt chú
trọng công khai tài chính, công
khai chế độ đãi ngộ, công khai
các ý kiến khác nhau, công
khai xử lý kỷ luật, chấm dứt
tình trạng giữ bí mật, “xử lý nôi

bộ” những trường hợp đã rõ là
phạm pháp.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Câu 3: đặc điểm
của Đảng cộng sản cầm
quyền.
Bài làm
Đảng cầm quyền có
nghĩa là Đảng trong điều
kiện mà gai cấp công
nhân đã giành được
chính quyền thiết lập hệ
thống chính trị mới và
tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Từ tình các nước
XHCN ở đông âu và liên
xô, hàng loạt vấn đề thực
tiễn và lí luận về Đảng
cộng sản cầm quyền
đang đặt ra, cần phải
nghiên cứu để vận dụng
sáng tạo đúng đắn học
thuyết Mác-Lênin về Đảng
cách mạng của GC công
nhân vào điều kiện cụ thể
của nước ta, nhằm bảo
đảm Đảng ta luôn xứng
đáng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân,

người đại diện trung
thành lợi ích của GC công
nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt
Nam.
Đảng cộng sản cầm
quyền có 3 đặc điểm
chính sau đây:
1. Nhiệm vụ chính
trị của Đảng đã thay đổi
căn bản:
Từ chưa có chính
quyền đến có chính
quyền là một bước ngoặc
căn bản của cách mạng,
là một bước phát triển
mới về chất đối với sứ
mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Khi có chính
quyền thì chủ nghĩa xã
hội từ lĩnh vực lí luận đã
chyển sang lĩnh vực thực
tiễn, nhiệm vụ quản lí đã
trở thành nhiệm vụ chủ
yếu và trung tâm. Toàn bộ
đặc diểm của tình thế
hiện thời, tất cả khó khăn
là ở chỗ phải hiểu rõ
những đặc điểm của
bước chuyển từ nhiệm vụ

chủ yếu là thuyết phục
13
nhân dân và dùng vũ lực
quân sự trấn áp, bóc lột
sang nhiệm vụ chủ yếu là
tổ chức quản lí xã hội.
Trước đây khi chưa
có chính quyền nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng là
thuyết phục, vận động
nhân dân thấy sự đúng
đắn của cương lĩnh và
sách lược của mình để
lãnh đạo nhân dân đánh
đổ đế quốc và phong
kiến, giành chính quyền
về tay nhân dân, thì ngày
nay nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng là tổ chức xây
dựng, quản lí, phát triển
đất nước trên mọi lĩnh
vực.
Tổ chức quản lý kinh
tế xã hội là một việc hết
sức khó khăn đòi hỏi tính
khoa học và nghệ thuật
cao. Hơn nữa đây cũng là
một công việc hết sức
mới mẻ và phức tạp,
không thể không trải qua

một thời kì mò mẫm, thử
nghiệm và chông chênh
vấp váp.
Lênin nói: “sự xuất
hiện của một giai cấp mới
trên vũ đài lịnh sử, với tư
cách là người lãnh tụ và
người lãnh đạo xã hội
không bao giờ diễn ra mà
lại không có một thời kì
‘tròng trành’ hết sức dữ
dội, một thời kì chấn
động, đấu tranh và bão
táp, đó là một măt. Mặt
khác không bao giờ diễn
ra mà lại không có một
thời kì mò mẫn thử
nghiệm, do dự, ngả
nghiêng trong việc lựa
chọn những phương pháp
mới đáp ứng tình hình thế
giới khách quan mới”.
(Lênin toàn tập, NXB sự
thật, Tập 36, Trang 259).
Do đó, đòi hỏi Đảng
cầm quyền phải luôn tổng
kết thực tiễn, đúc kết
thành lí luận, ra sức học
tập kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở các

nước XHCN đi trước để
có đường lối, chính sách
lãnh đạo công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội
phù hợp, giảm đến mức
thấp nhất những sai lầm,
vấp váp.
2. Có nhà nước
XHCN:
Giành được chính
quyền là bước ngoặc căn
bản, là điều kiện để giai
cấp công nhân và nhân
dân lao động thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình
thắng lợi. Nhà nước chính
là tổ chức tập trung nhất
để thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân
dân. Sự thể hiện tập trung
lãnh đạo của Đảng là
thông qua nhà nước và
các tổ chức chính trị xã
hội. Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chính sách của
Đảng phải được nhà
nước cụ thể hoá bằng các
văn bản pháp luật.
Nhà nước XHCN là
nhà nước của dân, do

dân, vì dân. Trong hệ
thống chính trị của chủ
nghĩa xã hội nhà nước
giữ vị trí trung tâm và có
vai trò cực kì quan trọng.
Sự lãnh đạo của Đảng thể
hiện sự tập trung ở nhà
nước, được thể hiện chủ
yếu thông qua nhà nước.
Nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng gắn liền với
việc phát huy vai trò, hiệu
lực của nhà nước. Cần đề
phòng và chống lại
khuynh hướng sai lầm
nguy hại đến vận mệnh
của chủ nghĩa xã hội.
Như xem nhẹ, hạ tháp vai
trò lãnh đạo của Đảng.
Có chính quyền là
thuận lợi cơ bản nhưng
mặt khác, khi có chính
quyền thì bộ máy của
Đảng và nhà nước cũng
dễ nảy sinh những tiêu
cực mới. Có chính quyền
thì cán bộ Đảng viên
được bố trí vào những
cương vị chức vụ trong
bộ máy nhà nước. Đó là

việc làm cần thiết để thực
hiện vai trò lãnh đạo của
Đảng. Nhưng khi có chức,
có quền thì một bộ phận
cán bộ Đảng viên dễ lợi
dụng chức quyền để làm
việc sai trái như quan liêu,
cửa quyền, hách dịch…
Làm cho nhân dân oán
ghét, uy tín của Đảng
giảm sút. Hiện tượng này
không gắn với bản chất
của Đảng, của nhà nước,
nhưng nếu không có biện
pháp ngăn chặn, nếu kỷ
luật của Đảng, pháp luật
của nhà nước không
nghiêm, không kịp thời
khắc phục thì sẽ gây ra
hậu quả khó lường.
Xuất pháp từ đặc
điểm trên, mà Đảng ta đã
chỉ rõ một trong 4 thử
thách, nguy cơ mà Đảng
ta cần khắc phục trong
quá trình đổi mới là bệnh
tham nhũng.
3. Phương pháp
lãnh đạo của Đảng thay
đổi.

Khi chưa có chính
quyền, Đảng trực tiếp giải
quyết mọi việc. Có chính
quyền, có hệ thống chính
trị, Đảng phải sử dụng
rộng rãi cả hệ thống chính
trị để thực hiện nhiệm vụ
trung tâm của Đảng là
lãnh đạo công cuộc xây
dựng, trước hết là trên
lĩnh vực kinh tế, có chính
quyền rồi, cuộc đấu tranh
giai cấp vẫn tiếp tục
nhưng bằng những hình
thức, phương pháp và
biện pháp khác. Lênin chỉ
ra rằng: “khi tình hình đã
thay đổi và chúng ta phải
giải quyết những nhiệm
vụ thuộc loại khác, thì
14
không nên nhìn lại đằng
sau và sử dụng những
phương pháp của ngày
hôm qua” (VI Lênin toàn
tập, NXB Tiến Bộ,
Matxcơva, 1978, Tập 44,
Trang 398)
Có chính quyền, giai
cấ công nhân phải biết

loại trừ khỏi “cẩm nang”
của mình những phương
pháp, hình thức không
còn phù hợp có những
hình thức, phương pháp
trước đây là phù hợp
nhưng nay phải loại bỏ.
Có những pphương pháp,
hình thức trước đây có
tính chất phổ biến đến
nay không còn phổ biến
nữa như phương pháp
tuyên truyền vận động cá
biệt đến từng nhà, từng
người nay vẫn còn,
nhưng phải sử dụng rộng
rãi bằng phương tiện
thông tin đại chúng, sử
dụng cả hệ thống chính trị
của chủ nghĩa xã hội để
tuyên truyền giáo dục,
vận động quần chúng
hành động cách mạng có
hiệu quả trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội-trước
hết là lĩnh vực kinh tế.
lênin đã cảnh báo những
người cộng sản rằng: Ai
muốn dùng phương pháp
cũ trong cuộc đấu tranh

giành chính quyền để giải
quyết những nhiệm vụ tổ
chức thì người đó sẽ phá
sản hoàn toàn với tính
cánh là nhà chính trị, là
người XHCN. Vì vậy cần
phải sáng tạo những
phương pháp, hình thức
mới ngày càng phong
phú. Đó là những phương
pháp, hình thức kết hợp
giáo dục chính trị, tư
tưởng với kích thích lợi
ích kinh tế, kết hợp hài
hoà lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể và lợi ích xã
hội, kết hợp giáo dục với
hành chính và cưỡng
bức, kết hợp chặt chẽ
công tác tư tưởng, công
tác tổ chức và công tác
kinh tế.
Đảng cầm quyền đặc
biệt chú trọng đến
phương pháp lãnh đạo
thông qua nhà nước, phát
huy vai trò, hiệu lực của
nhà nước trong lĩnh vực
thể chế hoá đướng lối
chính sách của Đảng

bằng các hình thức, biện
pháp quản lí của nhà
nước.
Vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với cách mạng
Việt Nam từ trước đền
nay và từ nay về sau là
một tất yếu lịch sử. Đảng
ta là kết quả của sự kết
hợp CHỦ NGHĨA Mác-
Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu
nước, đã thể hiện tính tất
yếu về kinh tế và tính tất
yếu về chính trị ngay từ
khi ra đời.
Nhìn chung, trong
hơn 70 năm qua, cương
lĩnh, đường lối, chính
sách của Đảng về cơ bản
phản ánh được ý chí,
nguyện vọng và những lợi
ích của GC công nhân,
của nhân dân lao động và
của cả dân tộc, đả không
ngừng đưa cách mạng
Việt Nam đi theo những
phương hướng gắn liền
độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Thực tiễn đó

của cách mạng Việt Nam
đã gắn bó Đảng ta với
nhân dân bằng cả chiều
dài và cả chiều sâu lịch
sử, không có lực lượng
chính trị nào thay thế
được. Nhân dân ta tự
giác thừa nhận sự lãnh
đạo của Đảng rõ ràng
không phải là do sự áp
đặt, mà xét đến cùng là
do tính tất yếu khách
quan của cách mạng
nước ta.
Đảng cộng sản cầm
quyền ở nước ta ngoài
những đặc điểm của một
Đảng cộng sản cầm
quyền, còn có những đặc
điểm sau:
- Là Đảng duy nhất
cầm quyền. Đảng có hệ
thống chính trị-xã hội, đặc
biệt là nhà nước được
xây dựng từ trung ương
đến cơ sở, giúp Đảng
thực hịên vai trò lãnh đạo
của mình. Có đội ngũ cán
bộ Đảng viên đông đảo,
nắm chức vụ chủ chốt

trong bộ máy nhà nước.
Các tổ chức chính trị-xã
hội và lực lượng nòng cốt
giúp Đảng giữ lấy chính
quyền, tuyên truyền trong
quần chúng nhân dân.
Đảng là người chịu trách
nhiệm về các mặt đời
sống chính trị xã hội của
quần chúng nhân dân, sự
phát triển của đất nước.
- Đảng có bề dày tri
thức và kinh nghiệm trong
lãnh đạo kháng chiến, xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Song do trong lãnh đạo
xây dựng và quản lí đất
nước còn nhiều mới mẻ.
Lực lượng của Đảng có
bản lĩnh chính trị vững
vàng (qua đấu tranh)
nhưng có nhiều người
không được đào tạo căn
bản, do đào tạo nhiều
nguồn khác nhau nên có
nhiều ý kiến khác nhau,
chưa thống nhất cao dẫn
đến nảy sinh bệnh bảo
thủ giáo điều…
- Đảng lãnh đạo xây

dựng đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội với nhiều khó
khăn phức tạp.
- Đảng lãnh đạo nhà
nước pháp quyền đang
xây dựng và hoàn thiện,
hệ thống pháp luật còn
chồng chéo, lỏng lẻo, biện
pháp giáo dục, thực hiện
15
pháp luật chưa đến nơi
đến chốn.
So với các Đảng
cộng sản khác như Đảng
cộng sản LX và đông âu
thì Đảng ta có những đặc
điểm riêng như: ngay từ
khi ra đời, Đảng ta đã là
một tổ chức cộng sản
đoàn kết thống nhất,
Đảng có mối quan hệ
máu thịt với GC công
nhân và nhân dân lao
động (xuất thân của
Đảng). Nhân dân bao
bọc, bảo vệ Đảng, tin
Đảng, theo Đảng; cuộc
cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng là
tự mình vì mình. Thể hiện

tính độc lập, tự chủ cao
về đường lối . mặc dù có
lúc phải chịu sự chi phối
của các Đảng cộng sản
nước lớn khác; lãnh tụ
của Đảng là lãnh tụ của
dân tộc, danh nhân văn
hoá thế giới-Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu đặc
điểm của Đảng cộng sản
cầm quyền có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc xây
dựng và củng cố Đảng
trong giai đoạn hiện nay.
Qua đó ta thấy sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản
trong điều kiện có chính
quyền là một tất yếu
khách quan xuất phát từ
vai trò lãnh đạo của Đảng
với việc thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Để
nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng cần phải phân
định rõ chức năng lãnh
đạo của Đảng với nhiệm
vụ tổ chức quản lí của
nhà nước, thường xuyên
củng cố mối quan hệ máu

thịt giữa Đảng với quần
chúng nhân dân, bảo đam
quyền làm chủ thật sự
của nhân dân, đấu tranh
loại trừ 4 nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra, “tăng
cường công tác giáo dục
chính trị, rèn luyện đạo
đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, xây
dựng và đổi mới công tác
cán bộ, củng cố các tổ
chức cơ sở Đảng”, kiện
toàn tổ chức, đổi mới
phương thức lãnh đạo
của Đảng. Phát huy dân
chủ trong sinh hoạt Đảng.
Tăng cường chế độ lãnh
đạo tập thể đi đôi với phát
huy tinh thần chủ động,
sáng tạo và trách nhiệm
cá nhân của từng thành
viên. Từng Đảng bộ giữ
vững sự đoàn kết thống
nhất trong tập thể lãnh
đạo. Tăng cường vai trò
lãnh đạo và tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với nhà
nước. Kiện toà hệ thống

tổ chức của Đảng gắn liền
với kiện toàn tổ chức, bộ
máy của các cơ quan nhà
nước và các đoàn thể
chính trị xã hội. Phát huy
vai trò trách nhiệm và khả
năng của các tổ chức
Đảng, Đảng viên, cấp uỷ
viên hoạt động trong các
cơ quan nhà nước trong
việc nghiên cứu, đề xuất
các chủ trương, chính
sách của Đảng. Các cấp
uỷ viên, nhất là cán bộ
chủ chốt của cấp ủy, phải
có chương trình công tác
ở cơ sở, tiếp xúc, lắng
nghe ý kiến và trả lời chất
vấn của Đảng viên và
nhân dân. Chăm lo xây
dựng đoàn TNCSHCM.
Tăng cường công tác
giáo dục, kiểm tra của
Đảng, tập trung vào các
nội dung chủ yếu: thực
hiện nghị quyết, chủ
trương, chính sách của
Đảng và nhà nước, chấp
hành nguyên tắc tập trung
dân chủ và quy chế làm

việc; củng cố và đoàn kết
nội bộ, giáo dục rèn luyện
nâng cao phẩm chất, đạo
đức cách mạng của cán
bộ Đảng viên (Văn Kiện
ĐHĐBTQ lần thứ IX, NXB
CTQG, HN 2001, Trang
55,56)
Câu 4: Đoàn kết là
sức mạnh, là then chốt
của thành công (Hồ Chí
Minh toàn tập – tập 11,
NXB CTQG 1996, trang
154)
Bài làm
ĐCS Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện đã lãnh đạo
nhân dân Việt Nam đấu
tranh anh dũng, tiến hành
cuộc cách mạng tháng 8
1945 thành công và các
cuộc kháng chiến chống
xâm lược của chế độ thực
dân phong kiến, hoàn
thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc và thống
nhất đất nước, đưa cả
nước chuyển sang giai
đoạn cách mạng xã hội

chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Đảng
từng bước được tôi luyện,
trưởng thành và đã xây
dựng nên những truyền
thống quý báu, thể hiện
bản chất tốt đẹp của
Đảng, đó là:
- Bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định mục
tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự
chủ và sáng tạo.
- Nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH.
- Gắn bó mật thiết với
nhân dân.
- Giử gìn đoàn kết nội
bộ, đoàn kết quốc tế.
Hiện nay vấn đề đoàn
kết là một vấn đề nổi bật
“đoàn kết là truyền thống
quý báu tạo nên sức
mạnh to lớn để dân tộc
vượt qua mọi khó khăn
16
thử thách chiến thắng kẻ
thù.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ

vĩ đại kính yêu của Đảng
ta đã từng khẳng định
“đoàn kết là sức mạnh là
then chốt của thành công”
để hiểu sâu sắc vấn đề
này chúng ta cần đi sâu
phân tích và chúng ta cần
phải làm gì để giữ đoàn
kết thống nhất của Đảng
trong điều kiện mới.
Trước hệt đoàn kết
thống nhất là một quy luật
trưởng thành của Đảng.
Tại sao đoàn kết là quy
luật? Theo quan điểm của
một số nhà kih điển đã
cho rằng:
Thứ nhất, tư tưởng của
M – Angghen: các ông là
nhà sáng lập CNXHKH,
phát hiện ra sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công
nhân, các ông chỉ ra con
đường để giai cấp công
nhân giành thắng lợi là
phải tổ chức ra chính
Đảng của mình, tập hợp
đông đảo quần chúng:
Một, Đảng phải được
tổ chức theo nguyên tắc

chặt chẽ thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
Hai, đoàn kết thống
nhất trong Đảng phải đi
đôi với đấu tranh thanh
trừng những phần tử cơ
hội cải lương và chủ
nghĩa bè phái.
Thứ hai, tư tưởng của
lênin: đặc biệt quan tâm
đến việc xây dựng khối
đoàn kết thống nhất vững
chắt trong Đảng, Người
đấu tranh không mệt mõi
mệt mõi vì sự thống nhất
đội ngũ Đảng, tự mình
khởi thảo nhiều nghị
quyết và những lời kêu
gọi vấn đề này. Lênin cho
rằng đoàn kết thống nhất
là truyền thống của Đảng
được bắt nguồn từ bản
chất giai cấp công nhân
và à nguồn sức mạnh vô
dịch và vô tận của Đảng,
người co việc xây dựng
và củng cố Đảng là nhằm
xây dựng và củng cố sự
thống nhất đội ngũ Đảng.

Lênin cho rằng nội bộ
Đảng càng đoàn kết,
không bị giao động bao
nhiêu thì ảnh hưởng của
Đảng đối với quần chúng
càng lớm bấy nhiêu.
Trong đoàn kết Đảng
cầm quyền, lênin đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò
đoàn kết, Người cho rằng
chia sẽ trog Đảng à cực
kỳ nguy hiểm, nhất là
những nước mà giai cấp
công nhân chỉ chiếm một
tỷ lệ nhỏ trong dân cư.
Còn quan điểm của
Đảng ta và chủ tịch Hồ
Chí Minh về vấn đề đoàn
kết thống nhất như thế
nào?
Trong các thời kỳ khác
nhau của cách mạng,
Đảng ta luôn quan tâm
xây dựng và củng cố sự
đoàn kết thống nhất trong
Đảng. Đảng ta cho rằng
đoàn kết trong Đảng là
nguồn sức mạnh, là sinh
mệnh sống còn của Đảng.
đoàn kết thống nhất trong

Đảnglà cơ sở để thống
nhất giai cấp để đoàn kết
toàn dân, đoàn kết quốc
tế là điều kiện để chuyên
chính vô sản có thể giành
được thắng lợi. Đảng phải
coi việc đoàn kết thống
nhất như giữ gìn con
ngươi của mắt mình, bè
phái là một tôi ác lớn đối
với Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
kế thừa truyền thống dân
tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết đã khái quát
“đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết”, người cho rằng
đoàn kết bắt nguồn từ
nhiệm vụ chính trị , đoàn
kết chính là then chốt của
thành công, người rất
quan tâm chăm lo, bảo vệ
sự thống nhất của phong
trào cộng sản và công
nhân quốc tế trên nền
tảng CN Mác-lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Vì
vậy đoàn kết thống nhất
là quy luật trưởng thành
của Đảng, Đảng không

thể phát triển vững vàng
được nếu trong Đảng xảy
ra tình trạng chia sẽ, bè
phái.
Để làm tốt đoàn kết
thống nhất trong Đảng là
cần hiểu: đoàn kết có
nghĩa là cùng bàn bạc
thảo luận một cách dân
chủ các vấn đề lãnh đạo,
sinh hoạt của Đảng. Nghị
quyết đúng đắn phải được
đa số thông qua và chấp
hành một cách triệt để.
Đoàn kết là trong Đảng
không có tình trạng “trống
đánh xuôi, kèn thổi
ngược” và trong Đảng
không phân chia thành
những bộ phận không
muốn cùng nhau hợp tác,
trong Đảng không có mần
móng để nảy sinh một tổ
chức mới. Đoàn kết là
trong Đảng không có
những tập đoàn, không có
những cương lĩnh, những
kế hoạch hành động
riêng. Để làm tốt đoàn kết
là phải giải quyết tốt các

mối quan hệ giữa đảng
viên với đảng viên, đảng
viên với tổ chức Đảng, tổ
chức Đảng cấp dưới với
tổ chức Đảng cấp trên,
các tổ chức Đảng với toàn
Đảng, các tổ chức Đảng
với các tổ chức Đảng, tổ
chức Đảng với hệ thống
chính trị, Đảng với nhân
dân, Đảng với vấn đề
quan hệ quốc tế. Phải xác
định mối quan hệ cụ thể
và quy chế làm việc.
17
Trong điều kiện mới
phải làm gì để giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong
Đảng? Trước hết chúng
ta phải nắm được tình
hình và thực trạng đoàn
kết thống nhất trong Đảng
hiện nay:
Về ưu điểm: trong văn
kiện đại hội IV Đảng ta có
tổng kết chỉ ra đoàn kết là
một truyền thống quý báu
của Đảng ta, sự đoàn kết
ấy được thủ thách và tôi
luyện trong quá trình

chiến đấu lâu dài, lúc
thuận lợi cũng như lúc
khó khăn, lúc cách mạng
phát triển bình thường
cũng như trong bước
ngoặc lịch sử. Trong báo
cáo đại hội V Đảng ta
vạch rõ quan điểm là
Đảng ta cũng có truyền
thống đoàn kết nhất trí về
dường lối, sự đoàn kết
thống nhất của Đảng
được thể hiện rõ trong
BCH Trung ương, báo
cáo Trung ương VI lần 2,
Đảng ta tiếp tục khẳng
định: trước tình hình biến
động chính trị trên toàn
thế giới và trong nước có
nhiều diễn biến phước tạp
nhưng Đảng ta vẫn tiếp
tục phát huy được truyền
thống cách mạng, có bản
lĩnh chính trị và kiên định
với mục tiêu lý tưởng,
nguyên tắc tổ chức và
nêu cao được tinh thần
dộc lập tự chủ.
Về biểu hiện mất đoàn
kết trong Đảng thời gian

qua như sau:
Chưa nhất trí cao một
số vấn đề cơ bản cũng
như một số vấn đề liên
quan đến quan điểm
qường lối, chủ trương,
chính sách ớn của Đảng.
Một số nơi, nội bộ trong
Đảng mất đoàn kết khá
nghiêm trọng, chủ yếu do
kèn cựa địa vị, tranh
giành chức quyền, lơi lọc,
nhất à ở cán bộ chủ chốt.
Có nơi vì mâu thuẫn cá
nhân mà tập hơp lực
lương hình tành bè cánh
trong Đảng và trong nhân
dân để chống đối nhau,
gây mất đoàn kết và mất
ổn định xã hội, giãm uy tín
lãnh đạo. Có tình rạng
khá phổ biến là trong hội
nghị thì nhất trí nhưng ra
ngoài thì nói khác hoặc
không chấp hành.
Mất đoàn kết trong
thường vụ cấp ủy, bí thư
với chủ tịch, phó bí thư,
giữa bí thư với thủ
trưởng, giám đốc ở các

đơn vị. Mất đoàn kết giữa
già với trẻ, cũ với mới,
giữa cán bộ nghĩ hưu và
cán bộ đương chức.
Nguyên nhân mất đoàn
kết là do ba nguyên nhân
chủ yếu:
- Do tư tưởng cá nhân
chủ nghĩa cục bộ địa
phương, phe cánh, tranh
giành chức vụ, chay chức
quyền.
- Không tôn trọng
nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê
bình mang tính hình thức
dẫn đến đoàn kết kém.
- Do gia trưởng, độc
đoán, chuyên quyền chạy
công đỗ lỗi.
Từ đó có thể kết luận
rằng chủ nghĩa cá nhân là
nguyên nhân bao trùm
xuyên suốt mà trung tâm
là vì lợi ích cá nhân. Nếu
ở đâu, nơi nào mất đoàn
kết kéo dài và nghiêm
trọng điều đó chỉ xãy ra ở
đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Những vụ mất đoàn kết

xãy ra trước bước ngoặc
của lịch sử, đó là khi
Đảng mới ra đời hay khi
cách mạng chuyễn giai
đoạn từ thời kỳ này đến
thời kỳ khác.
Vận dụng sáng tạo
những tư tưởng của M-A
và L, đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV và các
nghị quyết hội nghị tiếp
theo của Đảng ta đã tổng
kết những bài học kinh
nghiệm lớn về vấn đề này.
Bài học thứ nhất là sự
đoàn kết thống nhất phải
dựa trên cơ sở của CN
Mác-lênin tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối
chính sách đúng đắng
của Đảng. Đây là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu, yêu cầu chúng
ta phải nắm vững về vai
trò của đoàn kết, những
tư tưởng cơ bản của CN
Mác-lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết để
làm nội dung và phương
pháp trong xây dựng

đoàn kết thống nhất phải
quán triệt đường lối, quan
điểm, chủ trương của
Đảng để chúng ta làm cơ
sở xây dựng sự đoàn kết
của Đảng các cấp ủy phải
đặc biệt coi trọng việc xây
dựng chủ trương, nhiệm
vụ chính trị và biện pháp
lãnh đạo đúng đắn phù
hợp với tình hình thực tế
của địa phương và đơn vị.
Bài học thứ hai là: sự
đoàn kết thống nhất trong
Đảng phải dựa trên cơ sở
tuân thủ nghiêm ngặt
nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc chỉ đạo tổ
chức và hoạt động của
Đảng nhằm bảo đảm cho
Đảng ta thống nhất một
khốivề ý chí và hành
động, yêu cầu trong sinh
hoạt Đảng phải phát huy
được dân chủ, mọi người
được trình bày hết ý kiến
của mình, khi đã biểu
quyết thì phải làm theo
nghị quyết, phải chấp

hành theo đa số, ý kiến
trái ngược thì được bảo
lưu và báo cáo lên cấp
18
trên, mọi đảng viên phải
nêu cao ý thức t/chức kỹ
luật.
Bài học thứ ba là:
phải thường xuyên bồi
dưỡng tình thân ái, tình
đồng chí cho cán bộ đảng
viên là biện pháp cần thiết
để giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
Yêu cầu các cấp ùy Đảng
cần phải quan tâm giáo
dục tự tưởng cách mạng
và xây dựng tình đồng chí
trong sáng, mỗi đảng viên
phải có thái độ chân
thành cởi mởtương trợ,
khiêm tốn. Biết thông cảm
và hết lòng gíp đỡ nhau vì
nhiệm vụ chung.
Bài học thứ tư là: phải
thương xuyên và nghiêm
túc tự phê bình và phê
bình, đây là phương pháp
cơ bản để tăng cường
đoàn kết thống nhất trong

Đảng.
Bài học thứ năm là:
xây dựng và bảo vệ hạt
nhân lãnh đạo thực sự là
trung tâm cho khối đại
đoàn kết thống nhất trong
Đảng.
Qua những bài học
kinh nghiêm về vấn đề
đoàn kết có một số vấn
đề cần chú ý để xây dựng
củng cố khối đoàn kết
thống nhất trong Đảng
hiện nay là:
- Kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhấn và chủ
nghĩa cơ hội.
- Phải thấy rằng trong
Đảng có sự khác nhau ý
kiến về chủ trương, về
biện pháp là điều bình
thường, nhất là trong
bước ngoặc lịch sử.
- Đảng phải xóa bỏ tình
trạng đặc quyền đặc lợi
về đoàn kết sinh hoạt và
các chế độ đãi ngộ.
- Đảng phải quan tâm
xây dựng dường lối,
chính sách dúng, có cơ

chế tổ chức hợp lý, quy
chế làm việc rõ ràng,
phong cách dân chủ, kiên
quyết chống bện quan
liêu gia trưởng.
- Đảng phải có biện
pháp đặc biệt kiên quyết
để xử lý những vụ mất
đoàn kết.
Nghị quyết đại hội VIII
có đề ra sáu điểm xử lý
mất đoàn kết:
- Phải bố trí dúng
người đứng đầu tổ chức
Đảng và cơ quan chíh
quyền cùng cấp.
- Phải thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân
chủ.
- Phải có quy chế công
tác rõ ràng chặt chẽ, nhất
là về công tác cán bộ.
- Thường xuyên tự phê
bình và phê bình, đấu
tranh chống kèn cưa, địa
vị, cơ hội, cục bộ, bản vị,
bè phái.
- Bồi dưỡng tình
thương yêu đồng chí, tôn
trọng lẫn nhau.

- Phát hiện sớm những
hiện tượng mất đoàn kết,
tạp trung giải quyết xử lý
dứt điểm.
Nghị quyết ĐH Đảng
toàn quốc lần thứ IX nêu:
xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân là trách
nhiệm của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội
xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân gắn liền với
việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội
dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Thực hiện dân chủ
trên các lĩnh vực chính trị
– kinh tế, văn hóa – xã hội
ở tất cả các cấp các
ngành, chính sách và
pháp luật của Nhà nước
là yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến việc thực hiện đại
đoàn kết toàn dân và sinh
hoạt dân chủ trong xã hội.
Tóm lại, “đoàn kết là
sức mạnh, là then chốt
của thành công” đó là một
quy luẫt sống còn của
cách mạng, của Đảng ta.

Đoàn kết là truyền thống
quý báu của Đảng và
nhân dân ta, là di sản vô
giá mà chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại, là nguồn góc
sức mạnh tất thằng của
cách mạng Việt Nam. Để
giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng cần thực
hiện đầy đủ dân chủ trong
sinh hoạt Đảng, đẩy mạnh
tự phê bình và phê bình
một cách trung thực thẳng
thắng với tinh thần đồng
chí, tôn trọng thương yêu
nhau. Cần đấu tranh
không khong nhượng
chống chủ nghĩa cá nhân,
tư tưởng cục bộ bản vị,
địa phương chủ nghĩa,
chống chủ nghĩa cơ hội
và mọi biểu hiện bè phái
trong Đảng. Giữ gìn và
phát huy truyền thống đó
là trách nhiệm của toàn
Đảng. Toàn Đảng phải
thực hiện nghiêm túc lời
dặn của chủ tịch Hồ Chí
Minh, ra sức giữ gìn và
bảo vệ sự đoàn kết nhất

trí trong Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình.
Thực tiễn của Đảng
ta trong những năm gần
đây và nguyên nhân đổ
vỡ của các ĐCS ở Đông
âu và Liên Xô cho thấy ý
nghĩa cực kỳ to lớn của
việc giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
Chúng ta cần ý thức sâu
sắc lời dặn của Bác Hồ
rằng đoàn kết thì sống,
chia rẽ là tử
19
Câu 4: Đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
Bài làm
Đoàn kết thống nhất
trong Đảng là quy luật
trưởng thành của Đảng.
Vì vậy khi đề cập đến vấn
đề này, Mác-Aêngghen đã
giành phần lớn trí tuệ trí
tuệ và sức lực của mình
để xây dựng chính Đảng
độc lập, cách mạng của
GC công nhân. Hai ông
khẳng định: “sự thành
công của phong trào công

nhân ở mỗi nước chỉ có
thể đảm bảo bằng sức
mạnh của sự thống nất và
sự có tổ chức” (Mác-
Aêngghen tuyển tập, Tập
3, NXB ST, Hà Nội 1984,
Trang 26).
Kế thừa tư tưởng
của Mác-ăngghen và qua
quá trình hoạt động xây
dựng Đảng Lênin cho
rằng: “sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng bắt
nguồn từ bản chất của
giai cấp công nhân và đó
là nguồn gốc sức mạnh
vô địch và vô tận của
Đảng” (Lênin Toàn Tập,
Tập 2, NXB Tiến Bộ,
Trang 107-108).Và để
phát huy sức mạnh vô
địch và vô tận đó, cần
phải đấu tranh, thanh trừ
chủ nghĩa cơ hội, cải
lương và chủ nghĩa bè
phái. Ngương chỉ rõ
“trong một nước đang
thực hiện chuyên chính
vô sả thì một sự chia rẽ
trong nội bộ GC vô sản

hoặc giữa Đảng của GC
vô sản với quần chúng vô
sản không phải chỉ là
nguy hiểm mà còn là cực
kì nguy hiểm…” (Lênin
Tøoàn Tập, Tập 42, Trang
336).
Đảng ta coi đoàn kết
trong Đảng là sinh mệnh
của Đảng, là vấn đề sống
còn của cách mạng, là cơ
sở để thống nhất GC là
điều kiện để đoàn kết
toàn dân đưa cách mạng
đến thắng lợi. Do đó,
Đảng ta luôn quan tâm
xây dựng và củng có sự
đoàn kết thống nhất trong
Đảng qua các thời kì khác
nhau trên con đường
cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định:
“đoàn kết là sức mạnh, là
then chốt của thành
công”, điều lệ đầu tiên
của Đảng thông qua tại
đại hội I (3/1935) ghi rõ:
Đảng là một khối thống
nhất về tổ chức, hướng
hành động. Đảng tuyệt

đối không thoả hiệp với
những xu hướng bè phái.
Mọi sự chia rẽ là tội ác
lớn nhất đối với Đảng.
Đảng luôn nhắc nhở các
cấp bộ Đảng, toàn thể
Đảng viên phải hết sức
quan tâm xây dựng và giữ
gìn sự thống nhất như giữ
gìn con ngương của mất
mình.
Đoàn kết thống nhất
trong Đảng phải dựa trên
những cơ sở sau đây:
1.Đoàn kết thống
nhất dựa trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chính sách
đúng của Đảng. Đây là
một bài học kinh nghiệm
then chốt trong việc xây
dựng đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Bởi vì chỉ có
trên cơ sở chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối
chính sách của Đảng mới
cung cấp cho chúang ta
một thế giới quan và

phương pháp luận đúng
đắn trong đánh giá, giải
quyết các vấn đề. Xa rời
nó thì sẽ mất phương
hướng và xa rời mục tiêu
đoàn kết của Đảng, dẽ rơi
vào đoàn kết theo kiểu
phường hội, cục bộ địa
phương chủ nghĩa.
Quán triệt bài học
này đòi hỏi chúng ta cần
phải nắm vững được vị
trí, vai trò của đoàn kết
thống nhất và tư tưởng
cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng về
đoàn kết; mỗi cán bộ
Đảng viên phải quán triệt
sâu sắc đường lối, quan
điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng để làm cơ
sở cho đoàn kết thống
nhất trong tư tưởng và tổ
chức; các cấp ủy phải đặc
biệt coi trọng việc xây
dựng chủ trương, nhiệm
vụ và biện pháp lãnh đạo
đúng đắn phù hợp với
tình hình đơn vị.

2.Sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng phải dựa
trên cơ sở tuân thủ
nghiêm ngặt nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân
chủ là nguyên tắc chỉ đạo
và tổ chức hoạt động của
Đảng để đem đến sự
thống nhất trong ý chí và
hành động, do đó chấp
hành nguyên tắc tập trung
dân chủ vừa là nguyên
tắc vừa là biện pháp xây
dựng đoàn kết thống
nhất.
Chấp hành nguyên
tắc này cần thực hiện
những yêu cầu sau:
-Trong sinh hoạt
Đảng phải phát huy dân
chủ, tự do tư tưởng, mọi
người được trình bày hết
ý kiến của mình không bị
một áp lực nào chi phối.
-Muốn có đoàn kết
thì khi đã nhất trí thì phải
nói và làm theo đa số “khi
đã có kết luận của tập
thể, đã hoàn thành nghị

quyết tất cả mọi cán bộ,
Đảng viên, không trừ một
ai đều phải nói và làm
20
theo nghị quyết của
Đảng” (NQ Hội Nghị lần
thứ V của BCH TW khoá
VI). Yù kiến trai ngược thì
được bảo lưu, báo cáo
cấp trên.
-Mọi Đảng viên phải
nêu cao ý thức tổ chức kỉ
luật và việc tăng cường kỉ
luật goáp phần tăng
cường đoàn kết thống
nhất.
3.Sự đoàn kết thống
nhất phải dựa trên tình
thân ái, tình đồng chí của
cán bộ Đảng viên.
Kin nghiệm cho thấy
với thái độ chân thành cởi
mở, tôn trọng nhau, biết
thông cảm, khiêm tốn
lắng nghe ý kiến của
nhau, thường giúp đỡ
nhau… sẽ tao nên bầu
không khí đoàn kết thỏi
mái trong tậ[ thể, từ đó
tạo điều kiện hoàn thành

tốt nhiệm vụ chung.
4.Thường xuyên và
nghiêm túc tự phê bình và
phê bình là một phương
pháp căn bản để tăng
cường đoàn kết thống
nhất trong Đảng.
Tự phê bình và phê
bình vừa là quy luật phát
triển, xây dựng củng cố
khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng, vừa là
phương pháp có hiệu quả
để giáo dục, rèn luyện
cán bộ Đảng viên. Do đó,
cần phải có phương
pháp, thái độ đúng đắn
khi thực hiện tự phê bình
và phê bình.
5.Xây dựng và bảo
vệ hạt nhân lãnh đạo thực
sự là trung tâm cho khối
đại đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Chính vì vậy,
Lênin đã khẳng định:
“không có một trung tâm
lãnh đạo thống nhất,
không có một cơ quan
trung ương thống nhất thì
không có thống nhất thật

sự trong Đảng” (Lênin
Toàn Tập, Tập 11, NXB
Tiến Bộ, 1979, Trang 210)
trên đây là những cơ
sở cơ bản trong xây dựng
khối đại đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Qua các
giai đoạn cách mạng
Đảng ta luôn xem trọng,
đề cao việc xâ dựng đoàn
kết thống nhất trong
Đảng. Chính vì thế mà
mặc dù đã trải qua nhiều
khó khăn, gian khổ nhưng
Đảng vẫn lãnh đạo nhân
dân ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, từng
bước đưa nước ta tiến
vững chắc trên con
đường xây dựng thành
công chế độ chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Công
cuộc xây dựng khốo đoàn
kết thống nhất trong Đảng
của Đảng ta đã thu được
những kết quả hết sức to
lớn, thể hiện ở những mặt
sau:
-Đoàn kết là một
truyền thống quý báu của

Đảng. Đoàn kết thống
nhất trong Đảng đã được
thử thách và tôi luyệnn
trong quá trình đấu tranh
lâu dài lúc thuận lợi và
khó khăm, lúc cách mạng
phát triển bình thường
cũng như là bước ngoặc.
-Đảng ta luôn đoàn
kết thống nhất về mặt
đường lối, thể hiện rõ
trong BCH TW. Hiện nay
trước tình hình trên thế
giới và trong nước co
nhiều diễn biến phức tạp
nhưng Đảng vẫn phát huy
truyền thống, kiên định
mục tiêu lí tưởng, giữ
vững nguyên tắc tổ chức
và nêu cao tinh thần độc
lập, sáng tạo, đưa đất
nước vượt qua khó khăn,
thủ thách.
Tuy nhiên, bên cạnh
những thành quả to lớn
trên. Việc xây dựng đoàn
kết thống nhất trong Đảng
vẫn còn một số tồn tại,
khuyết điểm như:
-Chua7 nhất trí cao

với một số vấn đề cơ bản
cũng như một số vấn đề
liên quan đến quan điển
đường lối chủ trương
chính sách lớn của Đảng.
-Có một số nơi nội
bộ Đảng mất đoàn kết
khá ngiêm trọng, chủ yếu
là tranh giành địa vị chức
vụ, lợi lộc nhất là cán bộ
chủ chốt.
-Có nới còn vì mâu
thuẫn cá nhân mà tập
hợp lực lượng thành bè
cánh ở trong Đảng và
trong nhân dân để chống
đối nhau, gây mất đoàn
kết và mất ổn định xã hội.
-Còn có tình trạng
khá phổ biến: trong hội
nghị thì nhấttrí nhưng ra
ngoài thì nói khác hoặc
không thực hiện, nói một
đằng làm một nẻo. Đương
chức thì nói kiểu này
nhưng khi chuyển công
tác hoặc ngỉ hưu thì moi
móc.
Trong đây là những
tồn tại mà công tác xây

dựng đoàn kết thống nhất
trong Đảng của Đảng ta
chưa khắc phục được. Sở
dĩ có tình trạng đó là do
những nguên nhân sau
đây:
-Do tư tưởng cá
nhân chủ nghĩa, cục bộ
địa phương, phe cánh,
tranh giành chức vụ.
-Do không tôn trọng
nguyên tắc tập trung dân
chủ, không thực hiện tốt
tự phê bình.
-Do tư tưởng độc
đoán chuyên quyền, tranh
công đổ tội
nguyên nhân sân xa
của tình trạnh trên là xuất
phát từ lợi ích, nổi bật là
21
lợi ích kinh tế. chính vì
vậy để giải quyết vấn đề
trên cần phải giải quyết
tốt vấn đề lợi ích.
Trước thực trang
đoàn kết thống nhất trong
Đảng như trên, Đảng ta
đã đề ra nhiều giải pháp
nhằm nâng cao củng cố

đoàn kết thống nhất trong
Đảng, nổi bật là những
giải pháp cơ bản sau:
-Kiên quyết chống
chủ nghĩa cá nhân và chủ
nghĩa cơ hội.
Khi một Đảng đã có
chính quyền thì thường
mất đi sự sàng lọc tự
nhiên; mặt khác sự hấp
dẫn của Đảng cầm quyền
lại lớn, nên bọn cơ hội
thường tìm mọi cách chui
vào Đảng. Chủ nghĩa cá
nhân là nguồn gốc của
chủ nghĩa cơ hội. Sự rạn
nứt đi đến tan rã là xu
hướng vận động của một
tổ chức trong đó có sự
hoạt động của chủ nghĩa
vo chính phủ. Giữa chủ
nghĩa vô chính phủ và
chủ nghĩa cơ hội có quan
hệ biện chứng với nhau.
Chủ nghĩa vô chính phủ là
một biểu hiện của chủ
nghĩa cơ hội về mặt hình
thức. Bè phái, phe nhóm
là cơ sở tồn tại của chủ
nghĩa cơ hội trong Đảng.

Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
rút ra kết luận: “do chủ
nghĩa cá nhân mà mất
đoàn kết, thiếu tính tổ
chức kỉ luật, kém tinh thần
trách nhiệm…” (Hồ Chí
Minh Toàn Tập, NXB
CTQG, Hà Nội 1996, Tập
8, Trang 484).
-Trong dgcó sự khác
nhau về ý kiến, chủ
trương, biện pháp… là
điều bình thường, nhất là
trướng những bước
ngoặc của lịch sử. Đảng
phải biết chờ đợi, bình
tĩnh, dân chủ để giải
quyết những ý kiên khác
nhau trong đó, không
được để phát triển thành
những bất đồng, xung đột
cá nhân.
-Đảng phải xoá bỏ
tình trạng đặc quyền, đặc
lợi về điều kiện sinh hoạt
và các chế độ đãi ngộ
khác nhau trong Đảng.
Bất bình đẳng về lợi ích
kinh tế không thể tạo nên
sự thống nhất về tư

tưởng cũng như hành
động.
-Đảng quan tâm xây
dựng một đường lối,
chính sách đúng, cơ chế
tổ chú7c hợp lí, quy chế
làm việc rõ ràng, phong
cách dân chủ, kiên quyết
chống bệnh quan liêu, gia
trưởng. Kinh nghiệm cho
thấy, ở đâu thiếu những
điều kiện đó thì ở đó thiếu
sự thống nhất về tư
tưởng và tổ chức. Đường
lối đúng là cơ sở cho sự
đoàn kết. Ngược lại,
đường lối sai là nguồn
gốc của sự phân tán, chia
rẽ. Cơ chế đ1ng đảm bảo
cho bộ máy vận động
thống nhất, ngược lại lại
cơ chế sai tạo ra sự bao
biện và cả kẽ hở làm cho
hành động không thống
nhất.
Chủ nghĩa quan liêu,
gia trưởng, mất dân chủ
không thể tạo được bầu
không khí cởi mở, thân ái
trong tấp thể.

-Đảng cần có những
biện pháp đặc biệt kiên
quyết để xử lí những vụ
mất đoàn kết như: Bố trí
người đứng đầu phù hợp;
thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ; có quy
chế công tác rõ ràng chặt
chẽ, nhấât là công tác cán
bộ; thường xuyên tự phê
bình và phê bình, đấu
tranh chống kèn cựa địa
vị, cơ hội, cục bộ, bè
phái… bồi dưỡng tình
thương yêu tôn trọng
đồng chí, giúp đỡ lẫn
nhau; phát hiện sớm hiện
tượng mất đoàn kết, giải
quyết và xử lí dứt điểm.
Tóm lại: Xây dựng
khối đoàn kết thống nhất
vững chắc là quy luật
trưởng thành của một
Đảng cộng sản chân
chính. ĐHĐB toàn quốc
lần thứ IX cho rằng: Thực
hiện đại đoàn kết là kế
thừa truỳ6n thống quý
báu của dân tộc, là
đường lối chiến lược, là

nguồn sức mạnh và động
lực to lớn để xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Đai hội
chỉ rõ “thực hiện đại đoàn
kết dân tộc, tôn giáo, giai
cấp, tầng lớp, thành phần
kinh tế, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi vùng của đất
nước, người trong Đảng
và người ngoài Đảng,
người đang công tác và
người đã nghỉ hưu, mọi
thành viên trong đại gia
đình dân tộc Việt Nam dù
sống ở trong nước hay ở
nước ngoài. Phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng
dân tộc, truyền thống yêu
nước, ý chí tự lực, tự
cường và lòng tự hào dân
tộc, lấy mục tiêu giữ vững
độc lập dân tộc, thống
nhất, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh là điểm
tương đồng; tôn trọng
những ý kiến khác nhau
không trái với lợi ích
chung của dân tộc, xoá
bỏ mặc cảm, định kiến,

phân biệt đối xử về quá
khứ, giai cấp, thành phần,
xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau,
hướng đến tương lai…
xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân gắn với hiệu
qủa phát huy dân chủ
22
trong xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Thực hiện
dân chủ trên các lĩnh vực
chíng trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội ở tất cả các cấp,
các ngành”. (VKĐH IX,
NXB CTQG, HN 2001,
Trang 45)
Câu 5: tổ chức cơ sở
Đảng.
- Nêu phân tích nội
dung vị trí quan trọng tổ
chức cơ sở Đảng
- Tại sao phải nâng
cao chất lượng tổ chức cơ
sở Đảng
- Biên pháp nâng
cao chất lượng tổ chức cơ
sở Đảng
- Rút ra ý nghĩa
Bài làm

Đảng CSVN-đội tiên
phong của GC công nhân
Việt Nam-là một đội ngũ
thống nhất về chính trị, tư
tưởng trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, một
đội ngũ có tổ chức chặt
chẽ, khoa học. Tình tổ
chức của Đảng thể hiện
trước tiên ở chỗ Đảng là
một hệ thống các cấp tổ
chức từ TW đến cơ sở,
được xây dựng teho
nguyên tắc tập trung dân
chủ. Trong hệ thống đó.
Các tổ chức cơ sở-chi bộ
cơ sở và Đảng bộ cơ sở-
lập thành nền tảng của
Đảng.
Trong hệ thống tổ
chức của Đảng, mỗi cấp
có vị trí, chức năng,
nhiệm vụ khác nhau. Cấp
cơ sở là nền tảng của
Đảng, của cả hệ thống
chính trị; nơi trực tiếp
triển khai và tổ chức thực
hiện đường lối, nghị quyết
của Đảng cấp trên, biến

các đường lối và nghị
quyết đó thành hiện thực.
Khái niệm tổ chức
cơ sở Đảng được Đảng ta
ghi rõ ở điểu 21 điều lệ
Đảng cộng sản Việt Nam:
Tổ chức cơ sở Đảng
là đơn vị cơ sở (xã,
phường, thị trấn, cơ quan,
hợp tác xã, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị
cơ sở trong quân đội,
công an và các đơn vị cơ
sở khác) có từ 3 đảng
viên chính thức trở lên. Tổ
chức cơ sở Đảng dước
30 đảng viên lập chi bộ
cơ sở có các tổ chức
Đảng trực thuộc. Tổ chức
cơ sở Đảng có từ 30 đảng
viên trở lên, lập Đảng bộ
cơ sở, có các chi bộ trực
thuộc Đảng ủy.
Những trường hợp:
Lập Đảng bộ cơ sở trong
đơn vị cơ sở chưa đủ 30
đảng viên, lập chi bộ trực
thuộc Đảng ủy, cơ sở có
hơn 30 đảng viên lập
Đảng ủy bộ phận trực

thuộc Đảng ủy cơ sở, cấp
ủy cấp dưới phải báo cáo
và được cấp ủy cấp trên
đồng ý mới thực hiện.
Theo quy định trên,
khái niệm tổ chức cơ sở
Đảng được gọi chung cho
cả Đảng bộ cơ sở và chi
bộ cơ sở tuỳ thuộc vào số
lượng đảng viên và yêu
cầu nhiệm vụ cụ thể từng
đơn vị cơ sở.
Đảng CSVN và chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng. Dù ở
bất kì giai đoạn cách
mạng nào, Đảng ta luôn
khẳng địng tổ chức cơ sở
Đảng là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính
trị ở đơn vị cơ sở “mỗi chi
bộ của Đảng, phải là hạt
nhân lãnh đạo quần
chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ, liuên hệ mật
thiết với quần chúng, phát
huy được trí tuệ và lực
lượng vĩ đại của quần
chúng” (Hồ Chí Minh Toàn

Tập, Tập 11, NXB CTQG,
HN 2000, Trang 23).
Vị trí, vai trò của tổ
chức cơ sở Đảng được
khái quát và khẳng định ở
những nội dung sau:
+ Tổ chức cơ sở
Đảng là nơi nối liền các
cơ quan lãnh đạo cấp trên
của quần chúng, là chiếc
cầu, là bản lề gắn bó
Đảng với dân. Mọi tậm tư,
nguyện vọng chính đáng
cùa dân vì thế được phản
ánh kịp thời lên tổ chức
Đảng cấp trên thông qua
chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ
sở.
+ Tổ chức cơ sở
Đảng là nơi trực tiếpđưa
đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng vào
quần chúng và tổ chức
cho quần chúng thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách đó.
+ Tổ chức cơ sở
Đảng còn là nơi trực tiếp
giáo dục, rèn luyện, kết
nạp và sàng lọc đảng

viên; nơi đào tạo cán bộ
cho Đảng; nơi xuất phát
để cử ra cơ quan lãnh
đạo cấp trên của Đảng; là
cửa ngõ quan trọng bảo
đảm tính tiên phong, tính
trong sạch của Đảng ta.
Trong điều kiện dất
nước ta phát triển nền
kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản
lí của nhà nước, vai trò
của tổ chức cơ sở Đảng
càng trở nên quan trọng.
Nghị Quyết đại hội lần thứ
5 BCH TW khoá VI đã
nêu: “trong điều kiện
chuyển sang thực hiện cơ
chế quản lí mới, phát huy
vai trò chủ động sáng tạo
của các đơn vị kinh tế cơ
sở, mở rộng dân chủ
XHCN, các tổ chức cơ sở
Đảng phải thực sự làm
hạt nhân lãnh đạo chính
trị trong các tập thể lao
23
động”…Với vai trò đó, các
Đảng bộ cơ sở phải nâng
cao chất lượng trong hoạt

động thực tiễn của mình,
bảo đảm cho công cuộc
đổi mới được thực hiện
trên thực tế ở đơn vị cơ
sở, đồng thời, từ thực tiễn
cuộc sông đóng góp ý
kiến với Đảng, nhà nước
hoà chỉnh đường lối chủ
trương, chính sách và
pháp luật.
Từ sau khi thực hiện
chính sách mở cửa đến
nay, Đảng ta đã ra sức
xây dựng và kiện toàn các
tổ chức cơ sở Đảng trong
giai đoạn cách mạng mới
và đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng như gắn
liền với những thành tựu
bước đầu trobng sự
nghiệp đổi mới, cá tổ
chức cơ sở Đảng vẫn
kiên định đường lối và
quan điểm cách mạng
đúng đắn của Đảng, lãnh
đạo nhân dân thực hiện
có hiệu quả chính sách và
cơ chế quản lí mới. Có
tiến bộ trong việc thực
hiện dân chủ trong Đảng

và trong nhân dân. Nâng
cao một bước chất lượng
tổ chức cơ sở Đảng,
nhiều Đảng bộ địa
phương tiến hành tổ chức
lại các chi bộ, kiện toàn
bộ máy, tinh giảm biêbn
chế theo yêu cầu thực
hiện cơ chế mới. Qua đai
hội Đảng bộ cơ sở có một
bước kiện toàn cấp ủy và
đội ngũ cốt cán ở nhiều
Đảng bộ. Tuy nhiên, trong
nhiều địa phương, nhiều
ngành, năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng còn
yếu, lúng túng trong đổi
mới nội dung và phương
thức lãnh đạo trước yêu
cầu đổi mới của đổi mối
của cơ chế quản li kinh tế,
quản lí xã hội ở cơ sở;
không ít Đảng bộ buông
lỏng công tác giáo dục,
kiểm tra, quản lí đảng
viên, sinh hoạt Đảng chất
lượng kém; một số đảng
viên cá nhâ cơ hội cục bộ,
phe cánh gây mất đoàn

kết trong Đảng; đội ngũ
cán bộ cơ sở thay đổi
nhiều nhưng chế độ đãi
ngộ chưa thoả đáng, thiếu
thống nhất.
Nguyên nhân chủ
yếu của tình trạng trên là:
+ Trong khi Đảng
chuyển sang cơ chế mới,
tổ chức cơ sở Đảng gặp
nhiều lúng túng, Đảng ta
chỉ đạo xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng chưa kịp thời
còn hữu khuynh một số
mặt.
+ Thiếu ban hành
chính sách đối với cán bộ
cơ sở, nhất là chính sách
đào tạo và đãi ngộ.
+ Trong chỉ đạo còn
mắc bệnh quan liêu, cấp
trên xa cơ sở, cơ sở xa
dân.
ĐH IX đã chỉ rõ:
“những khuyết điểm nêu
trên là do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ
quan, trực tiếp và chủ yếu
là do nhiều cấp ủy và tổ
chức Đảng, kể cả BCH

TW và BCT, tuy đã có
nhiều cố gắng trong công
tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, nhưng chỉ đạo
chưa tập trung và thiếu
kiên quyết; chủ trương,
biện pháp thiếu đồng bộ;
chưa chỉ đạo tất việc kết
hợp tự phê bình và phê
bình với kiện toàn tổ
chức, đổi mới cơ chế,
chính sách, chỉnh đốn các
khâu quản lí kinh tế, tài
chính và tăng cường công
tác giáo dục, quản lí cán
bộ, đảng viên…” (VK IX,
NXB CTQG, HN 2001, Tr
139).
Công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước trong
bối cảnh quốc tế và trong
nước hiên nay đòi hỏi
Đảng ta phải tự đổi mới,
tự chỉnh đốn. Đó là nhiệm
vụ rất quan trọng và cấp
bách của toàn Đảng. Với
vị trí vai trò của mình sự
vươn lên của các Đảng
bộ cơ sở sẽ là yếu tố tác
động tích cực đến kết quả

của quá trình đó. Trên cơ
sở những yêu cầu đổi
mới và chỉnh đốn Đảng,
đồng thời từ thực trạng
của các tổ chức cơ sở
Đảng, việc nâng cao chất
lượng các tổ chức cơ sở
Đảng cần đáp ứng những
yêu câu sau đây:
-Làm cho cơ sở
quán triệt đường lối, chủ
trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà
nước, nghị quyết cấp trên,
căn cứ thựctế cơ sở đề ra
nhiệm vụ chính trị đúng
đắn và lãnh đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ chính
trị đem lại hiệu quả.
Đây là khâu đặc biệt
quan trọng trong việc
thựchiện vai trò lãnh đạo
của tổ chức cơ sở Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng phải
nắm vững đường lối
chính sách và pháp luật
của nhà nước, các chủ
trương, kế hoạch công
tác của cấp trên, những
đặc điểm, tâm tư, nguyện

vọng của nhân dân ở cơ
sở và thực hiện việc bàn
bạc, thảo luận dân chủ
trong Đảng bộ và trong
nhân dân để xác định
phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu phấn đấu chính
xác, chủ động của Đảng
bộ trong thời gian nhất
định theo đúng chức năng
lãnh đạo của mình.
Sau khi xác định
đúng đắn phương hướng
nhiệm vụ, bằng vai trò
tiên phoing gương mẫu
của đội ngũ Đảng viên và
24
bằng việc phát huy quyền
lànn chủ của quần chúng,
Đảng bộ tiến hành tổ
chức thực hiện, biến
những quyết định đó
thành hiện thực bằng
quyết tâm và kế hoạch
hành động.
Năng lực tổ chức
thực tiễn của tổ chức cơ
sở Đảng chính là nghệ
thuật khơi dậy, phát huy
trí tuệ của quần chúng.

Để có được năng lực tổ
chức thực tiễn tốt, đòi hỏi
cấp ủy Đảng tôn trọng
kinh nghiệm thực tiễn,
ham học hgỏi và rèn
luyện ở thực tiễn.
Năng lực đề ra
nhiệm vụ chính trị và
năng lực tổ chức thực tiễn
của tổ chức cơ sở Đảng
là hai mặt có liên quan
chặt chễ với nhau. Năng
lực đê ra nhiệm vu45
chính trị ở cơ sở là cơ sở
của năng lực tổ chức thực
tiễn. Còn năng lực tổ
chức thực tiễn của tổ
chức cơ sở Đảng thì trong
điều kiện nhất định ảnh
hưởng đến sữ phát triển
của năng lực đề ra nhiệm
vụ chính trị.
-Cải tiến nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi
bộ:
sinh hoạt chi bộ có
tầm quan trọng đặc biệt.
Nếu coi toàn Đảng là một
cơ thể sống trong đó chi
bộ là các tế bào cấu

thành tổ chức Đảng thì
sinh hoạt chi bộ thường
xuyên là “quá trình trao
đổi chất trong mỗi tế bào,
là dấu hiệu của sự sống”.
Do vậy hễ nơi nào, lúc
nào mà sinh hoạt chi bộ bị
lỏng lẻo, rời rạc không có
nội dung chính trị tư
tưởng cụ thể, thiết thực,
thì nơi đó, lúc đó đã bắt
đầu có nguy cơ đi chệch
hướng đường lối chính
sách của Đảng, hạ thấp
vai trò tiên phong, gương
mẫu của đảng viên, làm
cho kỉ luật của Đảng bị
buông lỏng…
Thời gian qua, nhiều
tổ chức cơ sở Đảng vẫn
giữ được nề nếp sinh
hoạt, nội dung sinh hoạt,
bám sát vào nhiệm vụ
chính trị, vào tình hình địa
phương. Song, cũng còn
nhiều chi bộ sinh hoạt
không đều, nội dung
nghèo nàn, đấu tranh tự
phê bình và phê bình
trong sinh hoạt yếu…. Để

nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ cần
chú ý các vấn đề sau:
+Chọn đúng nội
dung sinh hoạt và xác
định thời gian hợp lí cho
kì sinh hoạt. +Tiến hành
chuẩn bị chu đáo cho mỗi
kì sinh hoạt.
+Nâng cao trách
nhiệm chỉ đạo của Đảng
ủy cơ sở.
-Xây dựng cơ sở
Đảng trong sạch, vững
mạnh. Thu hẹp, tiến tới
không còn tổ chức cơ sở
Đảng yếu kém.
-Kết hợp sức mạnh
của tổ chức với sức mạnh
của từng đảng viên trong
chi bộ, Đảng bộ cơ sơ.û
cá nhân và tổ chức
có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tổ chức mạnh thì
từng thành viên trong đó
được rèn luyện, phát huy
tài năng; ngược lại, từng
người mạnh sẽ làm cho tổ
chức mạnh. Do đó, cần
phải chú ý đồng thời cả

việc xây dựng, hoàn thiện
chất lượng từng Đảng
viên với chất lượng của
các tổ chức cơ sở Đảng.
-Khuyến khích cơ sở
tăng cường tính năng
động, sáng tạo, đồng thời
tăng cường chỉ đạo,
hướng dẫn của tổ chức
Đảng cấp trên, trước hết
là cấp trên trực tiếp.
Đây là giải pháp
quan trọng, nhằm tháo gỡ
những khó khăn cho cơ
sở, tạo điều kiện cho cơ
sở đi đúng hướng. Vì thế,
các cấp trên của cơ sở,
nhất là cấp trên trực tiếp
theo chức trách của mình
cần đánh giá thực trạng
của cơ sở Đảng, từ đó có
chủ trương, kế hoạch chỉ
đạo cụ thể đối với từng
vùng và từng Đảng bộ cơ
sở, giúp cấp cơ sở xác
định nhiệm vụ chính trị,
phương hướng sản xuất-
kinh doanh và các hoạt
động xã hội khác. Soát
xét, kiện toàn đội ngũ cán

bộ cốt cán ở cơ sở, tăng
cường cán bộ tốt cho cơ
sở và đào tạo lại đội ngũ
cán bộ này. Giúp cơ sở về
vật chất và kỷ thuật, có
chính sách giúp cơ sở mở
rộng sản xuất.
Trên đây là những
biện pháp nâng cao chất
lượng các tổ chức cơ sở
Đảng tyrong giai đoạn
hiện nay. Đây là 1 trong
những vấn đề bức xúc
đang đặt ra cho công tác
xây dựng Đảng, chính vì
vậy mà ĐH IX đã ghi rõ:
“tất cả các Đảng bộ, chi
bộ ở cơ sở đều nắm vững
và thực hiện đúng chức
năng là hạt nhân lãnh đạo
chính trị đối với chính
quyền, đoàn thể, các tổ
chức kinh tế, sự nghiệp,
các mặt công tác và các
tầng lớp nhân dân ở cơ
sở, nâng cao tính chiến
đấu, khắc phục tình trạng
thụ động, ỷ lại, buông
lỏng vai trò lãnh đạo”(VK
IX, Nxb CTQG, HN 2001,

Tr 143)
Câu 6: Công tác cán
bộ
25
Bài làm
Công tác cán bộ là
khâu then chốt trong toàn
bộ hoạt động của Đảng,
là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân. Vị trí của
công tác cán bộ gắn liền
với vai trò đội ngũ cán bộ.
Cán bộ là 1 trong những
nhân tố quan trọng quyết
định sự thành công hay
thất bại của cách mạng.
Lênin chỉ rõ:" trong lịch
sử, chưa hề có 1 giai cấp
nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không
đào tạo ra được trong
hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức
và lãnh đạo phong trào"
(Lênin toàn tập, NXB Tiến
bộ, Maxcơva, 1974, tập 4,
trang 473)
Ở nước ta, công tác

cán bộ luôn đặt ở trung
tâm sự chú ý của Đảng.
Đảng ta luôn quán triệt lời
dạy của Bác Hồ :"cán bộ
là gốc của mọi công
việc",”công việc thành
công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém".(Hồ
Chí Minh toàn tập, NXB
chính trị QG, HN 1995,
tập 5, trang 269). Ở mỗi
giai đoạn, mỗi thời kỳ
cách mạng, Đảng ta luôn
ra sức xây dựng một đội
ngũ cán bộ thích ứng, có
phẩm chất, có năng lực
đáp ứng được sự đòi hỏi
của nhiệm vụ từng giai
đoạn, từng thời kỳ. Đảng
ta đặc biệt coi trọng việc
bồi dưỡng, đào tạo, bố trí
đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Đảng ta khẳng định :"mức
chính xác của đường lối,
chính sách và thành công
của việc thực hiện đường
lối, chính sách ấy đều tùy
thuộc cuối cùng ở chất
lượng của công tác cán
bộ”. Vì thế, công tác cán

bộ bao giờ cũng là vấn đề
chiếm giữ vị trí trung tâm,
chiến lược trong quá trình
xây dựng và phát triển
của Đảng.
Công tác cán bộ có mối
quan hệ chặt chẽ với
đường lối và nhiệm vụ
chính trị của Đảng , gắn
liền với tổ chức, với
phong trào cách mạng
của quần chúng.
- Giữa đường lối,
nhiệm vụ chính trị của
Đảng và cán bộ có mối
quan hệ biện chứng. Có
cán bộ lãnh đạo tốt mới
có thể đề ra được đường
lối và nhiệm vụ chính trị
đúng; chỉ có trên cơ sở,
đường lối, nhiệm vụ chính
trị đúng mới có thể làm
sản sinh đội ngũ cán bộ
tốt. Cán bộ đào tạo, rèn
luyện và trưởng thành
mới thi hành đường lối,
nhiệm vụ chính trị đúng.
Quan hệ giữa đường lối,
nhiệm vụ chính trị với cán
bộ là mối quan hệ nhân

quả. Đường lối dúng sẽ
hạn chế đến mức thất
nhất cán bộ mắc phải sai
lầm về khuynh hướng
chính trị, hạn chế bọn cơ
hội len lỏi vào Đảngvà
khó lòng lung lạc được
đội ngũ cán bộ Đảng viên.
Ngược lz5I cán bộ cũng
có vai trò rất quyết định
đối với đướng lối và
nhiệm vụ chính trị. Đội
ngũ cán bộ có phẩm chất
và năng lực tốt mới có thể
đề ra đướng lối đúng, mới
cụ thể hóa, bổ sung, hoàn
chỉnh đường lối, mới có
thể tổ chức thực hiện tốt
đường lối. Không có đội
ngũ cán bộ tốt thì đường
lối nhiệm vụ chính trị đúng
cũng không thể thành
hiện thực trong cuộc
sống. Tức là cán bộ quyết
định sự thành bại của bản
thân đường lối. Lênin
từng nói:”nghiên cứu con
người là tìm những cán
bộ có bản lĩnh. Hiện nay
đó là then chốt, nếu

không thế thì tất cả mệnh
lệnh và quyết định sẽ chỉ
là mớ giấy lộn". Với ý
nghĩa đó, nên khi tiến
hành công tác cán bộ
phải gắn với đường lối và
nhiệm vụ chính trị.
- Cán bộ là nhân tố
chủ yếu, nhân tố hàng
đầu và nhân tố”động"
nhất của tổ chức. Cán bộ
là người lập ra tổ chức.
Song đến lược mình, cán
bộ lai chịu sự chi phối,
rành buộc của tổ chức. Tổ
chức quyết định phương
hướng và hành động của
cán bộ. Tổ chức buộc cán
bộ phải hành động theo
nguyên tắc và khuôn khổ
nhất định. Tổ chức đúng
sẽ nhân sức mạnh của
cán bộ lên gấp bội. Cán
bộ có sức mạnh khi gắn
với tổ chức và nhân danh
tổ chức. Tách khỏi tổ
chức, cán bộ mất sức
mạnh quyền lực và hiệu
lực do tập thể tạo nên. Do
đó, muốn cán bộ tốt thì

phải gắn công tác cán bộ
với tổ chức, chăm lo xây
dựng tổ chức.
- Cán bộ và phong
trào cách mạng của quần
chúng có mối quan hệ
biện chứng, nên khi tiến
hành công tác cán bộ
phải kết hợp với phong
trào của quần chúng mới
có hiệu quả.
Phong trào cách mạng
của quần chúng làm sản
sinh những cán bộ tốt. Đó
là môi trường rèn luyện,
thử thách và sàng lọc cán
bộ. Mặt khác cán bộ lại là
người tuyên truyền, tổ
chức, duy trì phong trào
cách mạng của quần
chúng. Do đó muốn có đội
ngũ cán bộ tốt thì khi tiến
hành công tác cán bộ
phải quan tâm xây dựng

×