Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

quản điểm về xã hội của triết học nho giáo giá trị và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.98 KB, 9 trang )

TIỂU LUẬN: QUẢN ĐIỂM VỀ XÃ HỘI CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO.
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
(Nho tiền tần - Nho nguyên thủy)
Phần 1: Quá trình hình thành và phát triển
1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
- Về điều kiện tự nhiên: Trung Quốc cổ đại là vùng đất rộng lớn, chia làm hai niềm.
Miền bắc: xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô khan, cằn cỗi, sản vật nghèo
Miền nam: Khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp, sản xuất phong phú
- Về kinh tế - xã hội: đã có sự thay đổi căn bản
+ Thời kỳ Đông chu (770-221 tr.CN): quyền sở hữu tối cao về đất đai thuộc về tầng
lớp giai cấp địa chủ, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Nguyên nhân kinh tế
này làm xuất hiện sự phân hóa sang hèn dựa trên cở sở tài sản. Sự tranh giành địa vị xã
hội của thế lực cát cứ và đẩy xã hội Trung Quốc cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc
liệt
+ Điều kiện lịch sử ấy (quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất)
đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu để xây dựng chế độ phong kiến; giải thể nhà
nước chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản
xuất mở đường cho xã hội phát triển
Thực trạng ấy của xã hội đã làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm “kẻ sỹ”
luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu cho tương lai, hình thành các
tư tưởng lớn và trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Trong đó có 2 đường lối tiêu biểu là
Nho gia và pháp gia
- Tóm lại: Điều kiện tự nhiên trên quy định nội dung, tính chất của triết học. Nét đặc
thù của triết học Trung Quốc cổ, trung đại là hầu hết các thuyết có xu hướng đi sâu giải
quyết những vấn đề chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung bao trùm và vấn đề con
người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị quốc
2. Hoàn cảnh ra đờì của triết học Nho giáo
- Trong xã hội Trung hoa cổ đại, “nho” là một danh hiệu chỉ những người có học
thức, biết lễ nghi. Nho giáo là hệ thống giáo lí của các Nhà nho nhằm tổ chức xã hội có
hiệu quả. Những cơ sở đó được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt là sự đóng góp của
Chu Công Đán. Đến lượt mình, Khổng tử Phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống


hóa lại và tích cực truyền bá. Vì vậy, ông thường được xem là người sáng lập ra Nho
giáo.
- Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu
đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã hội biến chuyển
thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau.
Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng
thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân
nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần
là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc.
Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia (thiết lập một trật tự
nghiêm cẩn của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện ) nhưng không được
các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư,
Mạnh Tử, Tuân tử truyền bá rộng về sau.
- Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề
xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ
rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc
Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính.
Phần 2: Quan điểm về xã hội của triết học nho giáo
Nho gia, do Khổng Tử sáng lập, là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn nhất, là hệ
tư tưởng thống trị trong suốt thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và nhiều nước khác như
Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm và
Tuân Tử phát triển về phía duy vật.
1. Khổng Tử
1.1. Xây dựng năm mối quan hệ xã hội: Ngũ luân, tam cương
- Coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong đó các quan hệ
như : vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Năm mối quan hệ này về sau được Nho
gia gọi là Ngũ luân, trong đó có ba mối quan hệ cốt lõi: vua -tôi, cha-con, chồng-vợ
được gọi là Tam cương.
>> Giai quyết hài hòa: chia thành hai về âm và dương. Dương làm chủ và âm là phụ
thuộc

- Khổng Tử coi nguyên nhân xã hội loạn lạc là do sự suy thoái đạo đức xã hội. Ông
mong muốn khôi phục lại trật tự xã hội kiểu nhà Chu, một kiểu xã hội được ông coi là
mẫu mực, lý tưởng. Đó là một trật tự xã hội có đẳng cấp, tôn ti trật tự, từ vua tôi đến thứ
dân ai cũng phải lấy nhân, nghĩa, lễ, chính danh làm chuẩn mực.
- Đề đảm bảo nguyên tắc trên thực thi được thì cần xây dựng chuẩn mực đạo đức để
thực hiện. Cần phải chuẩn mực hóa đạo đức dưới hình thức “điền tích”
1.2. Những phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị - đạo đức của Khổng Tử
là Nhân, Nghĩa, Lễ, chính danh.
- Nhân là lòng thương người. Phàn Trì hỏi thế nào là Nhân, Khổng Tử đáp “Ái nhân”
(Yêu người). Nhân được hiểu như là “toàn đức” Nhân có hai khía cạnh – trung và thứ:
Trung là thành thật với người, “Mình muốn lập thân thì hãy giúp người khác lập thân.
Mình muốn thành đạt thì hãy giúp người khác thành đạt”. (Kỷ dục lập nhi lập nhân. Kỷ
dục đạt nhi đạt nhân) Thứ là lòng vị tha, khoan dung. “Điều mình không muốn thì đừng
làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân).
Người nhân biết thương người nhưng cũng biết ghét người. Nhân có tính đẳng cấp
thể hiện trong các mối quan hệ cụ thể: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
Trong đạo nhân, hiếu là gốc. Hiếu không chỉ thể hiện ở việc nuôi nấng cha mẹ mà
quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì
có khác gì nuôi thú vật”.
- Nghĩa là hành vi đạo đức biểu hiện của lòng nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh
lợi ích của mình vì người khác. Vì thế, nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau. Khổng
Tử nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân
dụ ư lợi).
- Lễ là hình thức biểu hiện của nhân, biểu hiện lòng thương yêu, quý trọng con
người. Lễ bao gồm nhiều mối quan hệ rộng lớn từ quan hệ với thần linh (tế lễ) đến quan
hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo đức, phong tục tập quán, quan hệ nhà nước,
luật pháp, v.v
Theo Khổng Tử, tuân theo lễ là một điều kiện để thực hiện nhân đức. Khổng Tử nói
“Khắc kỷ phục lễ vi nhân”. “Không biết lễ không thể đứng vững”. Người quân tử không
bao giờ làm trái với lễ. “Cái gì trái với lễ thì không nhìn, điều gì trái với lễ thì không

nghe, điều gì trái với lễ thì nói, điều gì trái với lễ thì không làm” (Phi lễ vật thị, phi lễ vật
thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động).
Cùng với lễ, nhạc cũng có vai trò quan trọng. Khổng Tử nói “Hưng khởi là nhờ thi,
tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ nhạc”. Nhạc mà chính trực, trang nghiêm, hòa nhã có
tác dụng nuôi dưỡng tâm tính, cảm hóa lòng người, hướng cái tâm con người tới chân,
thiện, mỹ.
- Khổng Tử coi chính danh là điều cơ bản để trị nước. Danh là tên, khái niệm, bản
chất. Chính danh có nghĩa là người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó,
phải làm đúng danh phận, chức trách của mình, “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra
con” (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử).
Danh mà không chính thì ngôn (lời nói) sẽ không thuận (không có tính thuyết phục,
sẽ không được nghe và làm theo). Khổng Tử nói: “Thân mình chính được thì không phải
hạ lệnh mọi việc vẫn tiến hành. Thân mình mà không chính được thì dù có hạ lệnh cũng
chẳng ai theo”. Nhân, lễ, chính danh không chỉ là đạo làm người, mà còn là đạo trị nước.
Khổng Tử coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Đường lối này được
gọi là đường lối “đức trị”, hay “nhân trị”. Để cho đất nước thịnh trị, phải biết thượng hiền
(tôn trọng người hiền tài). Phải thực hiện 3 điều: thực túc, binh cường, dân tín.
2. Quan điểm chính trị - xã hội của Mạnh Tử
- Ông phát triển học thuyết của Khổng Tử thành học thuyết nhân chính, chủ trương
lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo lực. Ông phân biệt vương
chính (cai trị bằng nhân nghĩa) với bá chính (cai trị bằng bạo lực). Mạnh Tử nói: “Kẻ lấy
sức mạnh nói thác nhân là bá… Kẻ lấy đức thi hành nhân là vương… Lấy sức mạnh thu
phục người, không phải lòng người theo mà vì sức mạnh không đủ. Lấy đức thu phục
người thì người ta vui lòng theo mình một cách thành thực như bảy muơi đệ tử theo
Khổng Tử vậy”.
- Mạnh Tử coi dân là quan trọng nhất, kế đến là giang sơn xã tắc, vua là thường
thôi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn
trọng lẫn nhau. Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ thù. Nếu vua
không có đạo đức thì không còn xứng đáng là vua nữa mà chỉ là “một thằng” thôi và
nhân dân có quyền đạo đức để lật đổ ngôi vua.

Thời Mạnh Tử, chế độ công hữu tan rã, chế độ tư hữu ra đời. Mạnh Tử chủ trương để
cho dân chúng có hằng sản mới có hằng tâm nghĩa là dân phải có tư liệu sản xuất (ruộng
đất để canh tác) ổn định thì mới có cái tâm ổn định được.
Tóm lại, triết học của Mạnh Tử tuy còn mang yếu tố duy tâm và thần bí (hạn chế)
nhưng trong học thuyết về CT-XH với tư tưởng “nhân chính”, “dân bản” có ý nghĩa tiến
bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử XH.
3. Quan điểm chính trị- xã hội của Tuân Tử
- Là người phát triển học thuyết của Khổng Tử, đề cao nhân, nghĩa, lễ nhạc và chính
danh, tuy nhiên, Tuân Tử phản đối quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử về những
vấn đề chính trị và đạo đức. Ông đứng trên quan điểm duy vật và vô thần (tích cực),
ông cho rằng tự nhiên gồm 3 bộ phận: trời, đất và người. Trời chỉ là một bộ phận của tự
nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến hoá của vạn vật. Như vậy, trời không
quyết định vận mệnh của con người, con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên.
Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu con
người hành động thuận với lẽ tự nhiên thì lành, trái lại sẽ gặp loạn “Lấy sự trị mà đối phó
với đạo thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.
- Không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự nhiên
và XH để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông phê phán mê tín dị đoan, việc tôn thờ
trời, ỷ lại trời, khuyên con người nên tin ở sức mình, ra sức phát triển sản xuất, thực hành
tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho nghèo khó và bệnh tật.
Về đạo đức ông đưa ra thuyết tính ác cho nên ông chủ trương sửa trị việc nước, giáo dục
đạo đức, lễ nghĩa làm cho XH tiến bộ, văn minh hơn. Ông đề cao “lễ trị”, ông cho rằng lễ
nghĩa và đẳng cấp trong XH là cần thiết để duy trì trật tự XH.
Phần 3: Giá trị và hạn chế
Tóm lại, quan điểm đạo đức – chính trị – xã hội của Khổng – Mạnh là xây dựng mẫu
người quân tử. Muốn trở thành người quân tử không chỉ có tu thân, dù tu thân là gốc mà
phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn hành động hiệu quả người quân
tử phải thực hành đường lối nhân trị, - cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi
người như bản thân mình , - và chính danh, - cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra
cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ. Chỉ có như vậy thì người quân tử, tức giai cấp

cai trị, mới xây dựng được một xã hội đại đồng.
1. Giá trị
1.1. Mặt tích cực chung của trường phái Nho giaó
-Đề cập đến tất cả các vấn đề của triết học, nhưng tập trung vào vấn đề chính trị, xã
hội, đạo đức;
Quan điểm về xã hội, đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hòa mâu
thuẫn giai cấp, phản đối chiến tranh. Theo đường lối này, giai cấp thống trị phải thương
yêu, tôn trọng, chăm lo cho dân; nhân dân phải an phận, lấy nghèo làm vui (an bần nhi
lạc), nghèo mà không oán trách (bần nhi vô oán).
Nho gia đề cao đạo đức và trách nhiệm của con người đối với xã hội. Nho gia đặt con
người trong năm mối quan hệ với những lập luận chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn
đấu và nội dung tu dưỡng của con người. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã hội
- Nho gia nguyên thủy Khổng - Mạnh chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát lên
tinh thần biện chứng sâu sắc. Điều này không có trong Nho giáo hậu Tần
-Có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung Hoa và nhiều dân tộc xung quanh;
-Có đóng góp to lớn vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
1.2. Ảnh hưởng tích cực của Nho giaó tới Việt Nam
Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã hội như trên
đã nói, cho nên trong buổi thịnh tự nhất, nó không khỏi có một số tác dụng tích cực.
Nhưng nét độc đáo của Văn hóa Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp nhận
những yếu tổ riêng lẻ và Việt Nam hóa để rồi cấu tạo lại theo cách của mình. Nho giáo
Việt Nam là một hệ thống như thế
- Tuy nhiên, nếu ở Trung Quốc, các triều đại phong kiến chỉ dung Nho giáo để giữ
yên ngai vàng, còn bên ngoài thì luôn chủ trương bành trướng, xâm lăng. Đối với Việt
Nam – một nước nông nghiệp, ước mong về một cuộc sống ổn định, không xáo trộn là
một truyền thống lâu đời. Do vậy, ở Việt Nam như cầu duy trì sự ổn định không chỉ có
dân mà ở cả triều đình, không chỉ trong đối nội mà cả đối ngoại. Các cuộc chiến tranh mà
người Việt Nam từng phải thực hiện đều mang tính tự vệ.
- Như đã biết, quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu phát
triển nền kinh tế tiểu nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của nhà

nước và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Vì thế cho nên khi
chiếm được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho giáo càng
có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho sản xuất nông nghiệp và trao đổi hàng
hoá được đẩy mạnh hơn trước.
- Đồng thời Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh
thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho nền giáo dục phát
triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Hệ thống thi cử đẻ tuyển chọn
người tài bổ dụng vào bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận dựng
ngay từ đầu triều Lí, hoàn thiện dần vào thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Từ kì thi
đầu tiên (năm 1075) đến kỳ thi cuối cùng của lịch sử khoa cử phong kiến (năm 1919),
trong vòng 844 năm có tất cả là 185 khoa thi, với 2875 người đỗ, trong đó có 56 trạng
nguyên. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông
đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó khoa học và văn
học nghệ thuật phát triển.
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần
thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập
thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội,
những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của
dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà
vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.
- Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2015 Đảng ta xã định mục tiêu: tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo
chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con
người. Và trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011),
Đảng ta đặt mục tiêu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán
bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn, đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề.
2. Hạn chế
2.1. Hạn chế chung của triết học nho giáo
- Chế độ công hữu với phép tỉnh điền của nhà Chu không còn giá trị thực tế nữa;
trong khi đó, chế độ tư hữu ngày càng phát triển. Những lời căn dặn của Khổng Tử với
học trò không còn hiệu quả trong đời sống xã hội, trở thành chướng ngại cho sự phát triển
Nho giáo nguyên thủy khao khát cải biến xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc từ loạn
thành trị là một khao khát thầm kín của cả thiên hạ lúc bấy giờ. Nó thể hiện tính nhân bản
sâu sắc. Đòi hỏi của Nho giáo nguyên thủy về người cai trị - người quân tử không thể là
dân võ biền mà phải là người có một vốn văn hóa toàn diện là một đòi hỏi chính đáng.
Nhưng chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của Nho giáo hoàn toàn không dựa trên
các quan hệ kinh tế – xã hội, không xuất phát từ việc xây dựng nền sản xuất vật chất,
không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, tức “bọn” tiểu nhân, mà chỉ dựa trên các quan
hệ đạo đức – chính trị – xã hội, xuất phát từ việc giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân
cho tầng lớp thống trị và chỉ dựa duy nhất vào tầng lớp thống trị là một chủ trương duy
tâm, ảo tưởng, xa rời thực tế cuộc sống bấy giờ. Ý tưởng về xã hội đại đồng cho dù đã
làm lay động trái tim và khối óc của biết bao con người, nhưng nó mãi mãi chỉ là một lý
tưởng chính trị rất cao đẹp của tầng phong kiến thống trị xã hội Trung Quốc. Do không
phù hợp với ước vọng của quần chúng nhân dân, vì vậy, nó mãi mãi chỉ là một lý tưởng.
Nho gia nguyên thủy đã làm nổi bật khía cạnh xã hội của con người; tuy nhiên, khía
cạnh xã hội của con người đã bị hiểu một cách hạn chế và duy tâm. Đây là điểm khác so
với quan điểm của Đạo gia – trường phái triết học nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con
người.
- Nặng về giáo dục chính trị đạo đức không coi trọng việc giáo dục tri thức khoa học,
kỹ thuật. Khổng Tử coi sản xuất là công việc của kẻ tiểu nhân, không phải là trách nhiệm
của người quân tử; Tư tuởng triết học và đường lối giáo dục không gắn khoa học với kỹ
thuật và sản xuất
- Chủ trương theo khuôn mẫu cũ, không khuyến khích việc sáng tạo ra cái mới;
- Trong thời kỳ trung đại chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tuởng chính trị và đạo

đức phong kiến;
- Sự thống trị của hệ tư tuởng Nho gia trong suốt thời kỳ phong kiến đó làm mất đi
tính sáng tạo và tự do tư tưởng trong thời cổ đại.
2.2. Mặt tiêu cực của Nho giáo tới Việt Nam
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi
sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà
trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh
hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ
không hề đếm xỉa đến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất
và lưu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không nhỏ
trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam không
tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ, vì mối
quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ chính trị và đạo
đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải
phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn
đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng.
Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát triển
mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những
quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã
hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu.
Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác
động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hoá tại
các vùng nông thôn Việt Nam

×