Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

một số đặc điểm dịch tễ học, sinh học trong điều kiện sinh thái ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hòa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 24 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, các bệnh ký sinh trùng truyền lây giữa động
vật và người ngày một tăng. Trong đó Gnathostoma được Trung tâm Phòng
chống bệnh tật của Mỹ gọi là bệnh mới nổi.
Ở nước ta, bốn loài Gnathostoma gây bệnh trên động vật đã được ghi
nhận. Người nhiễm bệnh lần đầu là một bé trai bốn tuổi ở Tây Ninh, được
phát hiện năm 1965, đến năm 1993 cũng chỉ có thêm một vài trường hợp.
Từ cuối năm 1998 đến nay, số ca nhiễm mầm bệnh này lên đến hàng ngàn
người. Mặc dù được phát hiện từ lâu, nhưng các công trình nghiên cứu về
lồi này cịn ít. Trước những u cầu thực tế đó, chúng tơi tiến hành nghiên
cứu đề tài này nhằm làm rõ hơn một số đặc điểm dịch tễ học, sinh học trong
điều kiện sinh thái ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa.
2. Mục tiêu của của đề tài
Xác định được sự phân bố, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm bệnh do
Gnathostoma sp. gây ra trên một số động vật tại thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ và Khánh Hịa; Xác định được thành phần lồi gây bệnh và nghiên
cứu vịng đời; Xác định nguy cơ truyền lây bệnh từ động vật sang người và
đề xuất biện pháp phòng trị.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Bệnh Gnathostoma ở chó, lợn tại thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ và tỉnh Khánh Hòa; vật chủ trung gian của G.
spinigerum (một số lồi copepod nước ngọt, cá lóc, lươn, ếch).
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện tại một số địa điểm ở
Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và tỉnh Khánh Hòa từ năm 2011-2014.
4. Ý nghĩa khoa học
Là cơng trình nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm dịch tễ học, định
lồi bằng hình thái học và kỹ thuật phân tử, vòng đời, bệnh lý lâm sàng, điều



2
trị thử nghiệm, xác định nguy cơ truyền lây mầm bệnh từ động vật sang
người và biện pháp phòng trị.
Cung cấp thêm tư liệu khoa học về loài G. spinigerum ký sinh trên chó,
đồng thời bổ sung cho giáo trình ngành thú y để phục vụ công tác giảng dạy.
5. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người dân áp dụng
biện pháp phòng trị bệnh, nhằm giảm thiểu những tác động có hại, góp phần
bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phát triển chăn ni theo hướng bền vững.
6. Những đóng góp mới của luận án
Đã xác định được tỷ lệ nhiễm ấu trùng G. spinigerum trên cá lóc, lươn,
ếch và giun G. spinigerum trên chó ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,
Khánh Hòa và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm (đây là lần
đầu phát hiện mầm bệnh ở tỉnh Khánh Hòa và ở thành phố Cần Thơ).
Lần đầu ở Việt Nam xác định loài G. spinigerum gây bệnh trên động
vật bằng kỹ thuật phân tử, nghiên cứu vòng đời, xác định triệu chứng lâm
sàng, bệnh tích đại thể, bệnh tích vi thể và điều trị chó nhiễm G. spinigerum;
Xác định nguy cơ truyền lây mầm bệnh G. spinigerum từ động vật sang
người và đề xuất biện pháp phòng trị bệnh trên động vật.
7. Bố cục của luận án
Luận án gồm 115 trang (không kể phụ lục), chia thành các phần: Mở
đầu (3 trang), Chương 1: Tổng quan tài liệu (37 trang); Chương 2: Vật liệu,
nội dung và phương pháp nghiên cứu (12 trang); Chương 3: Kết quả và thảo
luận (50 trang): Kết luận và đề nghị (2 trang); Tài liệu tham khảo (10 trang,
có 124 tài liệu); Luận án có 19 bảng biểu và 25 hình ảnh minh họa.


3
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Ví trí của Gnathostoma trong hệ thống phân loại

Theo Phan Thế Việt (1977) [25], Gnathostoma thuộc lớp giun tròn
Nematoda, Bộ: Spirurida; Họ Gnathostomatidae; Giống Gnathostoma.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở nước ta, các nghiên cứu Gnathostoma gây bệnh trên động vật cịn ít,
chỉ có một số cơng trình khảo sát tình hình nhiễm G. hispidum trên lợn (Bùi
Lập, 1964; Phạm Văn Chức, 1985; Nguyễn Hữu Hưng, 1993; Phạm Văn
Khuê, 1996; Lương Văn Huấn, 1998); tình hình nhiễm G. spinigerum trên
chó (Nguyễn Hữu Hưng, 2002; Lê Hữu Khương, 2007). Ngoài ra, một số
điều tra tình hình nhiễm ấu trùng ở lươn và cá lóc (Le T. X, 2000; Nguyễn
Văn Đề, 2001; Sieu T. P, 2009).
Người nhiễm bệnh lần đầu được phát hiện vào năm 1965, đến nay nhiều
trường hợp nhiễm mầm bệnh được phát hiện bởi các tác giả: Trần Xuân Mai
(1992); Nguyễn Văn Tiến (1997); Nguyễn Quang Vinh (2001); Lê Thị Xuân
(2002); Trần Thị Hồng (2004); Trần Phú Mạnh Siêu (2011); Triệu Nguyên
Trung (2012),…
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học trên thế giới đã có những
nghiên cứu về thành phần lồi và sự phân bố của chúng. Sự phân bố ở mỗi
khu vực, mỗi quốc gia phụ thuộc vào khu hệ động vật, điều kiện địa lý, khí
hậu và tập quán chăn nuôi,…. Theo các tài liệu đã công bố cho thấy, bệnh
chủ yếu ở các nước Châu Á và Châu Mỹ: Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Lào, Đài
Loan,

Bangladesh,

Pakistan,

[50][51][53][65][67][71][73][75].


Israel,

Ecuador,

Peru,

Mexico,…


4
CHƢƠNG II:
NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Xác định tình hình nhiễm ấu trùng, giun Gnathostoma sp. trên
một số động vật tại thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa
Xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng trên cá lóc, lươn và ếch theo các chỉ tiêu
địa phương, điều kiện sống, mùa vụ. Xác định tỷ lệ nhiễm giun trên chó và
lợn theo các chỉ tiêu địa phương, nhóm tuổi, mùa vụ.
2.1.2. Định loài Gnathostoma thu thập đƣợc trên một số động vật
Định lồi bằng hình thái học và kỹ thuật phân tử.
2.1.3. Nghiên cứu vòng đời của G. spinigerum
Gây nhiễm mầm bệnh cho vật chủ trung gian thứ nhất (cyclop).
Gây nhiễm mầm bệnh cho vật chủ trung gian thứ 2 (cá lóc, lươn, ếch).
Gây nhiễm mầm bệnh cho vật chủ cuối cùng (chó, lợn).
2.1.4. Nghiên cứu bệnh lý lâm sàng chó nhiễm G. spinigerum
Gây nhiễm chó, xác định triệu chứng lâm sàng. Mổ khám chó nhiễm
bệnh, xác định bệnh tích đại thể. Làm tiêu bản bệnh lý tế bào, xác định bệnh
tích vi thể.
2.1.5. Nghiên cứu biện pháp phịng trị bệnh Gnathostoma

Xác định nguy cơ truyền lây mầm bệnh từ động vật sang người.
Điều trị chó nhiễm G. spinigerum và đề xuất biện pháp phòng trị.
2.2. NGUYÊN, VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
Trứng, ấu trùng và giun Gnathostoma sp.; chó, lợn, cá lóc, lươn, ếch và
các lồi cyclop nước ngọt. Một số hóa chất và thiết bị cần thiết để nghiên
cứu vòng đời, tiêu cơ, kỹ thuật PCR,…
2.3. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Các thí nghiệm được thực hiện tại Bộ môn nghiên cứu Ký sinh Trùng,
Phân viện Thú y miền Trung; Bộ môn Thú y, Đại học Cần Thơ. Làm bệnh
lý tế bào tại bộ môn bệnh lý, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Định loài


5
Động vật phù du tại phòng Sinh vật phù du, Viện hải Dương Học, Nha
Trang. Giải trình tự gen tại Công ty Macogen Inc, Hàn Quốc. Thu thập mẫu
tại một số địa điểm ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hòa.
2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Xác định tình hình nhiễm ấu trùng, giun Gnathostoma sp. tại
thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa
Thiết kế nghiên cứu: Điều tra cắt ngang, chọn mẫu ngẫu nhiên đơn.
Tính dung lượng mẫu bằng phần mềm Win Episcope 2.0.
Xét nghiệm thăm dị 50 mẫu cá lóc, 50 mẫu lươn, 50 mẫu ếch cho thấy
tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 3%. Ở độ tin cậy 95%, ta có số mẫu n = 45 mẫu x 2
mùa x 2 loại mẫu (tự nhiên và ni) = 180 mẫu/lồi/tỉnh.
Mổ khám thăm dị 100 chó cho thấy tỷ lệ nhiễm là 25%. Ở độ tin cậy
95%, ta có số mẫu n = 289 mẫu x 3 độ tuổi x 2 mùa = 1734 mẫu/tỉnh.
Tỷ lệ nhiễm trên lợn khoảng 30% (Lương Văn Huấn, 1998). Ở độ tin
cậy 95%, ta có số mẫu n = 320 mẫu x 3 độ tuổi x 2 mùa = 1920 mẫu/tỉnh.
Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ nhiễm: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5
đến hết tháng 11 và mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến hết tháng 4 năm sau.

Chó được phân ra 3 nhóm tuổi (< 1 năm, 1-2 năm và >2 năm). Điều kiện
sống (cá lóc, lươn, ếch tự nhiên và ni).
Xét nghiệm mẫu: Xác định tỷ lệ nhiễm giun trên chó, lợn bằng
phương pháp mổ khám khơng tồn diện. Xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng trên
cá lóc, lươn, ếch bằng phương pháp ép cơ và tiêu cơ.
2.4.2. Phƣơng pháp định loài Gnathostoma
Định lồi bằng hình thái học: Định lồi dựa vào đặc điểm kích thước,
hình thái, cấu tạo của Gnathostoma được các tác giả mô tả (Takeichi, 1956;
Soesatyo, 1985; Daengsvang, 1980; Miyazaki, 1955,… Theo hệ thống phân
loại của Phan Thế Việt (1977).
Định loài bằng kỹ thuật phân tử: Thành phần phản ứng PCR cho vào
mỗi ống tương ứng 50 µl (25 µl PCR master mix, 2 µl Primer F, 2µl Primer


6
R, 11 µl nước, 10 µl ADN mẫu). Cặp mồi đoạn gen ITS2 [31][46]: mồi xuôi
5’-

TGTGTC

GATGAAGAACGCAG

-3’;

mồi

ngược

5’0


TTCTATGCTTAAAT TCAGGGG-3’. Chạy PCR với 1 chu kỳ ở 94 C 1
phút 30 giây, tiếp theo là 30 chu kỳ ở 940C 1 phút 30 giây, 520C 1 phút 30
giây, 720C 2 phút và cuối cùng là 1 chu kỳ ở 720C 10 phút. Sản phẩm PCR
điện di trên thạch agarose 1,2%, với hiệu điện thế 100V (40 phút).
2.4.3. Nghiên cứu vòng đời của G. spinigerum
Gây nhiễm cyclop: Cyclop được nuôi trong bể thủy tinh, mỗi bể
khoảng 3000-3500 con đảm bảo đủ tiêu chuẩn thí nghiệm. Cho trứng G.
spinigerum vào đĩa petri, để ở nhiệt độ 24-300 C (nhiệt độ môi trường) và
theo dõi quá trình phát triển. Khi trứng nở thu thập ấu trùng cho vào bể nuôi
cyclop, mỗi bể khoảng 9000-9500 ấu trùng.
Gây nhiễm cá lóc, lƣơn và ếch: Cá lóc 50-95 gram, lươn 100-150
gram, ếch 50-80 gram được ni trong phịng thí nghiệm, đảm bảo đủ tiêu
chuẩn thí nghiệm. Gây nhiễm bằng cách cho cá lóc, lươn, ếch ăn cyclop
nhiễm ấu trùng (20 ấu trùng/con).
Gây nhiễm chó và lợn: Mầm bệnh là nang kén G. spinigerum thu thập
từ cá lóc, lươn và ếch. Gây nhiễm cho lợn 2 tháng tuổi và chó 3 tháng tuổi,
đảm bảo đủ tiêu chuẩn động vật thí nghiệm (mỗi con cho nuốt 15 nang kén).
2.4.4. Đề xuất biện pháp phịng trị bệnh
Tổng hợp tình hình nhiễm ấu trùng trên động vật, phân tích khả năng
sống của ấu trùng đối với một số tác nhân vật lý và hóa học; khảo sát tập
quán ăn uống của người dân, từ đó xác định nguy cơ nhiễm mầm bệnh trên
người. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh dựa trên cơ sở phân tích một số đặc
điểm dịch tễ học, nghiên cứu vòng đời và điều trị thử nghiệm.
2.4.5. Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng Exel 2007; so sánh sai khác bằng Epicalc
2000; So sánh trình tự nucleotit sử dụng BioEdit 2000; Chuỗi nucleotit truy
cập ngân hàng gen qua chương trình Blast; Tạo cây phả hệ sử dụng Mega.


7

CHƢƠNG III:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình nhiễm ấu trùng, giun Gnathostoma sp. trên một số động
vật tại thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa
3.1.1. Xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng Gnathostoma sp. trên cá lóc, lƣơn,
ếch tại thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hòa
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Gnathostoma sp. trên cá lóc, lươn, ếch tại thành
phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hòa được thể hiện ở bảng 3.2. Kết
quả cho thấy: tỷ lệ nhiễm chung ấu trùng trên cá lóc, lươn, ếch lần lượt là
2,42%; 3,21% và 0,63%. Trong đó tỷ lệ nhiễm trên cá lóc tự nhiên 4,52%
cao hơn so với cá lóc ni 0,57%, tỷ lệ nhiễm trên lươn tự nhiên 5,31% cao
hơn so với lươn ni 1,16% (P<0,05); Tỷ lệ nhiễm trên cá lóc ở mùa khô là
2,64% và 2,18% ở mùa mưa; tỷ lệ nhiễm trên lươn ở mùa khô là 3,28% và
3,14% ở mùa mưa, tỷ lệ nhiễm trên ếch ở mùa khô là 0,61% và 0,65% ở
mùa mưa (Kết quả so sánh khơng có sự khác nhau giữa mùa khơ và mùa
mưa, P>0,05).
Một số cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu
trùng Gnathostoma sp. trên cá lóc, lươn, ếch là khá cao và có sự biến động
khá lớn giữa các vùng nghiên cứu (Koga, 2010; Rojekittikhun, 2004,
Sugaroon, 2003; Saksirisampan, 2012; Oyamada, 1998; Woo, 2011). Ở
nước ta, những nghiên cứu tỷ lệ nhiễm ấu trùng trên cá lóc, lươn, ếch đang
cịn ít và chủ yếu phát hiện lươn nhiễm ấu trùng G. spinigerum (Le T. X,
2000; Nguyễn Văn Đề, 2001; Sieu T. P, 2009).


8
Bảng 3.2: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Gnathostoma sp. trên cá lóc, lƣơn, ếch
Địa

Lồi


Mùa vụ

điểm

Số mẫu nhiễm/số mẫu xét nghiệm (%)
Tự nhiên

Ni

Tổng cộng

Khánh

Lươn

Hịa

Ếch
Cá lóc
TP

Lươn

HCM

Ếch
Cá lóc
Cần


Lươn

Thơ

Ếch

Cá lóc

2/62 (3,22)

0/54 (-)

2/116 (1,72)

Mùa mưa

3/48 (6,25)

0/73 (-)

3/121 (2,48)

Mùa khô

2/54 (3,70)

1/58 (1,72)

3/112 (2,68)


Mùa mưa

2/60 (3,33)

1/62 (1,61)

3/122 (2,45)

Mùa khô

1/41 (2,44)

0/79 (-)

1/120 (0,83)

Mùa mưa

1/30 (3,33)

0/72 (-)

1/102 (0,98)

Mùa khô

4/60 (6,67)

1/55 (1,82)


5/115 (4,35)

Mùa mưa

3/45 (6,67)

1/56 (1,79)

4/101 (3,96)

Mùa khô

5/49 (10,20)

1/61 (1,64)

6/110 (5,45)

Mùa mưa

4/56 (7,14)

1/65 (1,54)

5/121 (4,13)

Mùa khô

1/34 (2,94)


0/74 (-)

1/108 (0,92)

Mùa mưa

1/35 (2,86)

0/75 (-)

1/110 (0,91)

Mùa khô

2/55 (3,64)

0/55 (-)

2/110 (1,81)

Mùa mưa

0/40 (-)

0/59 (-)

0/99 (-)

Mùa khô


2/63 (3,17)

0/50 (-)

2/113 (1,77)

Mùa mưa

3/57 (2,56)

0/50 (-)

3/107 (2,80)

Mùa khô

0/32 (-)

0/68 (-)

0/100 (-)

Mùa mưa

0/45 (-)

0/50 (-)

0/95 (-)


Mùa khơ

Cá lóc

Mùa khơ

8/177 (4,52)

1/164 (0,61)

9/341 (2,64)

Mùa mưa

6/133 (4,51)

1/188 (0,53)

7/321 (2,18)

14/310 (4,52)

2/352 (0,57)

16/662 (2,42)

9/166 (5,42)

2/169 (1,18)


11/335 (3,28)

Tổng cộng
Lƣơn

Mùa khô
Mùa mưa

2/177 (1,13)

11/350 (3,14)

18/339 (5,31)

4/346 (1,16)

22/685 (3,21)

Mùa khô
Ếch

9/173 (5,20)

Tổng cộng

2/107 (1,87)

0/221 (-)

2/328 (0,61)


Mùa mưa

2/110 (1,81)

0/197 (-)

2/307 (0,65)

Tổng cộng

4/217 (1,84)

0/418 (-)

4/635 (0,63)


9
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở mẫu tự nhiên cao hơn so với mẫu ni, có thể
do mơi trường ni thường xuyên được cải tạo, vệ sinh, tiêu độc,… Thức ăn
chủ yếu là thức ăn cơng nghiệp nên cá lóc, lươn, ếch ni ít ăn được cá con
hoặc ăn cyclop nhiễm mầm bệnh.
Đặc điểm của G. spinigerum có vịng đời gián tiếp, mầm bệnh phát
triển ở vật chủ là khá dài: trứng ở môi trường nước 7-18 ngày, ấu trùng ở
cyclop 7-20 ngày và 29-45 ngày ở cá lóc, lươn, ếch; Mặt khác, khi ấu trùng
đã tạo thành dạng nang kén thì chúng có thể tồn tại khá lâu trong cơ thể vật
chủ. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ nhiễm ấu
trùng không khác nhau giữa mùa khô và mùa mưa.
3.1.2. Tỷ lệ nhiễm giun Gnathostoma sp. trên chó tại thành phố Hồ Chí

Minh, Cần Thơ và Khánh Hòa
Bảng 3.4: Tỷ lệ nhiễm giun Gnathostoma sp. trên chó
Địa

Mùa vụ

điểm

Số con nhiễm/số con mổ khám (%)
< 1 năm

TP HCM
Cần Thơ

1-2 Năm

>2 năm

Tổng cộng

Mùa khô

1/190 (0,53)

7/490 (1,42)

8/769 (1,04)

16/1449 (1,10)


Mùa mưa

0/206 (-)

5/453 (1,10)

9/762 (1,18)

14/1421 (0,98)

Mùa khô

0/225 (-)

3/601 (0,50)

3/319 (0,94)

6/1145 (0,52)

Mùa mưa

0/220 (-)

3/513 (0,58)

1/360 (0,27)

4/1093 (0,37)


Khánh

Mùa khô

0/201 (-)

2/565 (0,35)

4/566 (0,71)

6/1332 (0,45)

Hịa

Mùa mưa

0/220 (-)

2/310 (0,64)

3/415 (0,72)

5/945 (0,53)

Mùa khơ

1/616 (0,16)

12/1656 (0,72) 15/1654 (0,91)


28/3926 (0,71)

Mùa mƣa

0/646 (-)

10/1276 (0,78) 13/1537 (0,84)

23/3459 (0,66)

1/1262 (0,08)

22/2932 (0,75) 28/3191 (0,88)

51/7385 (0,69)

Tổng cộng

Tổng số 7385 chó được mổ khám tại thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ
và Khánh Hịa. Kết quả bảng 3.4 cho thấy có 51 con nhiễm giun
Gnathostoma sp., với tỷ lệ nhiễm 0,69%. Trong đó tỷ lệ nhiễm trên chó ở
mùa khơ là 0,71% và 0,66% ở mùa mưa (P>0,05); tỷ lệ nhiễm trên chó ở
nhóm tuổi < 1 năm là 0,08% thấp hơn so với nhóm tuổi 1-2 năm 0,75% và
nhóm tuổi > 2 năm 0,88% (P<0,05).


10
Trên thế giới, những cơng trình nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm G.
spinigerum trên chó chủ yếu ở Thái Lan (Daengsvang, 1980; Maleewong,
1992; Rojekittikhun và cs, 2000). Ở nước ta các nghiên cứu đánh giá tỷ lệ

nhiễm trên chó cịn ít và chủ yếu phát hiện chó ở các tỉnh phía Nam nhiễm
mầm bệnh: Nguyễn Hữu Hưng (2002); Lê Hữu Khương (2007).
Tỷ lệ nhiễm giun Gnathostoma sp. trên chó có khuynh hướng tăng dần
theo tuổi. Vấn đề này có thể do chó ít tuổi thì tần suất tiếp xúc với mầm
bệnh thấp hoặc do thời gian mầm bệnh phát triển ở chó là khá dài.
Đặc điểm vịng đời của G. spinigerum cần hai vật chủ trung gian, thời
gian mầm bệnh phát triển ở vật chủ là khá dài (112-123 ngày ở chó). Mặt
khác, nếu chó nhiễm bệnh mà khơng được điều trị thì giun vẫn tồn tại trong
cơ thể vật chủ. Đây có thể là một trong những yếu tố làm cho tỷ lệ nhiễm
khơng phụ thuộc vào mùa vụ.
A

B

C

2
1

Hình 3.6: Hình ảnh giun Gnathostoma sp. trong dạ dày chó
A: Dạ dày 1 chó nhiễm 2 loại giun (1: khối u của giun Gnathostoma sp., 2: Khối u
của giun thực quản); B: Giun Gnathostoma sp.; B: Giun thực quản spirocerca lupi.

3.1.3. Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. trên lợn tại thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ và Khánh Hịa
Mổ khám 1925 con ở thành phố Hồ Chí Minh, 2731 con ở Cần Thơ và
2244 con ở Khánh Hòa. Kết quả kiểm tra chưa phát hiện lợn nhiễm
Gnathostoma sp.
Trước năm 1998, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm G. hispidum
trên lợn là khá cao, có nơi tỷ lệ nhiễm tới 50% (Bùi Lập, 1964; Phạm Văn

Chức, 1985; Nguyễn Hữu Hưng, 1993; Phạm Văn Khuê, 1996; Lương Văn


11
Huấn, 1998). Những năm gần đây ít có cơng trình đề cập đến loài gây bệnh
trên lợn. Trong nghiên cứu này với số lượng mẫu khá lớn nhưng chưa phát
hiện lợn nhiễm mầm bệnh. Như vậy, mầm bệnh trên lợn gần như biến mất
trong khoảng 20 năm trở lại đây. Vấn đề này có thể do sự thay đổi tập quán
chăn nuôi, con giống, khoa học kỹ thuật,… Chẳng hạn sử dụng thức ăn công
nghiệp, hay do giai đoạn mầm bệnh phát triển ở lợn khá dài (4-8 tháng) [42]
nhưng nuôi lợn theo hướng thịt khoảng 3-4 tháng đã xuất chuồng. Ngồi ra,
có thể do người chăn ni dùng thuốc tẩy giun sán hoặc sử dụng công nghệ
xử lý chất thải [118].
3.2. Định loài ấu trùng, giun Gnathostoma sp. trên một số động vật tại
thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa
3.2.1. Định lồi bằng hình thái học
3.2.1.1. Hình thái ấu trùng Gnathostoma sp. trên cá lóc, lƣơn, ếch
Bảng 3.5: Kích thƣớc ấu trùng Gnathostoma sp.
Kích thƣớc

Đầu

Cơ thể

Thực quản

Chiều dài (mm)

0,06-0,08 (0,07)


1,5-3,9 (3,20)

0,7-0,9 (0,85)

0,2-0,3 (0,25)

0,3-0,4 (0,32)

-

Chiều rộng (mm)

Ghi chú: Tổng số ấu trùng ở cá lóc 62, lươn 63, ếch 10; (): số trung bình

1

3

2

B
A

Hình 3.8: Cấu tạo ấu trùng G. spinigerum ở cá lóc, lƣơn, ếch
A: Cơ thể ấu trùng (1: phần đầu; 2: thực quản; 3: ruột); B: 4 hàng gai trên đầu


12
Hình thái ấu trùng thu thập trên cá lóc, lươn, ếch được thể hiện ở bảng
3.5 và hình 3.8. Kết quả cho thấy: ấu trùng có dạng hình ống, đi tù, chiều

dài từ 1,5-3,9 mm, chiều rộng từ 0,3-0,4 mm; phần đầu ấu trùng tách khỏi
phần thân bởi một rãnh sâu và có 4 hàng gai. Trên đầu có lỗ miệng hình bán
nguyệt với 1 cặp mơi, tiếp theo là thực quản, ruột, lỗ hậu môn ở mặt bụng
phần cuối cơ thể. Bên ngồi cơ thể, hai phần 3 phía trước có gai bao phủ. Từ
những đặc điểm hình thái và dựa theo tài liệu [25][53][69][85][95] cho thấy,
135 ấu trùng thu thập được trên cá lóc, lươn, ếch đều là ấu trùng giai đoạn 3
của lồi G. spinigerum.

3.2.1.2. Hình thái giun Gnathostoma sp. ký sinh trên chó
Bảng 3.7: Kích thƣớc giun Gnathostoma sp. trên chó (n=204)
Cơ thể
Thực
Kích thƣớc
quản
Đầu
Giun đực
Giun cái
(n=90)
(n=114)
Chiều dài
0,3-0,8
15-20
18-29
1,5-3,5
(mm)
(0,55)
(18)
(25,8)
(2,66)
Chiều rộng

0,9-1,8
1,2-2,0
1,2-3,0
(mm)
(1,2)
(1,7)
(2,5)
Ghi chú: n là tổng số giun; (): số trung bình
B

1

2

A

C

D

F

G

Hình 3.9: Cấu tạo giun G. spinigerum ký sinh trên chó
A: Giun trưởng thành (1: con cái, 2: con đực); B: Phần đầu có 7 hàng gai; C: Gai
ở đầu có 1 móc; D: Gai cơ thể có 3 móc; F: Đi giun đực có gai giao hợp;
G: Đi giun cái khơng có gai.



13
Hình thái giun ký sinh trên chó được thể hiện ở bảng 3.7 và hình 3.9.
Kết quả cho thấy, hình thái giun cơ bản giống với ấu trùng giai đoạn 3;
Điểm khác với ấu trùng là phần đầu có 7 hàng gai, cơ quan sinh dục phát
triển hơn. Con đực nhỏ, đuôi cong về mặt bụng, gai giao hợp ở phần mút
đi, kích thước 15-20 x 1,2-2 mm; Con cái lớn hơn con đực, đuôi thẳng, tử
cung và âm hộ ở phần giữa cơ thể, kích thước 18-29 x 2,1-3,0 mm. Với
những đặc điểm hình thái và dựa theo tài liệu [25][43][70][72][95][102] cho
thấy, 204 giun thu thập được trên chó đều thuộc loài G. spinigerum.
3.2.2 Định loài Gnathostoma bằng kỹ thuật phân tử
3.2.2.1. Kết quả điện di sản phẩm PCR nhân đoạn gen ITS2
M

1

2

3

4

M

5

6

7

8


647 bp

600 bp
300 bp

100 bp

Hình 3.10: Ảnh đại diện kết quả điện di sản phẩm PCR
M: Marker; giếng 1 và 5: đối chứng âm (ADN của giun thực quản Spirocerca); Giếng 2, 3, 4:
ADN ấu trùng Gnathostoma (giếng 2 cá lóc, giếng 3 lươn, giếng 4 ếch), Giếng 6, 7, 8: ADN
giun Gnathostoma ở chó

Sau khi tách chiết ADN tổng số, thực hiện phản ứng PCR của 100 giun
và 100 ấu trùng, sản phẩm được điện di trên thạch agarose 1,2%. Kết quả
cho thấy các mẫu giun và ấu trùng đều nhân được đoạn gen có độ dài đặc
hiệu, kích thước khoảng 647 bp. Trong khi đó, các mẫu đối chứng âm đều
cho kết quả âm tính. Như vậy, với cặp mồi này phản ứng đã nhân được đoạn
gen ITS2 Gnathostoma sp.


14
3.2.2.2. Giải trình tự đoạn gen ITS2 Gnathostoma sp.
VN1
VN2
VN3
VN4

10
20

30
40
50
60
70
80
90
....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|
AGCATAAAGATTTCGAACGCACATTGCGCCATTGGGTTTCTTCCCTTTGGCACGCCTGGTTGAGGGTCGACTTTGTTGAAATATGTGATG
.................................................A........................................
..........................................................................................
..........................................................................................

VN1
VN2
VN3
VN4

280
290
300
310
320
330
340
350
360
....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|....|
GCGTACGCGTGTGGCGCATCGTCGGGAAATGGTAGCGATGGTGACGATGATGTTGATGCTCGAATTTTGTGGCAAACGTTGAGGAACGTA
..........................................................................................

.................................................T........................................
..........................................................................................

Hình 3.11: So sánh trình tự nucleotit đoạn gen ITS2 Gnathostoma sp.
(VN1- Giun trên chó; VN2, VN3, VN4- Ấu trùng trên lươn, cá lóc, ếch)

Hình 3.12: Cây phả hệ biểu thị mối quan hệ các loài Gnathostoma
(VN1-VN4 là G. spinigerum ở tp Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa)

So sánh bằng phần mềm BioEdit cho thấy, đoạn gen ITS2
Gnathostoma sp. của ấu trùng trên cá lóc, lươn, ếch và giun trên chó tại
thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hịa có trình tự nucleotit giống


15
nhau (570 nucleotit). Mặc dù có sai khác ở vị trí 50 (G‹-›A) và vị trí 320
(A‹-›T), nhưng sai khác này khơng làm thay đổi thành phần axit amin (hình
3.11). Đoạn gen này được truy cập vào ngân hàng gen qua chương trình
chương trình Blast. Kết quả cho thấy tương đồng 99-100% với loài G.
spinigerum trên ngân hàng gen. Như vậy, với độ tương đồng cao cho thấy
những mẫu ấu trùng và giun này đều thuộc lồi G. spinigerum.
Phân tích thành phần nucleotit gen ITS2 bằng chương trình MEGA.
Kết quả hình 3.12 cho thấy, lồi G. spinigerum tại thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ và Khánh Hịa chung nhánh với lồi G. spinigerum và tách khỏi
nhóm khác: G. hispidum, G. doloresi, G. binucleatum, G. lamothei, G.
nipponicum, G. miyazakii. Như vậy, mặc dù nguồn gốc khác nhau nhưng ở
trong cùng một nhánh của cây phả hệ, điều đó có thể nhận thấy lồi này ít
biến đổi về mặt di truyền.
3.3. Nghiên cứu vòng đời của G. spinigerum
3.3.1. Sự phát triển của trứng ở mơi trƣờng nƣớc tự nhiên


1

2

3

4

5

Hình 3.13: Trứng phát triển ở môi trƣờng nƣớc tự nhiên
1: Trứng mới thu thập bên trong có 1 tế bào phơi; 2: 2-4 ngày, phôi bào phân thành 3 tế bào;
3: 5-6 ngày, ấu trùng giai đoạn 1 hình thành, nằm trong lớp màng mỏng; 4: Sau 7 ngày, ấu
trùng giai đoạn 2 hình thành, nằm trong vỏ trứng; 5: Ấu trùng giai đoạn 2 nở ra từ trứng.

Theo dõi quá trình phát triển của trứng trong môi trường nước tự
nhiên. Kết quả cho thấy ở trong nước, phôi bào phân chia thành nhiều tế
bào, sau đó thành phơi dâu, phơi nang, đến ấu trùng giai đoạn 1. Từ ngày
thứ 7, ấu trùng giai đoạn 1 lột xác lần thứ nhất thành giai đoạn 2. Ấu trùng
giai đoạn 2 thốt ra ngồi mơi trường từ nắp của vỏ trứng ở ngày 7 đến ngày
18, tỷ lệ trứng nở từ 68,86-82,84%. Ấu trùng giai đoạn 2 có hình trụ trịn,


16
thon dần về hai đầu, bên ngoài trơn nhẵn, bên trong đã xuất hiện cơ quan
tiêu hóa, chiều dài 380-400 µm, chiều rộng 17-22 µm.
3.3.2. Xác định vật chủ trung gian thứ nhất của G. spinigerum
Bảng 3.14: Sự phát triển của ấu trùng ở vật chủ trung gian thứ nhất
Hình thái ấu trùng


Thời gian

n

Chiều dài (µm)

Chiều rộng (µm)

E

I

H

R

17-23 (19)

+

+

-

-

.

2 giờ


234

370-400 (385)

Ngày 1

221

360-390 (370)

18-24 (20)

+

+

-

-

Ngày 2

324

270-300 (280)

26-30 (28)

+


+

-

-

Ngày 3-4

341

330-340 (335)

29-33(32)

+

+

+

-

Ngày 5-6

276

350-360 (355)

34-37 (36)


+

+

+

+

Ngày 7-20

454

390-430 (410)

44-48 (46)

+

+

+

+

Ghi chú: n: tổng số ấu trùng, E: thực quản, I: ruột, H: đầu, R: hàng móc, +: thời
điểm quan sát thấy

A


B

C

D

Hình 3.15: Hình thái ấu trùng G. spinigerum ở cyclop
A: Ấu trùng nằm trong xoang cơ thể; B: Cyclop chết, ấu trùng thốt ra ngồi;
C: Hình thái ấu trùng giai đoạn 3, D: 4 hàng gai trên đầu.

Thu thập ấu trùng G. spinigerum (ấu trùng nở ra từ trứng) cho vào bể
ni 8 lồi cyclop: Microcyclops varicans, Mesocyclops leuckarti,
Tropocyclops chinei, Neodiaptomus malaindosinensis, Diaphanosoma sarsi,


17
Moina dubia de, Vietodiaptomus hatinhensis, Brachionus plicatilis. Kết quả
gây nhiễm chỉ có Microyclops varicans và Mesocyclops leuckarti nhiễm
mầm bệnh, tỷ lệ nhiễm lần lượt là 80,95% và 85,43%.
Từ bảng 3.14 cho thấy, sau khi xâm nhập vào Microyclops varicans và
Mesocyclops leuckarti, ấu trùng phát triển kích thước và các bộ phận của cơ
thể. Từ ngày thứ 7 đến ngày 20, ấu trùng giai đoạn 2 phát triển đến giai đoạn
3, chiều dài từ 390 đến 430 µm (trung bình 410 µm), chiều rộng từ 44 đến
48 µm (trung bình 46 µm). Hình thái ấu trùng giai đoạn 3 có mơi, miệng,
thực quản nối với ruột, lỗ hậu môn ở cuối cơ thể, bên ngồi có nhiều hàng
gai. Đặc biệt trên phần đầu xuất hiện 4 hàng gai.
3.3.3. Xác định vật chủ trung gian thứ 2 của G. spinigerum
Bảng 3.15: Sự phát triển của ấu trùng ở cá lóc, lƣơn, ếch
Mổ khám
sau

nhiễm
(ngày)
2-7
8-28
29-45

>46

Dạng ấu trùng

Số ấu trùng ở
Gan

Ấu trùng giai
đoạn 3
Ấu trùng giai
đoạn 3
Ấu trùng gây
nhiễm và nang
kén
Nang kén

Tổng cộng



Khác

187


0

0

542

89

0

377

110

0

362

181

0

1468

380

0

Số con nhiễm/số con mổ khám
(%)

Cá lóc
Lƣơn
Ếch
(n=95)
(n=87)
(n=85)
11/12
9/11
9/11
(91,66)
(81,81)
(81,81)
25/30
21/29
23/29
(83,33)
(72,41)
(79,31)
27/34
15/22
14/20
(79,41)
(68,18)
(70,0)
15/19
(78,94)
78/95
(82,10)

16/25

(64,0)
61/87
(70,11)

17/25
(68,0)
63/85
(74,11)

Tiến hành cho cá lóc, lươn, ếch ăn ấu trùng G. spinigerum (ấu trùng từ
cyclop). Kết quả bảng 3.15 cho thấy, sau khi ấu trùng xâm nhập vào vật chủ
đến ngày thứ 28, chúng tăng dần kích thước cơ thể, các cơ quan phát triển rõ
ràng hơn. Từ ngày thứ 29 đến ngày 45, ấu trùng ít phát triển về kích thước.
Lúc này chúng tạo thành dạng nang kén nằm trong cơ hoặc gan của vật chủ.
Nang kén có dạng hình trịn, kích thước khoảng 1,3-1,4 mm. Ấu trùng trong
nang kén dạng xoắn ốc, bên ngoài bao bọc bởi 1 lớp màng. Kích thước ấu


18
trùng 2,44-3,62 x 0,31-0,46 mm. Ấu trùng chỉ tạo nang kén ở cơ và ở gan
của cá lóc, lươn, ếch. Tỷ lệ nang kén ở gan là 79,43% cao hơn so ở cơ
20,56%.

1

4

3

2


Hình 3.17: Sự phát triển của ấu trùng G. spinigerum ở cá lóc, lƣơn, ếch
1: Ấu trùng sau 7 ngày (40 x); 2: Ấu trùng sau 15 ngày (10 x) 3: Ấu trùng sau 29 ngày (10 x);
4: Ấu trùng hình thành dạng nang kén (10 x)

3.3.4. Gây nhiễm ấu trùng G. spinigerum với chó
Bảng 3.16. Sự phát triển của mầm bệnh G. spinigerum ở chó
Mổ khám sau

Số con

Vị trí ký sinh

Kích thƣớc

gây nhiễm

mổ

(ngày)

khám

7

2

+

-


-

0,3-0,4 x 2,4-3,6

15

1

+

-

-

0,3-0,5 x 2,6-4,5

24

2

+

-

-

Ghi chú

0,3-0,6 x 2,9-5,5


Gan

Dạ

Khác

(mm)

dày
Ấu trùng

27

2

+

-

-

0,3-0,6 x 2,9-5,5

Ấu trùng

28-34

4


+

+

-

0,4-0,7 x 3,5-7,5

Ấu trùng

35

2

-

+

-

0,4-0,9 x 4,5-9,5

Giun non

70

3

-


+

-

0,7-1,2 x 9,0-15,5

112

8

-

+

-

1,2-2,9 x14-30;

Giun

123

7

-

+

-


1,3-3,2 x16,5-45

trưởng
thành


19

A

B

Hình 3.18: Kết quả mổ khám chó sau gây nhiễm G. spinigerum
A: Khối u và giun ở ngày 35 (giun non); B: Khối u và giun ở ngày 112 (giun trưởng thành)

Từ kết quả bảng 3.16 cho thấy: ở ngày thứ 7 sau gây nhiễm, tìm thấy
ấu trùng ở gan, với hình thái giống ấu trùng gây nhiễm, kích thước từ 0,30,4 x 2,4-3,6 mm. Ngày thứ 15 đến ngày 24, ấu trùng ở trong gan, kích
thước từ 0,3-0,5 x 2,6-4,5 mm (ở ngày 15) và 0,3-0,6 x 2,9-5,5 mm (ở ngày
24). Ngày thứ 27: vẫn tìm thấy ấu trùng ở gan, kích thước cơ bản giống
ngày thứ 24.
Ngày thứ 28 đến ngày 34, tìm thấy ấu trùng ở gan và ở dạ dày, thời
gian này phân biệt được ấu trùng đực và ấu trùng cái, con đực đuôi cong về
mặt bụng, ở mút đi có gai giao hợp; con cái lớn hơn con đực, lỗ sinh dục
ở phần giữa cơ thể. Kích thước ấu trùng từ 0,4-0,7 x 3,5-7,5 mm.
Ngày thứ 35 đến ngày 70, ấu trùng phát triển thành giun non sống ở dạ
dày, phần đầu của giun xuất hiện 7 hàng gai. Ống sinh sản con cái lớn lên và
rõ rệt, tử cung tương đối lớn nhưng bên trong chưa thấy trứng. Kích thước
ấu trùng từ 0,4-0,9 x 4,5-9,5 mm (ở ngày 35) và 0,7-1,2 x 9,0-15,5 mm (ở
ngày 70).



20
Ngày thứ 112 đến 123, xét nghiệm thấy trứng ở trong phân, mổ khám
thấy một khối u ở dạ dày, bên trong có nhiều giun. Con cái tử cung chứa
nhiều trứng, lỗ sinh sản phình to và nhơ ra ngồi. Con đực đuôi cong về mặt
bụng và phát triển các bộ phận (túi giao hợp, gai giao hợp). Kích thước giun
đực 1,2-2,9 x 14-30 mm, giun cái 1,3-3,2 x 16,5-45 mm.
Từ kết quả ở trên cho thấy, ấu trùng ít phát triển về kích thước ở gan,
nhưng chúng lớn lên rất nhanh ở dạ dày, từ kích thước 0,3-0,6 x 2,9-5,5 mm
lên đến 1,3-3,2 x 16,5-45 mm.
Hơn nữa, kết quả thí nghiệm cịn cho thấy sự thành thục về tính của
giun là khá dài, 112 đến 123 ngày sau khi xâm nhập vào cơ thể chó, khoảng
dao động này ngắn hơn so với nghiên cứu của Daengsvang (1980) [43] là
84-247 ngày. Sự phát triển của mầm bệnh dài, đây có thể là một trong
những yếu tố làm cho tỷ lệ nhiễm giun trên chó ít phụ thuộc vào mùa vụ.
3.4. Nghiên cứu bệnh lý lâm sàng chó nhiễm G. spinigerum
Một số triệu chứng lâm sàng chó nhiễm G. spinigerum: chó mệt mỏi,
ăn ít, bỏ ăn, nơn mửa, sốt > 400C, sưng chân, liệt chân, chướng bụng, ỉa
chảy. Một số chó chết do bệnh tích ở gan quá nặng.
Bệnh tích ở gan: ấu trùng di hành làm tổn thương gan, trên đường di
hành để lại trong gan những đường đầy máu và mảnh tổ chức do gan bị phá
hủy, gan viêm, xuất huyết, bề mặt mất tính trơn nhẵn. Tế bào ống mật tăng
sinh, mạch quản sung huyết nghiêm trọng, vi quản xuyên tâm chứa đầy
hồng cầu, tế bào gan hoại tử từng đám lớn bắt màu hồng đều, tế bào gan bị
thối hóa mỡ thâm nhiễm tế bào viêm, chủ yếu là bạch cầu ái toan.
Bệnh tích ở dạ dày: do phản ứng giữa vật chủ và ký sinh trùng nên ở dạ
dày, nơi giun ký sinh thường có 1 khối u, kích thước khối u phụ thuộc vào
số lượng và kích thước của giun ở bên trong. Khối u có vết loét, bờ cứng,
xung quanh là bờ sưng to, trịn nhơ vào bên trong. Lát cắt ngang khối u xơ,
tế bào viêm thâm nhiễm xen kẽ trong đám tế bào xơ, thâm nhiễm bạch cầu

ái toan ở phần niêm mạc của dạ dày.


21
Từ kết quả trên chúng tôi nhận thấy, mầm bệnh tác động và gây ra
những biểu hiện bệnh lý tương ứng với thời gian phát triển của mầm bệnh
trong cơ thể chó. Thời gian đầu (sau khi gây nhiễm đến ngày thứ 35) là giai
đoạn ấu trùng di hành, gây ra những tổn thương mạnh ở gan, ảnh hưởng đến
chức năng của gan nên chó có biểu hiện bệnh lý mạnh. Thời gian sau, khi ấu
trùng phát triển thành giun sống ở dạ dày, chức năng của gan hồi phục dần
nên dấu hiệu bệnh lý của chó khơng rõ rệt.

A

B

Hình 3.21: Bệnh tích đại thể chó nhiễm G. spinigerum (A: Gan; B: Dạ dày)
A

B

Hình 3.22: Bệnh tích vi thể chó nhiễm G. spinigerum (A: Gan; B: Dạ dày)


22
3.5. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh Gnathostoma
3.5.1 Nguy cơ truyền lây mầm bệnh từ động vật sang ngƣời
Những nghiên cứu ở nước ta cho thấy, tình hình nhiễm G. spinigerum
trên người có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây (đặc biệt là các
tỉnh phía Nam) [7-8][18][20-21][26-29]. Từ kết quả khảo sát cho thấy cá

lóc, lươn, ếch ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Khánh Hòa đều nhiễm
ấu trùng G. spinigerum. Mặt khác, ấu trùng có sức sống khá cao với những
tác nhân vật lý và hóa học. Vì vậy, nếu người dân thường có thói quen ăn
sống, ăn tái hoặc ăn phải thức ăn chưa được nấu chín thì nguy cơ nhiễm
bệnh khơng thể tránh khỏi.
3.5.2. Điều trị chó nhiễm giun G. spinigerum
Bảng 3.19: Kết quả tẩy giun G. spinigerum ở chó
Loại

Liều lƣợng

Tỷ lệ nhiễm

Số con sạch giun

nghiệm

thuốc

Số con thí

trƣớc khi tẩy

sau khi tẩy

(%)
Ivermectin

2,5 mg/10 kg P


10

100

10

Levamisol

10 mg/1 kg P

10

100

10

5

100

0

Đối chứng không điều trị

Gây nhiễm mầm bệnh G. spinigerum với chó và tẩy giun bằng hai loại
thuốc. Kết quả bảng 3.19 cho thấy: ivermectin với liều 2,5 mg/10 kg thể
trọng (tiêm dưới da) điều trị 10 chó; levamisol với liều 10 mg/1 kg thể trọng
(tiêm dưới da) điều trị 10 chó. Sau 10 ngày dùng thuốc, mổ khám kiểm tra
khơng phát hiện giun cịn sống trong 20 chó được điều trị (khơng cịn giun
trong khối u ở dạ dày hoặc giun ở giai đoạn phân hủy).

Từ kết quả ở trên cho thấy, thuốc ivermectin và levamisol có hiểu quả
tẩy giun G. spinigerum trên chó. Các thuốc này dễ sử dụng và khơng có
phản ứng phụ trong suốt quá trình thử nghiệm. Tuy nhiên, do bệnh này có
tổn thương nặng ở gan và dạ dày, nên trong điều trị cần sử dụng thêm kháng
sinh để chống nhiễm khuẩn kế phát.


23
3.5.3. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh Gnathostoma ở động vật
Phịng bệnh:
Trong những vùng có mầm bệnh lưu hành, cần thực hiện biện pháp
chăn nuôi sạch sẽ, vệ sinh.
Phải thu gom các phụ phẩm khi làm cá nước ngọt, lươn, ếch. Tuyệt đối
khơng để chó, mèo và động vật ăn thịt khác ăn phải cá nước ngọt, lươn, ếch
hoăc ăn phải các phụ phẩm của chúng khi chưa được nấu chín.
Định kỳ tẩy giun đối với chó trên 1 năm tuổi: 6 tháng tẩy 1 lần với
ivermectin (liều 2,5 mg/10 kg thể trọng) hoặc levamisol (liều 10 mg/1 kg thể
trọng), tiêm dưới da 1 liều duy nhất.
Trị bệnh:
Phác đồ 1: ivermectin với liều 2,5 mg/10 kg thể trọng, tiêm dưới da 1
liều duy nhất; kanamycin với liều 10 mg/1 kg thể trọng, tiêm bắp, ngày 1 lần
x 3 ngày.
Phác đồ 2: levamisol với liều 10 mg/1 kg thể trọng, tiêm dưới da 1 liều
duy nhất; kanamycin với liều 10 mg/1 kg thể trọng, tiêm bắp, ngày 1 lần x 3
ngày.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Gnathostoma sp. trên cá lóc, lươn, ếch lần
lượt là 2,42%, 3,21% và 0,63%. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở mẫu tự nhiên cao
hơn so với mẫu nuôi; không có sự khác biệt tỷ lệ nhiễm giữa mùa khơ và

mùa mưa.
Tỷ lệ nhiễm giun Gnathostoma sp. trên chó là 0,69%; khơng có sự
khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa mùa khơ và mùa mưa; tỷ lệ nhiễm trên chó ở
nhóm tuổi < 1 năm thấp hơn so với nhóm tuổi 1-2 năm và > 2 năm. Trong
những mẫu kiểm tra, chưa phát hiện lợn nhiễm với mầm bệnh.
1.2. Phân tích hình thái học và đoạn gen ITS2 cho thấy, ấu trùng trên


24
cá lóc, lươn, ếch và giun trên chó tại thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,
Khánh Hịa đều thuộc lồi G. spinigerum.
1.3. Trong môi trường nước tự nhiên, trứng G. spinigerum phát triển
thành ấu trùng giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Trứng nở ra ấu trùng giai đoạn 2
sau 7-18 ngày. Trong Microcyclops varicans và Mesocyclops leuckarti, ấu
trùng giai đoạn 2 phát triển đến giai đoạn 3 sau 7-20 ngày. Ở cá lóc, lươn,
ếch, ấu trùng giai đoạn 3 phát triển đến ấu trùng gây nhiễm và tạo thành
dạng nang kén sau 29-45 ngày. Chó ăn phải nang kén, ấu trùng phát triển
thành giun trưởng thành sau 112-123 ngày.
1.4. Chó nhiễm G. spinigerum thường có một số biểu hiện: mệt mỏi,
ăn ít, bỏ ăn, nơn mửa, sốt, sưng chân, liệt chân, chướng bụng, ỉa chảy. Gan
viêm, xuất huyết, bề mặt gan có đường di hành của ấu trùng, tế bào ống mật
tăng sinh, tế bào gan hoại tử từng đám lớn bắt màu hồng đều, vi quản xuyên
tâm chứa đầy hồng cầu, mạch quản sung huyết nghiêm trọng, tế bào gan
thối hóa mỡ thâm nhiễm tế bào viêm. Ở dạ dày có 1 khối u, kích thước u
phụ thuộc vào số lượng giun bên trong. Lát cắt ngang khối u, tế bào viêm
thâm nhiễm xen kẽ trong đám tế bào xơ.
1.5. Thuốc ivermectin với liều 2,5 mg/10 kg thể trọng hoặc levamisol
với liều 10 mg/1 kg thể trọng có hiệu quả tẩy giun G. spinigerum trên chó.
Đề tài đã đề xuất được biện pháp phòng trị bệnh Gnathostoma trên động vật.
2. Đề nghị

Cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tác hại của mầm bệnh, con đường
truyền lây từ động vật sang người để người dân chủ động phòng chống.
Nên áp dụng biện pháp phòng trị bệnh nhằm giảm thiểu những tác
động có hại, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển chăn nuôi
theo hướng bền vững.



×