Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

skkn hiệu trưởng sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường thpt điểu cải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.3 KB, 39 trang )

Huongdanvn.com –Có hơn 1000 sáng kiến kinh nghiệm hay
SỞ
GIÁO SỞ GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT ĐIỂU CẢI

HIỆU TRƯỞNG SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP QUẢN LÝ TRONG CHỈ ĐẠO ĐỘI
NGŨ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
Người thực hiện: Trần Xn Trúc
Lĩnh vực: Quản lý Giáo dục
Tháng 5 năm 2012


1


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Trần Xuân Trúc
2. Ngày tháng năm sinh: 16 / 10/1976
3. Nam, nữ: nam
4. Địa chỉ: Túc Trưng, Định Quán, Đồng Nai
5. Điện thoại: 0976702404
6. Fax
7. Chức vụ: Hiệu Trưởng
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Điểu Cải
II.TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
Học vị ( trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: cử nhân
Năm nhận bằng: 2000
Chuyên ngành đào tạo: ngữ văn
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC


Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: quản lý giáo dục
Số năm kinh nghiệm: 5 năm
Các sáng kiến trong vòng 5 năm ngần đây: 4
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Để công tác quản lý đạt hiệu quả đáp ứng được yêu cầu sự phát triển của xã
hội, thì phải sử dụng các phương pháp hữu hiệu. Bởi vì các phương pháp quản lý là
một trong những nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý.
Trong quản lý yếu tố chủ thể quản lý giữ vai trò quyết định. Người quản lý
giỏi phải thường xuyên học tập nâng cao nghiệp vụ lãnh đạo quản lý. Trong một
giai đoạn lịch sử nhất định, ở mỗi quốc gia đều có chính sách đào tạo cán bộ quản
lý khác nhau phù hợp với yêu cầu quản lý xã hội.
Để quản lý công tác giáo dục và đào tạo đạt chất lượng cao và có hiệu quả thật
sự cần phải sử dụng phương pháp quản lý phù hợp với đối tượng giáo dục và các
tình huống thực tiễn trong quản lý giáo dục và đào tạo.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, vấn đề đạo đức được đề cao hơn bao giờ hết.
Đạo đức mới khuyến khích con người vươn tới cái thiện, đạt tới hạnh phúc đích
thực ngay từ trong đời sống thực tiễn. Nó định hướng qúa trình tu dưỡng rèn luyện
con người trong lao động chung sống với nhau. Vì vậy người thầy giáo lên lớp
không chỉ truyền thụ những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội mà thông qua dạy chữ để dạy người. Đây chính là chức năng, nhiệm vụ trực
tiếp của giáo viên chủ nhiệm.
Cuộc sống hôm nay, khi sự nghiệp công nhiệp, hiện đại hóa đất nước đang
được đẩy mạnh, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định thì tiềm năng, trí tuệ
cùng với sức mạnh tinh thần và đạo đức con người càng được đề cao và phát huy
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
toàn diện cho học sinh là cả một quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi phải hết sức
công phu, kiên trì, liên tục bởi bên cạnh những ảnh hưởng tiến bộ của cơ chế thị
trường, của hội nhập vẫn còn các mặt trái gây tác động không nhỏ tới đời sống xã

hội. Thực tế có một bộ phận học sinh đã, đang bị phần tử xấu lôi kéo vào các tệ
nạn xã hội, hoặc thiếu sự giáo dục thường xuyên nên đã bắt chước hành vi của
người khác theo cảm tính chủ quan.
Chính vì lẽ đó, mỗi cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói chung và cán bộ
quản lý trường THPT Điểu Cải nói riêng phải cần quan tâm nghiên cứu đề tài:
“Hiệu Trưởng sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm ở trường THPT Điểu Cải”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mục đích nghiên cứu phân tích thực trạng việc hiệu trưởng sử dụng các
phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm trong hai năm học
2009 - 2010, 2011 - 2012 đồng thời tìm ra những giải pháp sử dụng có hiệu quả
3
các phương pháp sử dụng của hiệu trưởng trong chỉ đạo công tác chủ nhiệm thời
gian tới tại trường THPT Điểu Cải.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Tìm hiểu cơ sỏ lý luận của đề tài
- Phân tích thực trạng việc sử dụng các phương pháp quản lý của hiệu trưởng
trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT Điểu Cải.
- Đề xuất các giải pháp cải tiến và rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc
sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm.
4. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
Phương pháp quản lý là cả một vấn đề quản lý rất rộng lớn và trong phạm vi
thời gian cho phép bản thân tôi xin chỉ trình bày một bộ phận của công tác quản lý
nhà trường đó là: “Hiệu Trưởng sử dụng các phương pháp quản lý trong chỉ đạo
đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT Điểu Cải”.
5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Được sử dụng để tìm hiểu những vấn đề lý
luận cơ bản làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát kết hợp nghiên cứu sản phẩm.
4

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.
Hiện nay có nhiều khái niệm về công tác quản lý của các nhà khoa học quản
lý ở trong và ngoài nước. Mỗi khái niệm tiếp cận ở một góc độ khác nhau. Để tìm
hiểu một cách cụ thể khái niệm các phương pháp quản lý, cần đề cập một số vấn đề
sau đây:
Lê Nin cho rằng: phương pháp quản lý là công cụ, là phương tiện của chủ
thể quản lý, thông qua phương tiện này để tác động, liên kết với đối tượng và
khách thể quản lý. Điều này nói lên tính chủ quan của phương pháp quản lý, bởi vì
nếu xem phương pháp quản lý là công cụ, thì công cụ này là sản phẩm chủ quan
của con người. Tuy nhiên công cụ bao giờ cũng tác động cũng là cái tác động vào
đối tượng, khách thể, vì thế khi sử dụng công cụ để đảm bảo tính hiệu quả, bản
thân nó phải chịu sự chi phối khách quan của môi trường và các điều kiện quản lý.
Trong giáo trình khoa học quản lý, các nhà khoa học Nga đã phân tích và
cho rằng: phương pháp quản lý là tổng thể những phương pháp tiến hành hoạt động
quản lý bằng cách sử dụng những phương tiện kỹ thuật, hành chính, những biện
pháp kinh tế, tâm lý giáo dục khác nhau. Khái niệm này được đề cập đến các công
cụ chủ yếu của phương pháp quản lý. Công cụ của phương pháp quản lý bao gồm:
Các mệnh lệnh hành chính, các công cụ đòn bẩy kích thích lợi ích vật chất, các yếu
tố tâm lý giáo dục và các điều kiện vật chất kỹ thuật kinh tế - xã hội phụ vụ cho
quá trình quản lý. Như vậy, với khái niệm này mở ra cho nhà quản lý khả năng to
lớn khi lựa chọn các công cụ để sử dụng các phương pháp quản lý. Khi giải quyết
công việc nhanh chóng trong một tình huống cấp bách, người quản lý thường dùng
công cụ hành chính. Khi muốn định hướng đối tượng quản lý vào những công việc
mà không thể dùng mệnh lệnh hành chính bắt buộc họ thì người ta sử dụng công cụ
đòn bẩy kinh tế. Còn khi muốn đối tượng quản lý có một tâm trạng ổn định, thoải
mái thì người ta dùng phương pháp tâm lý giáo dục để thuyết phục.
Giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ rất quan trọng trong giáo dục nhân cách

của người học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường
hình thành và phát triển các mối quan hệ lành mạnh trong tập thể tạo ra được các
tình cảm bạn bè thân thiết, tình thầy trò, lòng nhân ái, yêu quê hương tổ quốc. Xây
dựng bầu không khí tâm lý đoàn kết, nhất trí trong công việc. Có ý nghĩa vô cùng
lớn lao trong giáo dục đạo đức học sinh và là tiền đề thuận lợi để giáo viên chủ
nhiệm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện các em.
Với tầm quan trọng ở trên nên công tác chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc quản lý của người hiệu trưởng. Làm thế
5
nào để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp? Chỉ có con đường đổi mới sử
dụng các phương pháp quản lý hiện nay. Đây chính là vấn đề cần thiết của nhà
trường trong việc giáo dục toàn diện học sinh.
Dù khái niệm phương pháp quản lý được thể hiện dưới góc độ khác nhau
nhưng giữa chúng đều có chung đặc điểm, đó là: tính mục đích, tính nguyên tắc,
tính biến đổi và sự nhạy cảm của phương pháp quản lý. Từ sự phân tích trên, ta có
thể rút ra một khái niệm tương đối tổng quát, đó là: phương pháp quản lý là tổng
thể cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trên cơ sở mục
tiêu, các nguyên tắc quản lý và môi trường nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả
quản lý.
* Vai trò của phương pháp quản lý trong hoạt động thực tiễn quản lý hiện nay ở
nước ta.
Các phương pháp quản lý giữ vai trò đặc biệt trong hệ thống quản lý, bởi vì
các phương pháp quản lý là một trong nội dung cơ bản của quá trình quản lý. Các
nguyên tắc nhiệm vụ của quản lý cũng chỉ được thực hiện thông qua các phương
pháp quản lý. Các phương pháp quản lý có hiệu quả sẽ tạo điều kiện để khơi dậy
những động lực, kích thích tính năng động sáng tạo của con người và tiền năng của
hệ thống quản lý cũng như các cơ hội.
Phương pháp quản lý là mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa hệ thống quản lý
và hệ thống bị quản lý, tức là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản
lý được thể hiện một cách cụ thề, sinh động với tất cả sự phong phú, phức tạp của

đời sống vật chất tinh thần. Vì vậy, các phương pháp quản lý mang tính đa dạng và
phong phú, đó là vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong quản lý vì nó là bộ phận năng
động nhất của cả hệ thống quản lý. Phương pháp quản lý thường xuyên thay đổi
trong từng tình huống cụ thể, tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng, năng lực và
trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý.
Sử dụng phương pháp quản lý vừa là khoa học vừa là tính nghệ thuật. Tính
khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để
tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với
đối tượng. Tính khoa học biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương
pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội, đạt mục tiêu quản lý đề ra.
Phương pháp quản lý có vai trò quyết định đến hiệu quả quản lý, hiệu quả
quản lý cao hay thấp phụ thuộc vào việc sử dụng phương pháp quản lý có hiệu quả
hay không. Với ý nghĩa đó, hiệu quả của phương pháp quản lý sẽ là tiêu chuẩn
quan trọng nhất để đánh giá tính đúng đắn và tính hữu ích trong việc sử dụng các
phương pháp quản lý. Hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý càng cao có ý
nghĩa là chi phí càng thấp mà kết quả thu được càng lớn
Từ những đánh giá phân tích trên, chúng ta có thể rút ra vai trò của các
phương pháp quản lý như sau:
6
- Thứ nhất: Khi sử dụng các phương pháp quản lý sẽ tạo ra hiệu quả quản lý ngày
càng tăng lên. Điều này được thể hiện dưới đây:
+ Khi sử dụng các phương pháp quản lý có tính khoa học và nghệ thuật, phù
hợp với điều kiện, đặc điểm mục tiêu, nguyên tắc, có tính năng động, sáng tạo thì
sẽ khai thác triệt để khả năng của mọi đối tượng quản lý.
+ Khi sử dụng các phương pháp quản lý sẽ thực hiện được hiệu quả của
mục tiêu và nguyên tắc quản lý một cách cụ thể. Bởi vì, bản thân mục tiêu và
nguyên tắc quản lý chưa thể hiện được hiệu quả vì nó chỉ mới ở trong nhận thức
của con người. Muốn biến nhận thức đó thành hành động cụ thể nhằm tạo hiệu quả
thì phải sử dụng các phương pháp quản lý.
+ Sử dụng các phương pháp quản lý thúc đẩy quá trình thực hiện yêu cầu,

nội dung mà chủ thể quản lý đã đề ra, nó thể hiện tính lựa chọn, tính năng động và
tính thực tiễn sâu sắc, tức là sử dụng phương pháp như thế nào ? Tác động đến ai ?
phạm vi sử dụng đến đâu ? nhằm mục đích gì ? mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội
như thế nào ?
- Thứ hai: Sử dụng các phương pháp quản lý sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp để khắc
phục những yếu kém, trì trệ, bảo thủ của cả chủ thể và đối tượng quản lý. Thông
qua nó sẽ đánh giá chính xác hơn khả năng, trình độ tiếp nhận mệnh lệnh từ chủ
thể quản lý theo phương pháp tác động có mục đích, có định hướng. Điều này thể
hiện qua các khía cạnh sau:
+ Bản thân mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó.
Ví dụ : phương pháp tổ chức hành chính có nhiều ưu điểm, song cũng có hạn chế,
nó chưa gắn lợi ích vất chất với đối tượng quản lý. Nhưng khi sử dụng phương
pháp tổ chức hành chính kết hợp với phương pháp kinh tế, phương pháp tâm lý
giáo dục thì sẽ khắc phục được tình trạng căng thẳng về tính bắt buộc của nó và
kích thích được lợi ích vật chất khi thực hiện mệnh lệnh quản lý.
+ Các phương pháp quản lý về mặt lý thuyết tưởng chừng như trừu tượng
nhưng khi sử dụng tổng hợp thì nó lại trở thành sức mạnh giúp cho chủ thể quản lý
vượt qua những khó khăn, cản trở, nhất là những trường hợp có sự biến động mà
chưa lường hết được.
- Thứ ba: Sử dụng các phương pháp quản lý sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền về
động lực, tức là động lực được phát huy, nhân tố con người được sử dụng, đánh giá
đúng mức, được tôn trọng về nhân cách và tình cảm nội tâm của đối tượng quản lý.
Từ đó họ phấn chấn hơn, hăng hái hơn trong việc thực hiện kế hoạch đã đề ra. Điều
này bắt nguồn từ các điều sau đây:
+ Khi được chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý bằng mệnh lệnh
có tính đặc thù, họ sẽ thấy mình được tôn trọng, trọng dụng. Điều này tạo sức
mạnh cho đối tượng quản lý.
+ Động lực trong việc sử dụng các phương pháp quản lý có vai trò tác động
đến đối tượng quản lý, làm cho đối tượng quản lý dần dần thay đổi, đáp ứng nhu
7

cầu, mục tiêu đề ra. Ngay bản thân chủ thể quản lý, do tác động đến đối tượng
quản lý cũng nâng cao trình độ, kinh nghiệm và nghệ thuật quản lý, thể hiện được
vị trí người lãnh đạo quản lý.
- Thứ tư : Thông qua sử dụng các phương pháp quản lý có tác động lớn đến việc
tăng cường, phát triển mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng và khách thể quản
lý. Đó là những mối quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình lao động sản xuất. Đối
với các cơ quan quản lý ở tầm vĩ mô thông qua sử dụng các phương pháp quản lý
sẽ có vai trò điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế xã hội.
+ Khi sử dụng các phương pháp quản lý thì cả chủ thể và đối tượng quản lý
đều thấy vai trò và trách nhiệm của mình.
+ Tạo ra thông tin ngược chiều, thông tin phản hồi làm cho quan hệ giữa chủ
thể và đối tượng quản lý ngày càng thêm chặt chẽ, thể hiện tổng hòa các mối quan
hệ xã hội nói chung và tổng hòa quan hệ quản lý nói riêng.
- Thứ năm: Sử dụng các phương pháp quản lý chính là sử dụng các công cụ quản
lý có hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, quyền hạn của các
chủ thể và đối tượng quản lý.
+ Sức mạnh của chủ thể quản lý trước hết thể hiện qua việc sử dụng các
phương pháp quản lý. Đây là sức mạnh tổng hợp, thể hiện nội lực bên trong của
con người trong hoạt động quản lý. Nó không thể hiện tính bắt buộc và nặng nề
như công cụ pháp luật, nhưng nó biến nỗ lực của mỗi cá nhân thành nỗ lực chung
và luôn bồi đắp bởi sự hài hòa, sâu rộng về các mặt của chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý trong quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Do đó nó đạt
được hiệu lực, hiệu quả cao nếu sử dụng đúng nội dung trong điều kiện hoàn cảnh
nhất định. Tất nhiên, nếu áp dụng sai thì vai trò của nó sẽ gây hậu quả ngược lại,
bởi vì đây là công cụ quản lý mang tính nhạy cảm rất lớn.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý.
Phương pháp quản lý là công cụ, là “ cầu nối” giữa chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý và khách thể quản lý. Do tính đa dạng và phức tạp của chủ thể, đối
tượng và khách thể quản lý nên việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp quản lý
cũng có sự khác nhau. Đối tượng quản lý luôn vận động và thay đổi, điều này buộc

các nhà quản lý cũng phải luôn luôn hoàn thiện các phương pháp quản lý và thay
đổi cách vận động sao cho phù hợp với sự thay đổi đó. Thực tế cho thấy có những
nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc sử dụng các phương pháp quản lý sau:
- Thứ nhất : Trình độ, năng lực, phẩm chất của chủ thể quản lý.
Để sử dụng các phương pháp quản lý hiệu quả, nhân tố ảnh hưởng có tính
quyết định là chủ thể quản lý. Bởi vì, chủ thể quản lý phải có năng lực tư duy, vận
dụng lý luận vào thực tiễn trên cơ sở nắm vững các quy luật khách quan thì mới có
8
thể sử dụng có hiệu quả các phương pháp quản lý. Nhân tố chủ thể quản lý được
hiểu dưới các khía cạnh sau:
+ Chủ thể quản lý tác động theo chức năng, nhiệm vụ, và quyền uy của mình
để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Do đó, đòi hỏi chủ thể quản lý phải luôn luôn
đổi mới nhận thức và phương pháp tác động nhằm mang lại hiệu quả cao hơn.
+ Chủ thể quản lý phải có một trình độ nhất định để chi phối và thu phục đối
tượng quản lý theo mệnh lệnh ban hành.
+ Nhân tố chủ thể quản lý có tính hai mặt, vừa đảm bảo tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm khi đưa ra quyết định, vừa mang tính liên đới đến đối tượng quản lý,
đòi hỏi việc sử dụng các phương pháp quản lý như thế nào cho phù hợp.
- Thứ hai : Trình độ nhận thức của đối tượng quản lý.
Mục tiêu chủ yếu của chủ thể quản lý chính là đối tượng quản lý trong quá
trình sử dụng các phương pháp quản lý. Vì vậy, đối tượng quản lý là nhân tố ảnh
hưởng lớn đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Khi chủ thể quản lý ra
các mệnh lệnh quản lý, nếu đối tượng quản lý không tiếp nhận, không cảm thụ thì
cản trở đến quá trình tác động của chủ thể quản lý, dẫn đến mục tiêu và nguyên tắc
quản lý không đạt được. Khi đối tượng quản lý yếu kém về kiến thức và phẩm chất
thì hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý bị hạn chế. Thực tế chỉ ra rằng, ở
đâu đối tượng quản lý có khả năng trình độ kiến thức, phẩm chất và đạo đức thì
việc sử dụng các phương pháp quản lý sẽ thuận lợi mang lại hiệu quả cao.
- Thứ ba: Cơ chế chính sách pháp luật.
Đây là một hệ thống nhân tố tác động đến quá trình sử dụng các phương pháp

quản lý, người quản lý và người lao động luôn chịu sự tác động của các nhân tố
nên trong và bên ngoài. Chính điều này làm thay đổi ý thức và phương hướng tác
động của chủ thể đối với đối tượng quản lý. Cụ thể như khi chủ thể và đối tượng
quản lý đang hoạt động trong môi trường cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ,
thông thoáng thì sẽ kích thích họ làm việc với động lực cao hơn và ngược lại, khi
mà chính sách pháp luật còn bất hợp lý sẽ làm cho động lực giảm sút. Điều này thể
hiện rất rõ ở nước ta khi chuyển đổi cơ chế quản lý mới, do chính sách pháp luật
chưa chuyển đổi kịp nên hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý còn thấp. Có
thể nói đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sử dụng các phương pháp
quản lý. Trong thực tế các phương pháp hành chính, kinh tế, giáo dục chính là cụ
thể hóa và vận động hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước đối với con người
trong hoạt động quản lý.
- Thứ tư: Nhân tố về môi trường tổ chức, tâm lý giáo dục và môi trường xã hội.
Nhân tố về môi trường tổ chức, tâm lý giáo dục và môi trường xã hội ảnh
hưởng đến quá trình sử dụng các phương pháp quản lý. Bởi vì, khi đối tượng quản
lý có được môi trường tổ chức, tâm lý giáo dục và môi trường xã hội thuận lợi sẽ
làm cho họ vững vàng trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong quá trình tiếp
9
nhận sự tác động của chủ thể quản lý một cách có hiệu quả. Nếu môi trường này
không thuận lợi thì họ không thể yên tâm làm việc, dẫn đến sự tác động của chủ
thể quản lý sẽ bị hạn chế, thiếu hiệu quả như mong muốn.
* Một số quan điểm cần quán triệt trong qúa trình sử dụng các phương pháp
quản lý.
+ Quan điểm 1 : Trong qúa trình sử dụng các phương pháp quản lý phải đặc biệt
hiệu quả, hiệu lực của phương pháp quản lý. Làm cho qúa trình sử dụng các
phương pháp quản lý ngày càng đi vào chiều sâu, chiều rộng trong thực tiễn quản
lý. Quan điểm này cần quán triệt các vấn đề sau:
- Hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp quản lý phải thể hiện bằng hiện
thực chứ không phải trừu tượng, chung chung, đó là: Thông qua việc sử dụng các
phương pháp quản lý, trình độ khoa học và nghệ thuật quản lý của chủ thể quản lý

được tăng lên, hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế ngày càng
phát triển, thu nhập, đời sống vật chất tinh thần của người lao động được nâng cao,
thực hiện đúng chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước.
- Hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp quản lý phải thể hiện ở sức cạnh
tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng lên, hiệu lực quản lý của
các đơn vị hành chính sự nghiệp phải được thể hiện thông qua việc thực hiện các
mệnh lệnh hành chính một cách nghiêm minh, khắc phục tình trạng trên nói dưới
không nghe và ngược lại.
+ Quan điểm 2 : Sử dụng các phương pháp quản lý phải khơi dậy được tính năng
động sáng tạo của đối tượng quản lý, tạo điều kiện để biến nỗ lực cá nhân thành nỗ
lực của một tổ chức, tạo sự cộng hưởng để thực hiện tốt mục tiêu, nguyên tắc đã đề
ra, tạo ra nếp nghĩ cách làm mới cho chủ thể và cả đối tượng quản lý, kích thích
chủ thể quản lý vì lợi ích thiết thực mà làm việc có hiệu quả hơn, về quan điểm này
cần quán triệt các vấn đề sau:
Phương pháp tổ chức hành chính là phương pháp tổ chức rất nhạy cảm, đồng
thời nó cũng mang tính bắt buộc đối tượng quản lý phải thực hiện nếu chủ thể quản
lý sử dụng phương pháp đúng đắn, khắc phục tình trạng tùy tiện, không chấp hành
các mệnh lệnh hành chính của cấp trên. Trường hợp đối tượng quản lý có thể
không đồng tình và không thống nhất khi tiếp nhận mệnh lệnh quản lý. Nhưng nếu
mệnh lệnh đó đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và vì lợi ích chung của tổ chức
thì buộc đối tượng quản lý thực hiện nhằm tạo ra tính thống nhất trong bộ máy
quản lý. Mặt khác phải quán triệt trong khi sử dụng phương pháp hành chính, tổ
chức là phải gắn quyền hạn và trách nhiệm của chủ thể quản lý khi ban hành các
mệnh lệnh hành chính, nếu sai thì phải chịu trách nhiệm về hậu quả gây ra.
+ Quan điểm 3 : Sử dụng các phương pháp quản lý cần phải nghiên cứu khoa học
tâm lý về đối tượng quản lý. Bởi vì bản chất con người tổng hòa các mối quan hệ
10
xã hội, trong thực tiễn nó diễn ra rất phức tạp và có tính trừu tượng. Do đó đòi hỏi
chủ thể quản lý phải quán triệt các mặt sau:
- Cần phải phân biệt cá tính và hoàn cảnh riêng riêng biệt của từng người để

có sự điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng, lựa chọn đúng đắn phương pháp
quản lý cho từng người, từng tổ chức, tránh tình trạng áp dụng chung chung.
- Chủ thể quản lý phải có những quy định cụ thể để điều chỉnh hành vi của đối
tượng quản lý.
- Chủ thể quản lý cần quán triệt phương châm “dụng nhân như dụng mộc”, do
đó đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp quản lý mang tính khoa học và nghệ
thuật cho đúng người, đúng việc để mang lại hiệu quả cao.
+ Quan điểm 4 : Phải thể hiện sử dụng đồng bộ cả ba phương pháp quản lý trong
quá trình quản lý.
Bởi vì nếu sử dụng riêng rẽ từng phương pháp quản lý mà không mang tính
đồng bộ, tổng hợp thì hiệu quả mang lại sẽ thấp. Như chúng ta đã biết cả ba
phương pháp đều có ưu nhược điểm nhất định, cho nên sử dụng tổng hợp cả ba
phương pháp sẽ góp phần hạn chế được nhược điểm và phát huy ưu điểm của từng
phương pháp.
- Như chúng ta đã biết, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội, do đó khi giải quyết một vấn đề nào đó thì phải giải quyết tổng hòa các mối
quan hệ mới đảm bảo tính hiệu quả. Đồng thời cần phải nhận thức rằng ba phương
pháp quản lý nói trên là quá trình hoạt động của con người, cụ thể là : Khi con
người mới bắt tay vào làm việc thì phải thông qua bố trí, sắp xếp nơi ở, điều kiện
làm việc tức là thông qua phương pháp tổ chức hành chính. Để con người nâng cao
được hiệ quả hoạt động thì phải có chính sách khuyến khích vật chất tức là thông
qua phương pháp kinh tế, nhưng để ngăn chặn những tư tưởng chạy theo lợi ích tối
đa, bất chấp đạo lý, nhân tâm, thì phải sử dụng phương pháp tâm lý, giáo dục. Do
vậy, quan điểm sử dụng hài hòa tổng hợp ba phương pháp là vấn đề đặc biệt quan
trọng để nâng cao hiệu quả quản lý.
+ Quan điểm 5 : Sử dụng các phương pháp quản lý phải có sự kế thừa, chọn lọc để
sử dụng những nhân tố, những tinh hoa, chắt chiu những kiến thức và tư duy mới
cho phù hợp với cơ chế thị trường và khoa học về quản lý.
- Khi áp dụng phương pháp quản lý mới đòi hỏi nhà quản lý phải nghiên cứu,
chọn lọc những ý tưởng mới của những phương pháp đã áp dụng trước đó, khắc

phục tư tưởng mỗi lần sử dụng phương pháp mới trong một tổ chức thì bỏ hết các
yếu tố tinh hoa của các phương pháp trước nó hoặc không nghiên cứu xem xét
những phương pháp đã áp dụng để kế thừa những mặt tốt.
- Con người dưới góc độ sử dụng các phương pháp quản lý cũng có những ưu
điểm và nhược điểm. Vấn đề là biết khai thác, phát hiện cái mới trên cơ sở kế thừa
những tinh hoa, những ý tưởng đẹp làm cho quá trình sử dụng các phương pháp
11
quản lý thời gian sau sẽ mang tính khoa học, nghệ thuật và hiệu quả hơn thời gian
trước.
* Sự cần thiết khách quan phải sử dụng có hiệu quả các phương pháp quản lý.
Hiệu quả sử dụng các phương pháp quản lý là mối quan hệ so sánh giữa kết
quả đạt được so với chi phí đã bỏ ra. Các phương pháp quản lý dựa trên cơ sở các
mục tiêu, các nguyên tắc và các quy luật khách quan trong quản lý. Do đó dù muốn
hay không muốn, các tổ chức đều phải thực hiện có hiệu quả các phương pháp
quản lý. Chỉ có thể sử dụng các phương pháp quản lý mới thực sự mang lại hiệu
quả. Thực tế cho thấy, đây là vấn đề hết sức cần thiết. Các tổ chức nói chung, các
doanh nghiệp nói riêng muốn nâng cao hiệu quả, tăng lợi nhuận thì phải đổi mới
việc sử dụng các phương pháp quản lý, coi đây là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp. Bởi vì các phương pháp quản lý là những công cụ mang tính khoa học,
được đúc kết từ thực tiễn, nó có đối tượng và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Nhà
kinh tế học Samuelson đã nói: “Chỉ sợ không có phương pháp quản lý có hiệu quả
và không coi nó là vấn đề tất yếu khách quan mà thôi…Bởi vì, cả về phương diện
lý thuyết và thực tiễn, phương pháp quản lý luôn luôn là vấn đề cấp bách và quan
trọng đối với mọi tổ chức kinh tế xã hội”. Song đáng tiếc hiện nay nhiều tổ chức
kinh tế xã hội chưa coi phương pháp quản lý là vấn đề cần thiết khách quan, mà
còn có tư tưởng coi nhẹ nó và thực hiện hiệu quả thấp.
Để nâng cao hiệu quả các phương pháp quản lý đòi hỏi trí tuệ và bản lĩnh
chủ thể quản lý ngày càng nâng cao. Với một trình độ chuyên môn và kinh nghiệm
nhất định thì ở những thời kỳ nhất định chỉ có thể có những phương pháp quản lý
nhất định. Làm thế nào để các phương pháp đó được các chủ thể quản lý vận dụng

một cách sáng tạo, linh hoạt và thực tế để mang lại hiệu quả quản lý cao nhất là
vấn đề cấp bách đã và đang đặt ra. Bởi vì hiệu quả phương pháp quản lý bao giờ
cũng là sự đòi hỏi trong quá trình thực hiện.
* Phương pháp hành chính:
Để giảm bớt mức độ quan liêu hóa của phương pháp tổ chức hành chính,
người quản lý khi xác lập cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý phải tuân thủ nguyên
tắc tập trung dân chủ, có quan tâm đến điều kiện cụ thể của các thành viên trong tổ
chức.
Phương pháp tổ chức hành chính hướng tác động vào yêu cầu chung của tổ
chức đến mỗi thành viên với các biện pháp :
- Một là, thiết lập cơ cấu tổ chức với vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm cho mỗi cấp, mỗi khâu, mỗi nhóm, mỗi thành viên, nhờ đó mà
quyền lực thông suốt và hiệu lực từ trên xuống dưới.
- Hai là, điều chỉnh các hoạt động của tổ chức phải nhịp nhàng, đồng bộ,
nhất quán và đúng hướng thông qua các điều luật, nội quy, quy chế, điều lệ.
- Ba là, đánh giá các kết quả quản lý nghiêm túc, chính xác, công bằng tạo
cơ sở cho việc thưởng phạt nghiêm minh đối với các thành viên trong tổ chức.
12
Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của phương pháp tổ chức hành chính, chủ
thể quản lý phải chuyên môn hóa các chức năng, nhiệm vụ tạo điều kiện tích lũy
kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả công việc. Hệ thống quyền lực của tổ chức phải
được phân công ủy quyền rõ ràng, có hiệu lực, hiệu quả.
Mỗi người cán bộ quản lý phải chuyển hóa được quyền lực của tổ chức sao
cho thành quyền uy thực sự, được mọi thành viên trong tổ chức phục tùng tự giác.
* Phương pháp kinh tế:
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế.
Phương pháp kinh tế phải thông qua việc lựa chọn và sử dụng các công cụ
đòn bẩy kinh tế như giá cả, lãi suất, tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận để tác động
đến điều kiện hoạt động của con người. Thông qua các chính sách và đòn bẩy kinh

tế người ta tự tính toán thiệt hơn để tự quyết định hành động của mình, mỗi người
phát huy tài năng sức lực của mình, tự chủ lấy công việc của mình không có sự can
thiệp trực tiếp của tổ chức.
Phương pháp kinh tế là lấy lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy con người
hành động. Lợi ích đó thể hiện qua thu nhập của mỗi người, lấy lại từ thành quả
chung, phù hợp với mức độ đóng góp của mỗi người. Nếu người quản lý quá coi
trọng lợi ích chung, coi nhẹ lợi ích cá nhân của mỗi người sẽ triệt tiêu động lực của
họ. Ngoài tiền lương, tiền thưởng, thì trợ cấp cũng là lợi ích bổ sung cho thu nhập
của con người. Trợ cấp không liên quan đến công việc, nhưng có ý nghĩa củng cố
thêm mục tiêu của tổ chức, giúp thu hút và động viên các thành viên làm việc tốt
hơn cho tổ chức.
Khi thu nhập thực tế của con người chưa cao, nhu cầu vật chất của mọi
người mới chỉ được đáp ứng ở mức thấp, thì con người khi thực hiện công việc đó,
đều rất quan tâm đến lợi ích và thu nhập. Vì vậy người quản lý ở mọi tổ chức phải
hết sức coi trọng và vận dụng phương pháp kinh tế.
So với các phương pháp quản lý khác, phương pháp kinh tế có ưu điểm là
đặt mỗi người vào điều kiện tự mình được quyết định làm việc như thế nào là lợi
nhất cho mình và cho tổ chức mình.
Tuy vậy phương pháp kinh tế cũng có những hạn chế vốn có của nó. Nếu
lạm dụng phương pháp kinh tế dễ dẫn tới chỗ chỉ nghĩ tới lợi ích vật chất, thậm chí
lệ thuộc vào vật chất, tiền của mà quên tinh thần, đạo lý, có thể dẫn tới những hành
vi phạm pháp. Động lực từ lợi ích cá nhân của mỗi người nếu không định hướng và
kiểm soát sẽ dẫn người ta đến chỗ làm ăn phi pháp, phi đạo lý.
* Phương pháp tâm lý – giáo dục:
Phương pháp tâm lý – giáo dục là sự tác động tới đối tượng quản lý thông
qua hệ tâm lý, tư tưởng, tình cảm. Phương pháp tâm lý – giáo dục dựa vào uy tín
13
của người quản lý để lôi cuốn mọi người trong tổ chức hăng hái, tích cực tham gia
công việc.
Phương pháp tâm lý – giáo dục vận dụng các định luật, nguyên tắc tâm lý và

giáo dục, nhờ đó người quản lý nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, mong
muốn, tình cảm, đạo đức, lý tưởng của mỗi người và có biện pháp tạo lập trong
mỗi con người niềm say mê, phấn khởi, ý thức có trách nhiệm, tinh thần sáng tạo
đối với công việc.
Trong giới hạn của các biện pháp tổ chức hành chính và kinh tế, nếu người
quản lý biết vận dụng khéo léo phương pháp tâm lý – giáo dục sẽ thúc đẩy con
người làm việc đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Động cơ làm việc của mỗi người là mong muốn được thực hiện công việc
theo một các nhất định. Sự mong muốn này được thúc đẩy bởi nhu cầu bên trong
của mỗi người kết hợp với sự tác động bên ngoài của người quản lý. Từ nhu cầu
bên trong đến động cơ làm việc của con người, hình thành một quá trình tâm lý với
các bước: nhu cầu, chuẩn mực, mục đích, kế hoạch, năng lực và động cơ. Người
quản lý phải biết điều chỉnh được các bước hình thành động cơ làm việc của mỗi
người.
Những yếu tố tạo động lực còn nảy sinh từ nội dung công việc, các nhà tâm
lý học cho rằng, một công việc tạo động lực thúc đẩy con người làm việc hàm chứa
các yếu tố: Sự thành đạt, sự công nhận, khả năng thăng tiến chức, sự thách thức,
tinh thần trách nhiệm và khả năng phát triển.
Động cơ làm việc là lĩnh vực tâm lý, tinh thần của mỗi người, chịu ảnh
hưởng của rất nhiều nhân tố chủ quan khác nhau, ít bộc lộ ra ngoài nên khó nhận
biết. Người quản lý có thể hiểu được động cơ làm việc của mỗi người từ nhiều góc
độ khác nhau. Tốt nhất là làm việc gần gũi với họ, tìm hiểu và làm rõ điều gì đã
thúc đẩy họ làm việc.
Động cơ làm việc của con người là trong tổ chức còn chịu ảnh hưởng từ uy
tính, phong cách, đạo đức, tác phong công tác và sinh hoạt của bản thân người
quản lý. Uy tín của người quản lý là sự công nhận tự nguyện vai trò chủ đạo của
người quản lý trong toàn tổ chức. Nó thể hiện sự tôn trọng, quan tâm, lòng bao
dung, khả năng thu hút mọi người đến với mình. Đó là phẩm chất cần có và phải
giữ gìn của mỗi người quản lý.
Phương pháp tâm lý – giáo dục không thể thiếu trong quản lý mọi tổ chức,

nhất là các tổ chức xã hội. Để khắc phục, người quản lý phải biết kết hợp với các
phương pháp tâm lý – giáo dục và phương pháp kinh tế.
14
Chương II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VIỆC HIỆU TRƯỞNG SỬ DỤNG
CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ TRONG CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN
CHỦ NHIỆM TẠI TRƯỜNG THPT ĐIỂU CẢI
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TRƯỜNG THPT ĐIỂU CẢI
1)Vài nét về lịch sử trường :
Trường THPT Điểu Cải toạ lạc tại xã Túc Trưng - Định Quán - Đồng Nai .
Trường được thành lập theo quyết định số 1693/QĐ/UBT của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Đồng Nai ngày 19/10/1982 với tổng diện tích 9.063 m
2
. Trường THPT Điểu
Cải nguyên là cơ sở hai của trường THPT Tân Phú ( nay là trường THPT Tân Phú
- Huyện Định Quán). Năm học 1983 – 1984, cơ sở 2 trường THPT Tân Phú được
tách ra thành một trường mới, đặt tại quê hương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân Điểu Cải (Người dân tộc chơro) và trường được mang tên THPT Điểu Cải.
Năm học đầu tiên trường chỉ có 5 lớp, 177 học sinh, 11 cán bộ giáo
viên,công nhân viên
Trường THPT Điểu Cải nằm ở địa bàn xa xôi, khó khăn, có nhiều đồng bào
dân tộc thuộc huyện miền núi. Cơ sở phục vụ cho công tác dạy- học được mượn tại
khu tin lành .
Từ năm 1995- 1996 trường đã được Uỷ Ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đầu tư
xây dựng khang trang với 3 dãy lầu.
a) Khối hành chính quản trị: gồm 01 lầu, 01 trệt ; có 01 phòng hội đồng,
01phòng Hiệu Trưởng, 02 phòng phó Hiệu trưởng; 01 phòng văn thư, 01phòng tài
vụ, 01phòng công đoàn; khu nhà vệ sinh giáo viên ở phía cuối.
Tầng trệt gồm 02 phòng thí nghiệm thực hành lý, sinh , 01 phòng truyền thống,
01 phòng thuyền thống , 01 phòng đoàn TN,

b) Khối phục vụ học tập: Là dãy kế tiếp 01 trệt 02 lầu, có 12 phòng gồm
( 01Hội trường, 02thư viện (01 phòng đọc), 02phòng kho thiết bị, 02 phòng máy
chiếu dạy bằng công nghệ thông tin, 02phòng máy tính, 01 phòng thí nghiệm hoá,
02 phòng học)
c) Khối học tập: Dãy tiếp theo gồm 01 trệt 02 lầu gồm 21 phòng học, khu vệ
sinh kèm theo vào cuối 3 tầng lầu.
Với số lượng học sinh hàng năm đều tăng theo thông kê sau:
Năm học 1996 – 1997 trường có 15 lớp với 668 học sinh
Năm học 1997- 1998 trường có 17 lớp với 741 học sinh
Năm học 1998- 1999 trường có 19 lớp với 875 học sinh
Năm học 1999- 2000 trường có 24 lớp với 1.165 học sinh
Năm học 2000- 2001 trường có 30 lớp với 1.383 học sinh
Năm học 2005- 2006 trường có 38 lớp với 1.695 học sinh
……
15

Năm học 2010 - 2011 trường có 39 lớp với 1705 học sinh
Năm học 2011- 2012 trường có 38 lớp với 1593 học sinh
Hàng năm số lượng học sinh tốt nghiệp THCS của 5 xã trên địa bàn bình quân
khoảng 800 học sinh, song trường chỉ xét tuyển khoảng 585- 610 học sinh theo chi
tiêu phân bổ của sở GD. Vì trường thiếu phòng học cho nên không thể đáp ứng
được .Cho nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến số học sinh còn lại phải đi học xa
các trường dân lập cách xa khoảng 15 km trở lên.Tính từ thời điểm trường có từ
21 lớp trở lên đến nay đều học 2 ca. Hiện nay tăng thêm một số môn học khác như
giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp, phụ đạo cho học sinh thì phòng học lại
không đáp ứng đủ.
Tình hình diễn biến các tệ nạn xã hội tác động không nhỏ đến đạo đức học sinh.
2) Về đội ngũ
Tổng số CB, GV, CNV hiện nay là 96 người được chia ra như sau.
Tổng

số
Nữ Đảng
Viên
Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ
Trình độ lí luận
chính trị
Tuổi nghề
Thạc

Đại
học
Cao
Đẳng
Trung
cấp
Cao
cấp
Trung
cấp

cấp
Trên
5
năm
dưới
5
năm
CBQL 3 1 3 01 2 0 0 1 0 0 2 01
Giáo

Viên
84 35 18 5 84 0 0 0 0 0 64 20
Nhân
Viên
6 4 0 0 1 1 1 0 0 0 5 1
a. Thuận lợi
- Về cán bộ quản lý :
Có 03 đồng chí 02 nam, 01nữ ( Ban giám hiệu tuổi đời còn trẻ) phẩm chất đạo
đức tốt, năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình tận tụy trong công tác, làm
việc có khoa học, biết phát huy tính dân chủ, sáng tạo của tập thể sư phạm nhằm
tạo bầu không khí sư phạm thoải mái, hăng say trong công tác cho nên chất lượng
dạy - học nề nếp kỷ cương học sinh được ngày được nâng lên .
- Về đội ngũ giáo viên, công nhân viên:
Đa số là trẻ, nhiệt tình trong công tác, có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư
tưởng chính trị vững vàng, có lối sống lành mạnh, đoàn kết trong nội bộ, có ý chí
phấn đấu vươn lên.
16
Hiện trường có 05 thạc sỹ, trong đó có 5 giáo viên đang học đến cuối năm
2012 sẽ vượt chỉ tiêu 10% giáo viên có trình độ thạc sĩ đây là một lợi thế rất lớn
của nhà trường để từng bước nâng cao chất lượng. Đó cũng chính xuất phát từ tầm
nhìn lớn của Hiệu Trưởng đã tạo mọi điều kết tốt nhất cho giáo viên phấn đấu để
nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, nguồn nhân lực có chất lượng cao trở
thành phong trào thi đua trong mỗi giáo viên tự phấn đấu.
Chi bộ nhà trường có 21 đảng viên đều là những tấm gương sáng, có bản lĩnh
chính trị vững vàng luôn đi đầu trong mọi phong trào, thực sự là hạt nhân lãnh đạo
mọi hoạt động của nhà trường.
3/ Về tổ chức đoàn thể.
Gồm Tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên
hiệp Thanh niên việt Nam.
* Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh:

Năm học 1996 – 1997 có 15 chi đoàn với 215 Đoàn viên
Năm học 1997- 1998 có 17 chi đoàn với 388 Đoàn viên
Năm học 1998- 1999 có 19 chi đoàn với 575 Đoàn viên
Năm học 1999- 2000 có 24 chi đoàn với 662 Đoàn viên
Năm học 2000- 2001 có 30 chi đoàn với 784 Đoàn viên
Năm học 2005- 2006 có 38 chi đoàn với 1.055 Đoàn viên
……
Năm học 2010- 2011 có 40 chi đoàn với 1442 đoàn viên / 1676 Tổng số
học sinh.
Năm học 2011- 2012có 39 chi đoàn ( 1 chi đoàn GV) với tổng số: 1482
đoàn viên / 1953 Tổng số học sinh
Hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả, tiêu biểu đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh với bộ máy tổ chức luôn được kiện toàn. Ban chấp hành gồm 15 đ/c,
Tổng số chi đoàn 39 trong đó 01 chi đoàn giáo viên giữ vai trò nòng cốt.Từ năm
2002 đến nay luôn đạt danh hiệu đoàn cơ sở vững mạnh và là ngọn cờ đầu của
huyện đoàn Định Quán.
Trong nhiều năm liền đoàn trường được Huyện Đoàn- Tỉnh Đoàn tặng bằng
khen, giấy khen và các phần thưởng cao quý khác.Từ những thành quả đã đạt được
cho thấy đoàn trường có vai trò hết sức to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cách
mạng, giáo dục truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc cho ĐVTN góp phần
xây dựng nề nếp kỷ cương, tình thương trách nhiệm trong nhà trường luôn được
giữ vững ổn định và phát triển bền vững.
b. Khó khăn
Diện tích khuôn viên trường chật hẹp chỉ có 90.063 m
2
/ 1593 HS( thiếu ½
tổng diện tích).Sân chơi bãi tập hết sức khiêm tốn, nên trong hoạt động phong trào,
ngoài giờ lên lớp luôn gặp không ít khó khăn.
Đội ngũ giáo viên đa số là trẻ, tuổi đời từ 22 đến 35 chiếm khoảng 70 % nên
kinh nghiệm chưa nhiều trong giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh. Đời

17
sống của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn nên phần nào cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến công tác giảng dạy .
Đa số học sinh của trường đều sống ở nông thôn, kinh tế gia đình có nhiều khó khăn
và đặc biệt việc đầu tư cho con em học tập của các bậc phụ huynh chưa được quan
tâm đúng mức, nhận thức chưa sâu việc phối kết hợp với nhà trường để giáo dục đạo
đức cho học sinh.
4. Tình hình đạo đức học sinh:
- Cuối học kỳ I năm học 2011-2012 so với năm học trước có nhiều tiến bộ.
4.1. Veà Haïnh kieåm:
Khối Tổng số HS Xếp loại
Tốt Khá TB Yếu Kém
10 626 434 105 44 43
11 481 350 75 37 19
12 486 361 89 24 12
Tổng 1593 1145 269 105 74
Tỷ lệ 71,9% 16,9% 6.6% 4.6% 0
+ Xếp loại tốt: So cùng kỳ năm trước tăng 1,5 %
+ Xếp loại khá: So cùng kỳ năm trước tăngg 1.5%;
+ Xếp loại TB: So cùng kỳ năm trước không tăng 1.9%;
+ Xếp loại yếu: So cùng kỳ năm trước giảm 1.1%;
Qua thống kê cho thấy. Tính đến cuối học kỳ I hạnh kiểm học sinh loại yếu
và trung bình khối 10,11 mặc dù có giảm so với năm học trước nhưng vẫn còn cao.
Điều này phản ánh độ tuổi phát triển tâm sinh lý học sinh khối 10,11 vẫn còn có
những suy nghĩ, hiểu biết hành động nông nổi. Nên các biện pháp giáo dục của nhà
trường, của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm và đoàn TN thật sử hiểu về tâm lý, khoa
học và công tác phối hợp giáo dục với gia đình, phải kịp thời, nhịp nhàng nhằm tìm
ra biện pháp khắc phục:
Học sinh sa sút về đạo đức biểu hiện như sau:
- Nhiễm phim ảnh bạo lực, gaem

- Tập tành hút thuốc, uống rượu bia
- Vấn đề gây xôn xao, dư luận trong xã hội về bạo lực học đường
- Ỷ lại gia đình khá giả, mang tư tưởng ăn chơi hưởng thụ
- Hỗn xược với cha mẹ và người thân
- Tham gia các trò chơi vô bổ gây lãng phí thời gian và tiền bạc ( trò chơi điện
tử)
- Vi phạm trật tự an toàn giao thông
- Gây gỗ đánh nhau trong và ngoài trường.
- Vắng học không lý do
Kết quả trong học kỳ I năm học 2011-2012 hội đồng kỷ luật nhà trường phải tiến
hành kỷ luật tới 6 vụ việc học sinh vi phạm nội quy nhà trường như đánh nhau, phá
hoại tài sản nhà trường
18
Bởi thế việc giáo dục đạo đức học sinh chỉ có hiệu quả khi giáo viên chủ
nhiệm làm việc tích cực khoa học và có sự phối hợp nhà trường, gia đình, ban
ĐDCMHS được hiệu trưởng chú trọng, quan tâm chỉ đạo kịp thời. Đến cuối năm
học 2011-2012 kết quả bảng thống kê cho thấy đã mang lại kết quả tiến bộ.
5. Đội ngũ giáo viên, đặc biệt là GV chủ nhiệm( GVCN);
Đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm chỉ chiếm một số ít, còn lại đa số GVCN
trẻ tuổi đời, tuổi nghề. Nên việc xử lý học sinh vi phạm còn gặp nhiều lúng túng
chưa có nhiều kinh nghiệm. Công tác phối hợp với gia đình phụ huynh học sinh
chưa kịp thời, chặt chẽ, hoặc chưa hiểu sâu vai trò, hiệu quả của sự phối hợp. Nắm
bắt tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh chưa sâu sắc, thiếu sự động viên chia sẻ thực
sự đối với học sinh có hiện tượng hư hỏng cần được sự cảm hóa học sinh. GV bộ
môn thì có tư tưởng học sinh sai phạm là trách nhiệm của của GVCN và nhà
trường cho nên vào lớp chỉ biết giảng dạy thiếu thời gian giáo dục tư tưởng, phẩm
chất cho học sinh.Đối vời GVCN thì tiết sinh hoạt lớp hàng tuần chủ yếu là xử và
phạt thiếu đi vai trò giáo dục tư tưởng uốn nắn động viên học sinh và phối hợp với
phụ huynh học sinh để cùng nhau giáo dục học sinh.
Trong năm học 2011-2012 nhà trường thực hiện giải pháp phân loại đối

tượng học sinh để đầu tư dạy phụ đạo cho học sinh yếu, vì thiếu phòng học nên nhà
trường không thể tổ chức học hai buổi đại trà cho tất cả học sinh. Cho nên trong
công tác giảng dạy và chủ nhiệm các lớp yếu giáo viên gặp không ít khó khăn
thách thức.Từ tình hình đó Hiệu trưởng phải tìm các giải pháp trong quản lý công
tác chủ nhiệm để có hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG HIỆU TRƯỞNG SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP
QUẢN LÝ TRONG CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG
THPT ĐIỂU CẢI.
1.Sử dụng phương pháp tổ chức hành chính:
Vào đầu năm học Hiệu trưởng nhà trường căn cứ khả năng của đội ngũ giáo
viên mà phân công làm công tác chủ nhiệm trong năm học mới từ khối 10 đến khối
12. Tuy nhiên, như đã nói ở trên trường THPT Điểu Cải với đội ngũ Giáo viên đa
số là trẻ, kinh nghiệm làm công tác chủ nghiệm chưa nhiều. Bởi vậy việc phân
công giáo viên làm chủ nhiệm đòi hỏi người hiệu trưởng phải hết sức cân nhắc,
thận trọng đặt đúng người và thực tế đòi hỏi các giáo viên làm chủ nhiệm phải có
kinh nghiệm đối với một số lớp yếu, phải là các giáo viên nhiệt tình, có khả năng
giáo dục, kiên trì, chịu khó.
Bên cạnh đó, hiệu trưởng nhà trường căn cứ kết quả công tác chủ nhiệm của
năm trước cũng như tâm tư nguyện vọng của phụ huynh và tình hình thực tế của
nhà trường mà phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Khi đã hình thành
danh sách giáo viên chủ nhiệm lớp, hiệu trưởng tổ chức học tập quán triệt chức
năng và nhiệm vụ người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, biên chế tổ
19
chức công tác chủ nhiệm trong trường. Tổ trưởng tổ chủ nhiệm là đồng chí hiệu
trưởng. Mỗi khối lớp có một nhóm trưởng nhóm chủ nhiệm (trong số GVCN có uy
tín và năng lực). Thông qua báo cáo của nhóm trưởng nhóm chủ nhiệm, nhà trường
nắm được tình hình đạo đức của học sinh nói chung và những học sinh cá biệt nói
riêng, tình hình thực hiện các chủ trương, biện pháp giáo dục học sinh của tập thể
giáo viên, nhờ vậy nhà trường nắm được tình hình dạy và học của giáo viên và học
sinh.Thanh tra được các lượng thông tin cũng như nắm được tình hình chuyên cần,

chăm chỉ, chất lượng học tập của học sinh.
Hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo tổ giáo viên chủ nhiệm: Có kế hoạch sinh hoạt
giữa hiệu trưởng và tập thể giáo viên chủ nhiệm định kỳ hàng tháng và thống nhất
được các chủ trương, biện pháp lớn của nhà trường về công tác giáo dục của nhà
trường. Các giáo viên chủ nhiệm lớp có trách nhiệm báo cáo cụ thể kết quả giáo
dục học sinh về các mặt cho Ban giám hiệu nhà trường. Từ giáo dục đạo đức, văn
hóa, lao động và rèn luyện thân thể theo kế hoạch định kỳ hàng tháng mà hiệu
trưởng đã định trong kế hoạch. Mặt này có ưu điểm là nhà trường có biện pháp kịp
thời cùng với giáo viên chủ nhiệm, gắn kết hợp chặt chẽ trong việc giáo dục toàn
diện cho học sinh. Bên cạnh đó vẫn còn một số điểm cần khắc phục.
Việc phân công làm chủ nhiệm lớp vẫn còn tình trạng cảm tính, thiếu nghiên
cứu cặn kẽ có khoa học đối với đội ngũ giáo viên. Chưa thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ, việc phân công mới dự kiến trong lãnh đạo nhà trường mà
không có thực hiện bàn bạc trong liên tịch. Bởi công việc phân công giáo viên cốt
cán có năng lực phẩm chất tốt làm giáo viên chủ nhiệm các lớp yếu chưa phải là
phương án tối ưu .
Sinh họat định kỳ về công tác chủ nhiệm đôi lúc như cái máy, gò bó, rập
khuôn. Không phát huy tính năng động sáng tạo của giáo viên chủ nhiệm, chưa
thấy hết các tình huống phức tạp của công tác giáo dục tòan diện học sinh. Cụ thể
là thiếu các biện pháp linh họat, chưa minh họa các tình huống giáo dục cá biệt rồi
sử dụng các phương pháp để giải quyết tình huống xảy ra.
Công tác kế thừa bàn giao còn hình thức, không thể hiện sự liên tục của công
tác giáo dục học sinh. Cụ thể giáo viên : Nguyễn văn A làm chủ nhiệm lớp 10B1,
năm học mới nhà trường phân công giáo viên Nguyễn Văn B làm chủ nhiệm lớp
11B1 thì việc bàn giao của hai giáo viên chỉ thể hiện hình thức, qua loa, đại khái,
chưa thể hiện được tính liên tục, kế thừa của sự nghiệp giáo dục.
Nhà trường vẫn chưa phân lọai các đối tượng cho thật hợp lý, khoa học trước
khi phân công giáo viên chủ nhiệm các khối lớp đầu cấp, chỉ căn cứ danh sách
phân bố đều chất lượng cho các lớp chứ không chú ý đến các mặt khác cụ thể như
địa bàn, cùng trường cũ, lớp cũ do đó giáo viên chủ nhiệm lớp hầu như phải làm

mới hòan tòan.
* Một số giải pháp chủ yếu đổi mới phương pháp tổ chức hành chính.
- Trước tiên cần sửa đổi bổ sung hoàn chỉnh quy chế hoạt động của nhà
trường cụ thể là quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Có như
20
vậy mới đề cao được vai trò trách nhiệm của cá nhân đối với nhiệm vụ thực hiện
mục tiêu của nhà trường. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm quy chế.
- Đổi mới công tác tổ chức cán bộ theo hướng nâng cao chất lượng thật sự. Cố
gắng chú trọng xây dựng và hình thành bộ khung quản lý từ chi bộ, chính quyền và
đoàn thể. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên làm công tác
chủ nhiệm.
- Nắm vững lí luận về quản lý nhân sự và thực trạng đội ngũ giáo viên, thu
thập đầy đủ thông tin, xử lý tốt thông tin, vận dụng sáng tạo và linh hoạt vào thực
tiễn cụ thể của trường để làm tốt công tác quy hoạch cán bộ. Nếu người quản lý
thiếu thận trọng cân nhắc trong việc phân công giáo viên thì sẽ sinh ra những vấn
đề làm gây nghi ngờ, hiểu lầm không đáng có. Bởi vậy người quản lý phải hết sức
khéo léo, tế nhị, thận trọng, công bằng, khách quan. Phải căn cứ có khoa học đầy
đủ các yếu như đặc điểm. Nguyện vọng của học sinh. Năng lực, phẩm chất, hoàn
cảnh gia đình của giáo viên. Nguyện vọng của cha mẹ học sinh…để phân công
giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Trong quá trình sử dụng phương pháp tổ chức hành chính thì người quản lý
cần phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
+ Tuyển chọn, đào tạo và bố trí cán bộ theo nhu cầu khách quan của công
việc.
+ Bố trí người đúng việc và phù hợp với nguyện vọng, sở thích và khả năng
của mỗi người.
+ Kết hợp hỗ trợ nhau giữa những mặt mạnh và yếu của cán bộ.
+ Bảo đảm tính kế thừa. Kết hợp quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm của cán
bộ trong tổ chức.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để phát huy được tối đa khả năng, năng lực sở

trường, sở đoản của mỗi cán bộ giáo viên.
- Người quản lý phải tổ chức các cuộc họp rút kinh nghiệm và biểu dương các
cá nhân giáo viên có nhiều nổ lực phấn đấu thi đua nâng cao hiệu quả đào tạo trong
HK, năm học. Cán bộ quản lý phải chuẩn bị tốt nội dung cuộc họp, phân công cụ
thể người trình bày, phải đưa ra được các giải pháp, các vấn đề nảy sinh và phải đề
ra phương hướng hoạt động trong thời gian tới. Đồng thời người quản lý phải biết
cách phát huy dân chủ của các thành viên dự họp, tập hợp mọi ý kiến, mọi giải
pháp của đội ngũ để xây dựng phương án tới. Người chủ trì phải biết tập trung ý
kiến vào những nội dung trọng tâm cần phải giải quyết và có quyết định đúng đắn,
khéo léo ngắt lời hoặc rút ngắn những ý kiến không đúng trọng tâm của vấn đề.
- Phải đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục trung gian tạo mọi
điều kiện thuận lợi, ưu tiên cho nhịêm vụ trung tâm giáo dục là giảng dạy và học
tập. Nhà trường cần có các hình thức kiểm tra: Kiểm tra pháp chế, kiểm tra dân
chủ, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất. Có thể tổ chức kiểm tra chéo giữa các
khối lớp, giám sát lẫn nhau, làm cho hoạt động của nhà trường sôi động, nhịp
nhàng, thống nhất, phát triển toàn diện trên các mặt. Có được như vậy thì hiệu
trưởng mới có thể thấy rõ được hoạt động cụ thể của từng giáo viên để đề ra các
21
biện pháp quản lý kịp thời trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học
sinh.
- Khi sử dụng phương pháp tổ chức hành chính cần phải bảo đảm tính quyền
uy thực, bảo đảm hiệu lực của các quyết định của người quản lý. Khi ra các quyết
định cần phải bảo đảm tính dân chủ, phải bảo đảm chuẩn xác, có luận cứ khoa học
đúng pháp luật. Cũng cần có biện pháp cương quyết xử lý các trường hợp chấp
hành quyết định nội quy không nghiêm theo luật hành chính. Đồng thời cũng phải
gắn trách nhiệm cụ thể cho người quản lý. Người quản lý chịu trách nhiệm trước
quyết định sai trái của mình.
2. Sử dụng phương pháp kinh tế:
Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của trường phổ thông, quy định chế độ công
tác của người giáo viên. Tức là các công việc giáo dục toàn diện học sinh và xây

dựng tập thể học sinh tiên tiến là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi thầy cô giáo.
Nhà trường có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách về công tác
kiêm nhiệm theo đúng quy định của nhà nước. Tuy vậy căn cứ vào thực tế đã có
thêm các mức bồi dưỡng ngoài quy định chung đó là:
Việc căn cứ hiệu quả giáo dục để kích thích các giáo viên làm công tác chủ
nhiệm là điều cần thiết, mức ấn định này được quy định rõ rang với từng đối tượng
giáo viên chủ nhiệm trong hội nghị cán bộ công chức, viên chức đầu năm học.
- Nếu được phân công làm công tác chủ nhiệm các lớp yếu thì ngoài định mức
quy định của nhà nước thì ngoài ra mỗi tuần được tính thêm một tiết. Tiết này
được tính vào định mức lao động trong một tuần lễ của giáo viên.( Theo thông tư
49, giáo viên phân công làm công tác chủ nhiệm thì mỗi tuần được tính 4 tiết).
- Đã có mức chi thêm cho giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm giảng dạy
và công tác chủ nhiệm các lớp yếu học phụ đạo. Mức bồi dưỡng hàng tuần thêm 01
tiết (đây là phục vụ cho đối tượng học sinh yếu, kém, hiếu động nhiều và có nhiều
tình huống giáo dục rắc rối và bất ngờ, xảy ra thường xuyên trong nhà trường).
Nguồn kinh phí trên được vận động từ sự đóng góp của phụ huynh học sinh.
- Lớp yếu mà xếp thi đua học kỳ và cuối năm nằm trong tốp từ thứ nhất đến
thứ mười thì giáo viên chủ nhiệm được thưởng hiện vật trị giá 200.000đồng. Kèm
giấy khen thưởng của công đoàn cơ sở và nhà trường.
- Ngoài phần khen thưởng học kỳ, năm học, nhà trường đã có khen thưởng
vượt tỉ lệ tốt nghiệp cuối cấp (căn cứ tính là so với chất lượng mặt bằng của tỉnh).
Cụ thể thưởng giáo viên vượt tỉ lệ tỉnh 200.000đồng/lớp. Nếu vượt trên 10% thì
thưởng thêm 150.000đồng/lớp, trên 20 % thì thưởng thêm 250.000đồng/lớp, chú
trọng đến các lớp yếu thì giảm 5%.
- Lớp có học sinh đạt học sinh giỏi cấp cấp tỉnh, đều có thưởng cho tập thể
lớp, giáo viên bồi dưỡng, cá nhân học sinh. Tương tự các tập thể lớp có thành tích
trong văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao đem các huy chương về cho nhà trường
đều được thưởng, huy chương đồng 150.000 đồng, huy chương bạc 200.000 đồng,
huy chương vàng 300.000 đồng .
22

- Để kích thích đối tượng học sinh học lớp yếu trong việc nâng cao hiệu quả
giáo dục tòan diện, nhà trường đã miễn giảm học phí đối học sinh đạt danh hiệu
học sinh giỏi và học sinh tiên tiến từng học kỳ. Cụ thể miễn đối với học sinh giỏi
và giảm ½ học phí đối với học sinh đạt danh hiệu học sinh tiên tiến .
Tuy nnhiên bên cạnh đó còn có những hạn chế cần khắc phục đó là :
- Việc dùng các đòn bẩy kinh tế thúc đẩy công tác chủ nhiệm lớp mà nhất là
các lớp yếu nhìn chung là chưa đáp ứng yêu cầu công sức của giáo viên đã đầu tư
bỏ ra. Bởi thực tế nhà trường chủ yếu dựa vào các chế độ chính sách của nhà nước
đã quy định. Muốn thưởng ngoài quy định phải nhờ vào sự hỗ trợ kinh tế của hội
cha mẹ học sinh nên rất là hạn chế.
- Kinh phí giao lưu học tập của trường rất hạn hẹp so với thực tế. Cụ thể việc
tham quan, giao lưu học tập các điển hình tiên tiến về công tác giáo dục ở các
trường bạn hầu như không có làm ảnh hưởng đến việc học tập kinh nghiệm của đội
ngũ giáo viên.
* Một số giải pháp chủ yếu đổi mới sử dụng phương pháp kinh tế.
Việc lập kế hoạch thu chi tài chính phải thực hiện nghiêm túc chặt chẽ, căn cứ
trên các số liệu thông tin đúng, chính xác để xây dựng kế hoạch dựa trên các quan
điểm định hướng và quy chế của ngành. Từ đó mới chủ động tích cực thực hiện có
hiệu quả, phục vụ đầy đủ kịp thời cho hoạt động dạy và học. Trường lớp khang
trang đầu tư xây dựng hợp lý và hiệu quả, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho
việc dạy và học đáp ứng được yêu cầu giáo dục toàn diện các em.
Đảm bảo tiền lương, tiền thưởng và các chế độ vật chất khác phải thực sự
khuyến khích, kích thích cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm, cán bộ giảng dạy,
nhân viên hành chính phục vụ công tác giáo dục.
Xây dựng cụ thể các quy chế thanh toán làm thêm giờ cho cán bộ quản lý và
vượt giờ cho giáo viên đảm bảo đúng chế độ cũng như ban hành quy chế thưởng,
phạt rõ rang, chi tiết và tổ chức thực hiện nghiêm minh.
Xây dựng quy chế phân phối thu nhập hợp lý giữa cán bộ giảng dạy, giáo viên
chủ nhiệm, nhân viên phục vụ theo khả năng cống hiến của từng người.
Từng quý, năm phải tổng kết đánh giá kết quả việc sử dụng phương pháp

kinh tế gắn với chất lượng giảng dạy và phục vụ giảng dạy.
Xóa bỏ cơ chế bình quân trong phân phối lợi ích kinh tế, đúng với nguyên tắc
phân phối theo lao động. Hiện nay, nhà trường cần phải áp dụng các biện pháp sau:
Phải xây dựng được tiêu chuẩn đánh giá chính xác hiệu quả công tác, giảng
dạy. Hệ thống tiêu chuẩn đánh giá kết quả của cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy,
nhân viên phục vụ là một trong những nhân tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển
và nâng cao chất lượng dạy và học của trường. Công khai hóa tiêu chuẩn các danh
hiệu thi đua, khen thưởng giáo viên dạy giỏi, cán bộ quản lý giỏi, giáo viên chủ
nhiệm giỏi, nhân viên tích cực để hưởng các quyền lợi vật chất và tinh thần như:
tăng lương, quyền lợi chính trị, học tập bồi dưỡng và tham quan…
23
- Hệ thống tiêu chuẩn phải được phổ biến công khai, rõ ràng để mọi người
nắm được, từ đó hướng vào tiêu chuẩn để phấn đấu, không còn tình trạng suy bì, so
sánh giữa những người, bộ phận với nhau nhất là bộ phận giảng dạy và bộ phận
phục vụ. Vận dụng linh hoạt chính sách chế độ của nhà nước phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của trường.
Mặc dù có vận dụng chính sách chế độ nhưng vấn đề cơ bản là không được xa
rời các nguyên tắc, có nghĩa là không được trái với chính sách chế độ của nhà nước
quy định cho ngành giáo dục. Chính sách chế độ của nhà nước là trục chính, sự vận
dụng của hiệu trưởng sẽ xoay quanh trục chính đó với một biên độ nhất định.
Ngoài cơ chế tiền lương của nhà nước quy định, nhà trường cần đề nghị sở
giáo dục cho phép vận dụng thêm một số điểm để tạo ra động lực thúc đẩy đối với
cán bộ giảng dạy có năng lực như:
- Thực hiện chế độ phụ cấp kèm cặp trong giảng dạy và giáo dục có chế độ
bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ.
- Thực hiện chế độ thưởng phạt một cách nghiêm minh, hoặc chuyển sang làm
việc khác cụ thể áp dụng các biện pháp sau đây:
+ Không đảm bảo chất lượng giảng dạy theo yêu cầu ở mức trung bình đối với
giáo viên giảng dạy.
+ Đối với nhân viên, những người không hoàn thành công tác được giao, nhất

là các bộ phận quản lý và phục vụ, thì cắt tiền thưởng.
Tổ chức bộ phận theo dõi, kiểm tra kết quả công việc và thu nhập của từng
người, từng bộ phận. Theo dõi kết quả công việc hàng tháng, nhất là những công
việc khó xác định khối lượng cụ thể.
- Kiểm tra việc chấp hành các quy định nội bộ của trường, thực hiện các chính
sách chế độ liên quan đến từng bộ phận, từng người. Quy định về hội họp, giao
ban; quy trình giải quyết công việc của các bộ phận; thực hiện chế độ công tác báo
cáo định kỳ… Qua kiểm tra sẽ phát hiện những khâu lỏng lẽo, những người vi
phạm để tìm biện pháp xử lý.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền và công đoàn trong việc thăm
hỏi cán bộ công chức khi ốm đau, hiếu hỷ, gặp hoàn cảnh khó khăn….
 Trên cơ sở đánh giá xếp loại giáo viên trung học theo Thông tư 30/2009/TT-
BGDĐT, nhà trường còn cụ thể hóa xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thi đua
giáo viên, để dễ dàng khen thưởng chính xác. Cụ thể gồm các phần đánh giá
sau:
* Chính trị tư tưởng đạo đức tác phong (20 điểm):
+ Chấp hành pháp luật nhà nước
( các quy định về dạy thêm, học thêm) 5đ
+ Quan hệ thầy trò, đồng nghiệp, xây dựng khối đoàn kết 5đ
+ Đảm bảo kỷ luật lao động (giảng dạy, hội họp) 5đ
+ Tinh thần ý thức tham gia xây dựng trường lớp 5đ
24
* Chuyên môn (50 điểm):
+ Quy chế chuyên môn (20 điểm), chia ra:
- Giáo án 5đ
- Thực hiện chương trình 5đ
- Điểm số 5đ
- Cộng điểm xếp loại 5đ
+ Chất lượng giảng dạy (30 điểm), chia ra:
- Tiết dạy 10đ

- Kết quả thi đua học kỳ 20đ
* Công tác khác (30 điểm) chia ra:
+ Chủ nhiệm 25đ
+ Công tác khác 5đ
Trên cơ sở đó để đánh giá xếp loại giáo viên và định ra các danh hiệu thi đua
và mức thưởng.
Đạt từ 90 100 điểm đi đôi với danh hiệu lao động giỏi xuất sắc.
80 dưới 90 điểm đi đôi với danh hiệu lao động giỏi.
Khống chế nếu vi phạm kỷ luật lao động và quy chế chuyên môn thì không
xếp loại.
Ngoài ra nhà trường cần có định mức bồi dưỡng cho giáo viên làm chủ nhiệm
cũng như giảng dạy tại các lớp yếu.
- Tất cả kế hoạch chi tiêu tài chính của nhà trường đều sử dụng kinh phí hệ
yếu. Phần kinh phí này phải được sự thống nhất của hội cha mẹ học sinh, tập thể
giáo viên và được sự đồng ý chấp thuận của cơ quan chủ quản là Sở giáo dục và
đào tạo. Bởi vậy người quản lý cần hạch toán đầy đủ các hạng mục, đúng thủ tục,
đúng quy định cho phép của Bộ giáo dục và tình hình thực tế của nhà trường. Từ
đó người quản lý phải chủ động để điều tiết các khoản chi trong phạm vi cho phép
mà lại có tác động lôi cuốn kích thích mọi đối tượng tích cực than gia tốt công việc
được giao.
3. Sử dụng phương pháp tâm lý giáo dục
Trước đối tượng giáo viên không đồng đều về các mặt. Do đó người hiệu
trưởng phải đi sâu, đi sát đội ngũ, phải hiểu được từng giáo viên, nắm được tâm tư,
tình cảm, năng lực, sở trường, chỗ mạnh, chỗ yếu, hoàn cảnh, nguyện vọng… để
phân công công tác chủ nhiệm cũng như nhiệm vụ khác thì mỗi một giáo viên lại
thấy tự tin hơn, tự khẳng định mình trước tập thể với nhiệm vụ mới.
Thực tế việc phân công của nhà trường nếu đảm bảo được hợp lý, hợp tình,
khoa học thì sẽ góp phần nâng cao sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ nhà trường, cả
tập thể sư phạm đồng tâm, hợp lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trung tâm của
nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục nhà trường.

Hiệu trưởng tin vào khả năng vươn lên của giáo viên không định kiến cứng
nhắc trong đánh giá giáo viên làm công tác chủ nhiệm.
25

×