Con người hành hương trong thơ Thiền Lý Trần và Đường Tống
1. Con người trong thơ thiền – một khám phá vô tận nhìn từ mối quan hệ giữa văn
chương và tôn giáo:
Con người trong văn học tôn giáo thường có hai đặc tính: con người với đức tin tôn giáo,
hành trình tôn giáo và con người trong vẻ đẹp muôn màu của văn học. Văn học Phật giáo là
một kho tàng lớn lao có lịch sử từ hàng nghìn năm, nếu kể cả các kinh điển, kinh luan nói
chung. Con người trong văn học Phật giáo được mô tả và khơi gợi ở nhiều góc độ phong
phú, bao gồm chính hình ảnh Đức Phật với những tiền thân, các vị Phật, các kiếp người, với
nhiều trạng thái và cơ duyên Phật phap khác nhau. Do vậy, tìm hiểu hình ảnh con người
trong văn học Phật giáo nói chung vừa để tìm hiểu hành trình tu chứng của chính con người
trên bước đường tâm linh mà họ đã chọn; đồng thời, cũng là tìm kiếm các giá trị mỹ học
Phật giáo đã làm nền và chuyển hóa vào các hình ảnh sâu sắc đó.
Trong bài viết ngắn này, chúng tôi chọn đối tượng khảo sát của mình là thơ thiền Lý – Trần
của Việt Nam và Đường – Tống của Trung Quốc. Chọn đối tượng kép như vậy, bài viết hướng
đến so sánh hai nền thơ ca thiền tông bắt nguồn từ hệ thống văn học Phật giáo phương
Đông thông qua hình tượng con người, ở đây là hình tượng con người hành hương.
Bài viết Vấn đề con người trong văn học thời đại Lý – Trần của Đoàn Thị Thu Vân[1] đã phân
loại bốn quan niệm biểu hiện con người cá nhân trong thơ thiền Lý- Trần là: 1- Con người tự
do, 2- Con người vô ngã, 3- Con người vô ý, 4- Con người vô ngôn. Tác giả kết luận bốn
quan niệm này đều hướng đến Con người vũ trụ. Nguyễn Phạm Hùng trong chuyên luận Thơ
thiền Việt Nam – những vấn đề nghệ thuật và tư tưởng[2] lại chia hình ảnh con người trong
thơ thiền ra làm hai loại lớn: Con người Phật giáo và con người cá nhân. Trong con người
Phật giáo có bốn tiểu loại: 1 – Con người tự do, 2- Con người vô ngã, 3- Con người vô ngôn,
4- Con người vũ trụ. Về con người cá nhân trong thơ thiền, tác giả nhận xét: “Trực giác
trong thơ thiền giúp cho con người cá nhân có điều kiện xuất hiện nhất định”, “Con người
thường được nói tới trong thơ thiền là con người siêu việt, có bản lĩnh, có nghị lực và sức
mạnh, có thể tự mình giac ngộ chân lý”, “Thơ thiền quả là sự bộc lộ một cách kiên nhẫn và
thuyết phục cho sức sống, cho khả năng sống, cho niềm vui sống của con người”. Như vậy,
những đặc điểm mà tác giả Đoàn Thị Thu Vân dùng để đặt cho quan niệm con người cá
nhân thì Nguyễn Phạm Hùng xếp vào kiểu con người Phật giáo, phân biệt với con người cá
nhân là con người của trực giác. Nguyễn Hữu Sơn trong bài Thơ thiền – Những nẻo đường tu
chứng và giải thoát đề cap đến ý nghĩa sâu xa của tu chứng và giải thoát. Theo đó, tác giả
soi chiếu con người trong thơ thiền từ góc độ “ngã” : “Ở các bài thơ-kệ của các thiền sư tàng
trữ trong Thiền uyển tập anh, có khi họ đặt mình ở ngôi thứ nhất như ngô, ngã, kiến ngã,
cầu ngã, vấn ngã, bỉ-ngã, ngã bản, ngã hữu… hoặc có khi sử dùng hình thức chủ ngữ ẩn,
song đều để chỉ các phương thức tu chứng và giải thoát của chính con người”… Những yếu
tố như: tự do, giải thoát, vô ngã, vô ngôn… về cơ bản phản chiếu thành tựu giải thoát của
con người trong thơ thiền từ hành trình tâm linh có tính chất tu chứng. Tác giả Lê Thị Ngọc
Hạnh trong luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa nhân văn và tư tưởng giải thoát trong thơ thiền thời
Lý-Trần (2003) đã nêu ra các cặp đối sánh như sau: 1- Con người nhân văn – con người và
Phật tính thường hữu trong tâm, 2- Con người tự do cá nhân – con người vô ngã, 3- Con
người trần tục – con người đời - đạo không hai. Vậy là xuất hiện thêm hai khái niệm: con
người đời – đạo không hai và con người Phật tính thường hữu. Các cách phân loại như vậy
đều dựa trên nguyên tắc tiêu chí riêng và giới hạn sự phân loại ấy trong phạm vi tham chiếu
nhất định, chẳng hạn như tiêu chí về triết học thiền tông (vô ngã, vô ý, vô ngôn, tự do…),
tiêu chí về chức năng tôn giáo (con người Phật giáo và con người cá nhân), tiêu chí về đối
sanh trào lưu văn học với đặc điểm nội dung thể loại (chủ nghĩa nhân văn và tư tưởng giải
thoát…), …
Thực ra, có thể mở rộng hình tượng con người trong thơ thiền thành nhiều cấp độ như: con
người hành hương (gắn rất chặt với hành trình tu chứng, cảm thức tôn giáo về đời sống con
người trong thơ thiền), con người trong lý tưởng Bồ Tát (là dấu hiệu dễ nhận thấy ở cả hai
nền thơ ca thiền tông Việt Nam và Trung Quốc), con người vui đạo tùy duyên (hầu hết tập
trung vào thơ thiền đời Trần, Việt Nam), con người của cái nhìn (xuất phát từ tính chất soi
chiếu trong thẩm mỹ học Phật giáo, liên quan đến cái nhìn, tánh nhìn trong hành trình tu
tập), con người mộng huyễn (nhấn mạnh giác độ mộng huyễn trong thơ thiền và tính chất
chơi đùa ngoài thế gian của con người thiền)… Sở dĩ có thể mở rộng biên độ tìm hiểu con
người trong thơ thiền là vì: 1- đặt thơ thiền trong tương quan so sánh, chúng tôi có điều
kiện tìm thấy nhiều đặc tính giống và khác nhau của hai nền thơ ca mà Phật giáo Thiền tông
có ảnh hưởng sâu sắc; 2- Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thế giới quan vô tận cũng
như tư duy phủ nhận huyền ảo vốn có trong văn học Phật giáo đã mang lại cho Thơ thiền
chân trời rộng mở của các biểu hiện con người Thiền. Nghĩa là, phân loại con người trong
trường hợp này dựa trên tiêu chí mỹ học Phật giáo.
2. Hình tượng con người hành hương trong văn học Thiền tông Phật giáo:
Hành hương trong tôn giáo thường được xem như biểu tượng về hành trình đức tin. Kinh
Thánh đã kể lại nhiều cuộc hành hương vĩ đại của loài người như hành trình của dân Chúa từ
Ai Cập về Đất hứa với 40 năm lưu lạc giữa sa mạc nóng bỏng, cuộc hành hương của Chúa
Jesus về thành địa Jerusalem Hành hương về sông Hằng, về Bồ Đề đạo tràng – nơi Đức
Phật chứng đắc… cũng thường được nhắc đến trong các đien truyện Phật giáo. Nhưng hành
hương không chỉ là những chuyến đi của những tín đồ hoặc các tu sĩ đến một địa danh cụ
thể nào đó. Về mặt tinh thần, hành hương mang nhiều lớp nghĩa tâm linh sâu sắc. Hành
hương vừa gợi đến những chuyến đi, những cuộc phiêu bồng của đời người, vừa mang ý
nghĩa tu tập, kham nhẫn của người học đạo.
Kinh Hoa Nghiêm, bộ Kinh tiêu biểu cho Phật giáo Đại thừa với hình tượng Thiện tài Đồng
tử, nhân vật trải qua 53 thế giới để gặp gỡ chư Phật và cầu học đạo, đã mở ra chiều sâu vô
tận cho ý niệm về những chuyến đi của tâm linh con người. Thiên Tiêu dao du, Tề Vật luận
của Trang Tử luận bàn rất nhiều về những cuộc du ngoạn vĩ đại, từ cái thế trôi vô tận của
loài cá Côn đến cái tung vẫy của cánh chim Bằng. Bên cạnh đó, âm hưởng “qui khứ lai từ”
của thơ ca Trung Quốc đời Đường cũng phản chiếu tinh thần “trở về” trong thơ ca thời kỳ
này; trở về với thiên nhiên, với tâm nhàn. Do vậy, cũng có thể nói, hành hương vừa là cảm
thức mang màu sắc tôn giáo nói chung, vừa là cảm thức phổ biến của con người trong
những biến cố đời sống và tinh thần. Do hòa hợp sâu sắc triết học Lão Trang, Thiền tông
Trung Hoa đã du nhập trọn vẹn tinh thần chơi đùa tiêu dao của học thuyết này, mặt khác,
nó cũng không từ chối ghi nhận và diễn bày cả những cảm thức thân phận khác mà con
người có thể có trong cuộc đời rộng lớn.
Tính chất biểu tượng của hành hương trong Thiền học là đi từ đau khổ tới giác ngộ, từ lưu
lạc đến lúc trở về. Hành hương trong Thiền là con đường “đồng với bụi bặm”, nhưng chính
lúc ấy, hành giả cung hướng trọn tâm mình đến sự chứng ngộ viên mãn, trở về ngôi nhà của
bản tâm. Hình ảnh “về nhà” là một trong những hình ảnh biểu trưng bản thể đặc sắc nhất
mà thơ thiền của cả hai thời đại lớn : Lý – Trần (Việt Nam) và Đường – Tống (Trung Quốc)
đã mang lại cho nền văn học Phật giáo.
Không phải ngẫu nhiên mà D.T Suzuki đã dành rất nhiều trang cho phần viết về cảm thức
hành hương của các thiền sư Nhật Bản mà trong đó Basho là một đại biểu vĩ đại: “Trong thời
đại Basho, cuộc sống con người chưa bị đẩy vào sự tầm thường và quẫn bách. Một cái nón
tre, một cây gậy trúc, và một túi vải là đủ cho nhà thơ trong chuyến hành hương đời mình.
Ông có thể dừng lại đôi chút ở một ngôi làng nào đó, hoặc ở bất kỳ nơi nào đập vào trí
tưởng tượng của nhà thơ, hứng thú trước một kinh nghiệm nào đó đến với mình, cho dù
những điều này bao chứa cả nỗi gian khổ của chuyến hành hương giản dị. Nhưng hãy nhớ
rằng một cuộc hành trình quá dễ dàng và đầy đủ tiện nghi đồng nghĩa với việc ý nghĩa tinh
thần của nó cũng mất đi. Có thể đó là sự đa cảm, nhưng cảm giác cô đơn mà chuyến du
hành mang lại sẽ giúp con người thấu hiểu được ý nghĩa của đời sống, vì cuộc sống này, suy
cho cùng, là một chuyến phiêu lưu vô định”. Tất nhiên, Basho là nhân vật của thế kỷ 17,
cách xa hai triều đại mà chúng tôi quan tâm đến 3 thế kỷ. Nhưng tinh thần thiền học Nhật
Bản với những thành tựu mỹ học rực rỡ của nó cũng là những điểm tham chiếu trong khi
luận bàn về thơ thiền phương Đông nói chung. Hành hương, trong nhiều góc độ, lại gợi ra cả
cảm thức lưu đày kín đáo. Điều này xảy ra khi hành hương trở thành hành trình sống với nội
dung ám chỉ thân phận con người. Do đó, đôi khi những chuyến đi trong thơ thiền vẫn
không tránh khỏi niềm u uẩn.
Trong thơ thiền Việt Nam và Trung Quốc, người ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh: áo tơi, gậy
trúc, lều cỏ, đường núi, thuyền không, am vắng, …Đó là gì, nếu không phải là cốt cách và
không gian của một hành nhân vĩnh cửu?
Trong thiền tịch Trung Hoa, có một thi ảnh tuyệt vời, rút từ công án “Muôn dặm không một
tấc cỏ” của thiền sư Động Sơn. “Ngoài cửa là cỏ” - Không gian cỏ mênh mông là đường
chăng? Hay chẳng phải đường? Ngoài cửa là sự sống chăng? Hay là cái chết? “Ngoài cưa
là cỏ” là một thi ảnh đa nghĩa, gợi ra một không gian huyền ảo. Hành giả tu thiền chính là
người đi trên con đường chẳng phải đường ấy, với mục đích tối hậu là biến cuộc phiêu lưu
thành chuyến trở về. Xuất phát từ cảm thức hành hương mà hàng loạt các hình ảnh thơ ca
xuất hiện trong thơ thiền Việt Nam và Trung Quốc đều mang một ý vị triết lý rất riêng với
những ám ảnh tinh tế về con đường tu chứng nhọc nhằn nhưng không kém phần kỳ diệu.
3. Con người hành hương – những biểu hiện nghệ thuật và tư tưởng trong thơ thiền
Lý Trần và Đường Tống:
3.1. Con người với hành trình lên núi cao
Núi non trong kinh điển Phật giáo là những hình ảnh quen thuộc, biểu tượng cho giác ngộ, ví
dụ như núi Tu Di, núi Linh Sơn (hay Linh Thứu), núi Lăng già… Núi non rừng sâu từ xa xưa
cũng là nơi tu tập của nhiều bậc đại sư, thánh hiền. Vì thế, hình ảnh những ngọn núi cao
ngất và hành trình lên núi cao thường để lại nhiều dấu ấn trong thơ ca thiền tông. Nói như
Thiền sư Vân Nham, “Núi sông đất đai đều hiển lộ pháp thân” hoặc như Trương Duyệt: “Núi
sâu tịch lịch đạo tâm sinh”. Hành trình lên núi là hành trình của những thien nhân “Giày cỏ
đan vài ba tháng – Ao gai từng vá đôi lần” (Thiền sư Linh Trừng), “ngồi nhàn với hoa trên
non, chim dưới suối” (Vương An Thạch), là “người cầm ngang ống sáo ngọc” mà đi giữa
đường hoa nửa sáng nửa tà lên nui (Trần Nhân Tông), là người “chống gậy nhởn nhơ ngoài
thế gian” mà ngắm nhìn mây trên đỉnh núi cao ngất (Tuệ Trung thượng sĩ)…
Tô Thức có bài vịnh núi Lô Sơn đậm phong thái thiền học: “Thiền đạo với thi ca là đồng hay
khac, chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi; hãy quên đi những sự phân biệt Ta và Người, cuối cùng,
anh với tôi hãy mở cánh cửa bắc, ngẩng đầu nhìn lên ba mươi sáu ngọn núi xanh”. Tô Thức,
cũng như Hàn Sơn, Vương Duy, Trần Thái Tông đều là những bậc thiền nhân thiết tha với
cảnh núi non, am vắng. Núi non là nơi cất giữ tâm linh cho họ, cũng là nơi trở về của Tâm
thể. Núi cao, sâu, vắng lặng. tương đồng kỳ diệu với Tâm không.
Đường quanh theo non núi xanh xanh, đường núi, đường mòn, đường vắng chính là những
biến thể khác nhau của tinh thần hành hương thiền tông. Trong bài Ngẫu tác, Tuệ Trung
thượng sĩ đã viết như sau:
Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên
Dịch thơ:
Giữa nhà không nói chỉ ngồi yên
Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên
(Huệ Chi dịch)
Tác giả ngồi giữa phòng thiền nhưng tâm linh đang xuôi chảy một hành trình riêng – hành
trình lên đỉnh tinh thần mà nhà thơ gói gọn bằng một chữ “nhàn”: Nhàn ngắm sợi khói bay
trên đỉnh Côn Luân. Sợi khói mong manh ấy có thể thu hút toàn tâm của một thiền nhân
ngồi an tọa giữa nhà. Đó là một pháp chứa vạn pháp trong thế giới Hoa Nghiêm chăng? Tâm
người và sợi khói trên đỉnh chót núi kia đồng nhau chăng? Tâm người lên núi theo sợi khói
nhỏ của hơi thở – một hành trình kỳ diệu.
Đời Đường, thi Phật Vương Duy cũng có câu tuyệt bút về hành trình trên núi như sau:
Sơn lộ nguyên vô vũ
Không thúy thấp nhân y
Dịch nghĩa:
Đường núi vốn không có mưa
Chỉ màu xanh hư không làm ướt áo người
Màu xanh hư không của Vương Duy là một ám ảnh giàu chất thơ và mang phong vị thiền
sâu kín. Màu xanh hư không ấy rất gần với tánh không bao la, cái sunyata huyền mộng của
tinh thần Trung Quán; nhưng làm sao cái tánh không ấy có thể làm ướt áo người? Hay nó
cũng đồng với cõi trần ai? Hay nó vẫn hằng theo đuổi và chở nặng thân phận con người?
3.2. Con người với những chuyến tiêu dao, chơi đùa
Hơi thở của Lão Trang trong thơ thiền có lẽ thể hiện đậm nhất ở tính chất chơi đùa. Cuộc
hành hương của những hành giả trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát, pha chút nhiệm màu bởi
được tinh chế rất nhiều xúc cảm của thú tiêu dao.
Vương Duy trong nhiều bài thơ đã kể lại những chuyến du ngoạn đến nguồn đào – suối hoa
đào. Đó có thể là một cảnh tượng đẹp trong bất kỳ bài thơ nào, nhưng với xúc cảm giác ngộ
có từ hoa đào của thiền sư Linh Vân, hình ảnh hoa đào còn mang một ý vị giải thoát. Nhà
thơ viết:
Ngư chu trục thủy ái sơn xuân
Lưỡng ngạn đào hoa giáp cổ tân
tọa khan hồng thụ bất tri viễn
Dịch nghĩa:
Thuyền chài theo dòng nước yêu cảnh nước non mùa xuân
hai bên bờ hoa đào nở trên bến cũ
mãi xem “hồng thụ” mà không biết đã đi xa…
Tuệ Trung thượng sĩ có đến hai bài Giang hồ tự thích, một bài là cảnh của chiếc thuyền
không nằm ghếch trên cát sau chuyến hồ hai mải mê, va bài còn lại có hình ảnh chiếc
thuyền nhỏ lênh đênh trên sông dài, cùng với tiếng nhạn kêu giữa gió thu… Âm hưởng tiêu
dao của nhà thơ thể hiện rõ nét hơn qua bài Phóng cuồng ngâm:
Thiên địa diếu vọng hề hà mang mang
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương
Hoặc cao cao hề vân chi sơn
Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương
Cơ tắc xan hề hòa la phạn
Khốn tắc miên hề hà hữu hương
Hứng thời xuy hề vô khổng địch
Tĩnh xứ phần hề giải thoát hương
Quyện tiểu phại hề hoan hỷ địa
Khát bão xuyết hề tiêu dao thang
Dịch nghĩa:
Ngắm trời đất sao mà mênh mông
Chống gậy nhởn nhơ ngoài thế gian
Hoặc đến chỗ núi mây cao cao
Hoặc đến chỗ biển nước sâu sâu
Đói thì ăn cơm hòa la
Mệt thì ngủ làng “không có làng”
Khi hứng thì thổi sáo không lỗ
Nơi yên tĩnh thì thắp hương giải thoát
Mệt thì nghỉ tạm đất hoan hỷ
Khát thì uống no thang tiêu dao…
(Huệ Chi – Đỗ Văn Hỷ)
Đó là thế giới của hoan hỷ và kỳ diệu. Cuộc tiêu dao của Tuệ Trung tuy chứa đựng sâu thẳm
niềm an nhiên của Thiền, nhưng vẫn không ngừng trở thành niềm hân hoan của con người
trước cuộc chơi lớn, nơi đạo và đời cùng một gương mặt.
Huyền Quang tôn giả cũng có bài Chu trung (Trong thuyền) gợi khí vị thiền rất khéo: Một lá
thuyền con, một khách hải hồ – Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc – Bốn bề mịt mù, con
nước buổi chiều đương lên – một chim âu trắng giữa khoảng trời nước liền nhau[3]. Hay ở
bài Phiếm chu (Chơi thuyền), nhà thơ cũng kể về còn thuyền xa tít ruổi rong giữa chốn non
xanh nước biếc, nơi có trăng rơi xuống đáy sông…
3.3. Con người với chiếc thuyền trong sóng nước :
Bát nhã Tâm kinh kết thúc bằng mật chú với ý nghĩa: “đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, qua
đến bờ bên kia”(Yết đế! Yết đế! Ba la yết đế! Ba la tăng yết đế!Bồ đề tát bà ha!). Hình ảnh
con thuyền đưa hành giả vượt bờ (đáo bỉ ngạn) trở thành hình ảnh thường xuyên trong văn
học Phật giáo với nhiều biến thể như: con thuyền chở trăng, con thuyền Bát nhã, con
thuyền sang bờ bên kia, con thuyền của tánh không bao la…
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, trang 126, viết: ‘Không những đứng về
phương diện tư tưởng mà đứng về phương diện văn học, hình ảnh một chiếc thuyền trống
không lặng lẽ vượt biển dưới ánh trăng tịch tĩnh của Lăng Già là một hình ảnh màu nhiệm”.
Đó là con thuyền không của thiền sư Huệ Sinh (đời Lý): “Không không độ hải chu”, là con
thuyền đầy ắp ánh trăng của Hoa Đình Thuyền tử - vị thiền sư chèo thuyền bí ẩn đời Đường
với câu thơ kinh điển: “Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui”, nghĩa là: con thuyền suông
chở ánh trăng sáng quay về. Tuệ Trung thượng sĩ đời Trần thì khác hơn. Con thuyền của ông
là con thuyền ngao du, con thuyền trong cuộc chơi của mọi sóng gió, con thuyền “chơi đùa
với chân như”, “chơi đùa với hư không”, là con thuyền của “cái lòng trống không, cái hư
tâm”: “Người chèo nay bặt tăm hơi – Thuyền không trên cát lâu rồi thuyền không”[4].
Thơ thiền đời Đường còn có câu thơ lạ của Đầu Tử Nghĩa Thanh: “Tịch dương ảnh lý phong
đào cấp - Bất giác di chu hạ độ hôn”, nghĩa là: trong bóng chiều sóng to gió cả - Bỗng nhiên
(ta) đẩy thuyền xuống bến ngao du. Khác với con thuyền thong thả về chốn thiền của
Vương Duy, con thuyền của Đầu Tử ngao du như nhiên giữa sóng gió như nhiên. Những
cuộc vượt bờ thường vẫn không giống nhau, bởi vì thời tiết nhân gian cũng luôn khác nhau.
3.4.Con người tìm kiếm:
Những thiền sư-nhà thơ như như Hàn Sơn, Vương Duy, như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần
Nhân Tông, sau này là Basho của Nhật Bản, đều là nhưng hành giả vĩ đại trên con đường
giải thoát. Con đường gắn với sự tìm kiếm và tu luyện đã trở thành một biểu tượng. Đó là
con đường vô tận và sâu thẳm của Vương Duy khi đi về suối hoa đào, đường của Tuệ Trung
trong khúc cuồng ca, đường của Điều ngự Trúc Lâm Trần Nhân Tông trên đỉnh Yên Tư
Cuộc du hành ấy là cuộc tìm kiếm không nguôi ánh sáng của tự do và đại ngộ. Bản thân
khái niệm “tìm kiếm” trong thiền chứa đựng một nội dung kép, đó là sự khổ học và “hài
hước”. Một xê xích mảy may có thể biến cuộc tìm kiếm ấy thành một trò đùa của vô minh.
Vì thế, tính chất “phản tỉnh” trong tìm kiếm thường xuất hiện rất nhiều trong thơ thiền của
cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Bài thơ sau của Sơ Sơn Như mang khí thiền lồng lộng:
Bất xuất man man thảo lộ già
Xuất môn do cánh cách thiên nhai
Hồi cơ đạp trước thông tiêu lộ
Hà xứ thanh sơn bất thị gia
Dịch nghĩa:
Không đi cỏ phủ che đường lối ra cửa vẫn còn cách trời xa
lúc xoay đầu lại đạp nhằm con đường dẫn lên trời
chỗ núi xanh nào mà chẳng phải là nhà của thiền nhân trở về”[5].
Con đường-chẳng phải đường ấy lại trở thành bản tâm, được nhìn từ thế lưỡng vong - cả hai
đều quên của chính hành gia - quên con đường vọng động để trở lại lập tức với sơ tâm.
Thiền sư Trạm Đường Trung Quốc có câu thơ rất huyền diệu: “Phong đầu lộ, tạm kinh quá”
nghĩa là: Phật chỉ là con đường trên đỉnh cô phong, có thể đi qua mà chẳng thể ở lại. Vạn
pháp là vô môn, kể cả pháp vĩ đại nhất là Niết Bàn, vì vậy mà hãy đi qua nó, như cánh chim
không để lại dấu vết. Vương Lão Sư (Trung Quốc) có cả chùm 10 bài thơ vịnh tranh chăn
trâu. Cảm thức tìm dấu, thay dấu, tìm trâu, được trâu… phản chiếu cái nhìn thiền học về
bản thể rất rõ nét. Hình ảnh con đường xa thẳm, mênh mông, không có lối… là nỗi ám ảnh
lớn lao nhất đối với người “cầu đạo”. Thiền sư Linh Vân Chí Cần viết: “Tam thập niên lai tầm
kiếm khách – Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi”, nghĩa là: Ba mươi năm qua đi tìm bậc chân sư –
bao lần lá rụng lại đâm chồi. Hay như Thuyền Tử Đức Thành: “Tam thập niên lai hải thượng
du – thủy thanh ngư hiện bất thôn câu”, nghĩa là: Ba mươi năm nổi trôi trên biển đạo –
Nước trong thấy rõ cá mà cá chẳng ăn mồi…[6]
Không khí khắc khổ tìm kiếm trong thơ thiền Trung Quốc thường được thay bằng niềm an
nhiên hồn hậu “đừng tìm kiếm” của thơ thiền Việt Nam. Đó là các lời khuyên nhủ tưởng
chừng rất ngược giáo pháp: “Chẳng cần niệm Phật, chẳng cần Thiền, Muốn biết không tội
phuc thì đừng trì giới và nhẫn nhục (Tuệ Trung) Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền; Ai trói
buộc mà phải tìm cách giải thoát (Trần Nhân Tông)…
Hình ảnh con đường và nỗi niềm hành hương còn ghi lại dấu ấn vô cùng sâu sắc trong thơ
Trần Thánh Tông:
Sinh như trước sam
Tử như thoát khố
Tự cổ cập kim
Cánh vô dị lộ
Dịch thơ:
Sống như mặc áo
Chết như cởi quần
Xưa nay vô cùng
không đường nào khác”[7]
(Nhật Chiêu dịch)
Con người tìm kiếm điều gì, dù lớn lao đến đâu, cũng chỉ vòng quanh hai chữ tử sinh mà Vô
nhị Thượng nhân Trần Thánh Tông đã gọi tên: “trước sam” – “thoát khố” (mặc áo- cởi
quần). Bởi thế mà nhà thơ gọi nó là con đường duy nhất. Mọi sự tìm kiếm đều là những
bước đi hướng tâm về cõi không, nhìn cuộc đời trong những biến đổi hết sức phù vân mà
cũng vô cùng sinh tử.
4. Đôi lời kết
Nhà nghiên cứu mỹ học thiền tông nổi tiếng Blyth trong Thiền và Thiền cổ điển (Zen and
Zen classics) viết: “Thiền mang đến cho chúng ta “lời giảng pháp trên hòn đá và cuốn sách
trong dòng suối chảy”, và một câu khác: “cánh cửa ma lực của thơ ca mở ra biển cả của
những sóng gió khổ đau”. Hành trình của con người Thiền trong các trước tác của các thiền
sư, nhà thơ thể hiện rõ ý chí hành đạo và sự hoà đồng huyền diệu vào đời sống, thiết tha
mà không bám víu, giải thoát mà không lìa bỏ. Con người hành hương là tiêu điểm chứa
đựng nhiều hạt nhân mỹ học và tư tưởng Phật giáo, tạo thành một trong những hình tượng
có sức chứa lớn lao về cả về triết lý trong thơ, về nhân cách thiền sư – thi sĩ, về quan điểm
con người trong hành trình tôn giáo và hành trình sống…