Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

công tác xóa đói giảm nghèo ở xã mỹ yên huyện đại từ, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 52 trang )

LỜI CẢM ƠN
Qua chuyến đi thực tế đầy thú vị và bổ ích trong vòng sáu ngày tại xã Mỹ
Yên huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, lớp Cử nhân Khoa học Quản lý K8 chúng
tôi đã có cơ hội vận dụng những kiến thức đã được học ở Nhà trường vào trong
thực tế chuyến đi của mình, có được sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Đồng
thời giúp chúng tôi học hỏi và lĩnh hội thêm nhiều kiến thức về các lĩnh vực kinh
tế - chính trị - văn hóa – xã hội của xã Mỹ Yên để từ đó thấy được đời sống vật
chất, tinh thần của người dân nơi đây và cả những mong muốn mà người dân
muốn gửi gắm tới Đảng và nhà nước, tới lãnh đạo chính quyền địa phương và tới
cả chúng tôi nữa – những chủ nhân, Nhà Quản lí tương lai của đất nước. Họ hy
vọng rằng những đóng góp nhỏ của chúng tôi trong đề tài nghiên cứu sẽ phần nào
giúp đỡ được bà con nhân dân trong xã dù nó mới chỉ là trên lí thuyết.
Cũng thông qua chuyến đi này đã giúp cho các thành viên trong lớp từ chỗ
chưa biết tên nhau trở thành những người bạn tốt của nhau, gắn bó và đoàn kết.
Chúng tôi cũng đã học được cách làm việc với một tập thể, với cán bộ xã và cả
những người dân nữa. Đây quả thực là một môi trường rèn luyện rất tốt cho chúng
tôi, là điều kiện giúp cho chúng tôi tự hoàn thiện bản thân mình.
Để có được những kết quả thành công như trên đó chính là nhờ vào sự giúp
đỡ tận tình của các thầy cô giáo cũng như các cấp chính quyền và nhân dân xã Mỹ
Yên. Vì vậy, trước tiên chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu
trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên cùng các thầy cô trong Khoa
Văn – Xã hội đã tạo điều kiện và giúp đỡ chúng em có được chuyến đi thực tế này.
Chúng em xin gửi tới cô Nguyễn Thị Linh – giảng viên khoa Văn–Xã hội
lời cảm ơn chân thành nhất. Cảm ơn cô đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn chúng
em trong suốt quá trình đi thực tế và viết báo cáo thu hoạch để nhóm hoàn thành
đề tài.
Cuối cùng, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cấp lãnh đạo và
toàn thể bà con nhân dân xã Mỹ Yên đã luôn luôn sát cánh, giúp đỡ chúng em
trong suốt quá trình hực hiện đề tài tại địa phương.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2011


Nhóm đề tài 05
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu ………………………………………………….
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phỏng vấn sâu
5.2. Phương pháp quan sát
5.3. Phương pháp phân tích tài liệu
6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lí luận
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
7. Kết cấu báo cáo
B. Phần nội dung……………………………………
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.2. Quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà nước đối với công tác xóa đói
giảm nghèo
1.3. Ý nghĩa của việc xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã
hội
Chương 2: Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên huyện Đại Từ
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2008 - 2011
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội xã Mỹ Yên huyện
Đại Từ tỉnh Thái Nguyên

2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.2.Tình hình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên
2.2.1.Tình trạng đói nghèo tại xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
2.2.2. Một số chính sách, chương trình hỗ trợ xóa đói giảm nghèo đã và đang
được thực hiện tại xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
2.2.3 kết quả thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo ở xã Mỹ Yên giai đoạn 2008
– 2010
2.2.4. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quá trình thực hiện công
tác xóa đói giảm nghèo
2.2.4.1. Một số hạn chế
2.2.4.2. Nguyên nhân của hạn chế
Chương 3: Một số khuyến nghị và giải pháp
3.1. Khuyến nghị
3.1.1. Đối với chính quyền xã
3.1.2. Đối với hộ nghèo đói
3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo
3.2.1. Tạo điều kiện cho người nghèo phát tiển sản xuất – tăng thu nhập
3.2.2. Tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ
3.2.3. Đối với lãnh đạo chính quyền ở địa phương
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu, là sự quan tâm hàng đầu của
mọi quốc gia và mọi nền kinh tế. Khi xã hội càng phát triển thì sự tồn tại của một
bộ phận lớn những người nghèo lại làm cho khoảng cách giữa người giầu và người
nghèo trở nên lớn hơn và khi đó người nghèo lại càng khó tiếp cận được với các
dịch vụ của xã hội. Có thể khẳng định chắc chắn rằng, nghèo đói chính là một rào
cản lớn thực hiện tiến bộ xã hội, là nguyên nhân của tình trạng thất học, dịch bệnh,
ô nhiễm môi trường, sự ra tăng các loại tệ nạn xã hội và mất ổn định anh ninh

chính trị. Vì vậy, thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững là một nhiệm vụ kinh tế
- chính trị trọng tâm của tất cả các quốc gia, nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện
cuộc sống cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, hướng tới việc thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chủ Tịch đã luôn luôn
chăm lo đến đời sống của nhân dân, Bác nói: “ hễ dân đói là Đảng và Chính phủ
có lỗi, hễ dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân ốm đau bệnh tật là Đảng và
Chính phủ có lỗi, hễ dân không được học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Người coi đói cũng là một loại giặc nguy hiểm như giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì
vậy, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, người đã sớm phát động
cuộc vận động thi đua ái quốc, kêu gọi toàn dân bằng nhiều phương pháp, cách
thức khác nhau để giúp nhân dân thoát khỏi nạn đói năm 1945 như tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm, nhường cơm xẻ áo, quyên góp gạo cứu đói…Theo
Người, xóa đói giảm nghèo là: ''Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì
khá giàu, người giàu thì giàu thêm”.
Tiếp thu những tư tưởng đó, Đảng và nhà nước ta đã coi xóa đói giảm
nghèo là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Các chương trình hỗ trợ
hộ nghèo như chương trình 135, 167… của Đảng và nhà nước từng bước được
triển khai đến từng địa phương, tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp
phần từng bước nâng cao đời sống của người dân, nhưng trong quá trình triển khai
vẫn còn nhiều gặp phải nhiều khó khăn, thử thách nên hiệu quả việc thực hiện
chính sách xoá đói giảm nghèo đạt được chưa cao.
Mỹ Yên là một xã nghèo thuộc huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên, số hộ
nghèo trong xã còn khá cao chiếm 26.90% (Thống kê năm 2010 của Uỷ ban nhân
dân xã Mỹ Yên). Cùng với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, xã Mỹ Yên đã
thực hiện nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo và đã đạt được những hiệu quả
nhất định, góp phần giảm đáng kể số hộ nghèo trong xã, đời sống nhân dân được
cải thiện. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế.
Xuất phát từ những lý do trên đây, trong chuyến đi thực tế tại địa bàn xã Mỹ
Yên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài : “Công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Mỹ Yên

huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đảng và nhà nước ta đã nhận thấy tầm quan trọng của công cuộc xoá đói
giảm nghèo, nên ngay trong phiên họp đầu tiên khi mới thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (tháng 1/1946), Hồ Chủ Tịch đã khẳng định một trong những
nhiệm vụ tiên quyết lúc này là cần chống lại giặc đói. Những đại hội Đảng sau đó,
đặc biệt là từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản, nghị
quyết đề cập tới vấn đề xóa đói giảm nghèo tiêu biểu như NQ 30A/2008/NQ-CP
về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo,
được Chính Phủ ban hành ngày 21 tháng 5 năm 2002. Đại hội XI của Đảng, tiếp
tục nhấn mạnh phải “ Tập trung triển khai có hiệu quả Chương trình xóa đói,
giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”.
Công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta cũng nhận được sự quan tâm của
đông đảo cộng đồng giới các nhà khoa học. Tiêu biểu như:
Tác giả Nguyễn Thị Hằng với “Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
nước ta hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1997.
Vũ Thị Ngọc Phùng với “Vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và
vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội,
1993.
Hoàng Văn Bẩy với đề tài “Tìm hiểu chính sách xoá đói giảm nghèo tại
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2000 – 2002” Niên khoá 1998 – 2002, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn.
Ngoài ra, còn khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xoá đói giảm
nghèo, song hầu hết những đề tài này tiếp cận vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tầm vĩ
mô mà chưa đi vào nghiên ở từng địa bàn nhỏ, cụ thể, đặc biệt cho đến nay chưa
có công trình nghiên cứu nào đề cập tới vấn đề xoá đói giảm nghèo ở xã Mỹ Yên,
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nên đề tài “Công tác xóa đói giảm nghèo tại xã
Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên” mà chúng tôi lựa chọn hoàn toàn mang
tính mới.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 .Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ ,
tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu: xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu:
+ Thời gian khảo sát đối tượng nghiên cứu : từ ngày15/08/2011 đến ngày
20/08/2011.
+ Thời gian của đối tượng nghiên cứu : từ năm 2008 đến năm 2010.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo tại địa bàn
xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2008 - 2010, đề tài đề xuất
một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính
sách xoá đói giảm nghèo tại địa phương trong thời gian tới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, đề tài cần giải quyết một số
nhiệm vụ cơ bản như sau:
1. Làm sáng rõ và hệ thống hoá cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về đói nghèo và công
tác xóa đói giảm nghèo.
2. Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo tại xã
Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của thực
trạng đó.
3. Đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc thực
hiện công tác xoá đói giảm nghèo tại địa bàn xã trong thời gian tới .
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để có thể hiểu sâu hơn về quá trình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở
xã Mỹ Yên trong thời gian vừa qua, nhóm chúng tôi đã sử dụng phương pháp

phỏng vấn sâu trong qúa trình nghiên cứu.
- Về phía cán bộ xã, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các đồng chí:
+ Đồng chí Chu Thị Nhì – Chủ tịch Ủy Ban nhân dân xã Mỹ Yên.
+ Đồng chí Nguyễn Quang Khê – Phó Chủ tịch ủy Ban nhân dân xã Mỹ
Yên, đồng thời là trưởng ban xóa đói giảm nghèo.
+ Đồng chí Nguyễn Thị Khoa – Cán bộ phòng chính sách xã hội.
+ Các đồng chí là Hội trưởng Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến
binh.
- Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn đối với 30 hộ thuộc diện gia
đình nghèo ở 4 thôn trong xã.
5.2. Phương pháp quan sát
Trong quá trình thực hiện phương pháp phỏng vấn sâu, được tiếp xúc với
các hộ gia đình thuộc diện nghèo trên địa bàn xã, chúng tôi đã hiểu được phần nào
sự nghèo khó và nguyện vọng của người dân nơi đây. Đặc biệt, để có thêm tư liệu
phục vụ cho nội dung của báo cáo, chúng tôi đã tìm đến xóm Thuận Yên, một xóm
xa nhất và nghèo nhất của xã Mỹ Yên (21/30 hộ nghèo) để điều tra, nghiên cứu.
5.3. Phương pháp phân tích tài liệu
- Bên cạnh phương pháp quan sát và phỏng vấn sâu, nhóm chúng tôi còn sử
dụng phương pháp phân tích tài liệu trong quá trình nghiên cứu. Sử dụng phương
pháp này, chúng tôi đã tiến hành phân tích, thống kê những tài liệu đã thu thập
được tại địa bàn nghiên cứu như: báo cáo tổng kết, danh sách thống kê hộ nghèo,
cận nghèo, danh sách hộ nghèo được vay vốn…)
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc tìm hiểu về “Công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Mỹ Yên, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên” đã góp phần làm sáng tỏ và hệ thống hoá một số khái niệm
liên quan đến vấn đề xoá đói giảm nghèo như nghèo, đói, đói nghèo, chuẩn nghèo,
chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta. Đồng thời, làm rõ những quan điểm của
Đảng và nhà nước ta về vấn đề xóa đói giảm nghèo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Với đề tài “Công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Mỹ Yên huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên” đã giúp nhóm 5 chúng tôi hiểu được phần nào tình trạng đói nghèo
ở xã Mỹ Yên thông qua các số liệu cụ thể đã được thống kê tại địa phương. Từ
đó, được sự nỗ lực của Đảng và nhà nước trong việc đề ra các giải pháp để ngăn
chặn đói nghèo trên phạm vi cả nước.
Những phân tích, đánh giá của đề tài được rút ra từ thực tiễn quá trình thực
hiện công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên từ năm 2008 tới năm 2010 có thể
là kênh thông tin hữu hiệu đối với cấp chính quyền xã Mỹ Yên trong việc quản lý,
thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và nhà nước. Đồng thời,
những giải pháp này còn có thể được áp dụng vào những địa phương có điều kiện
tương tự trong phạm vi cả nước. Ở một chừng mực nhất định, đề tài cũng có thể
được dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề này.
7. Kết cấu báo cáo
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung báo cáo chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên huyện Đại Từ
tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp nhằm thưc hiện tốt công tác xóa
đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm liên quan
Cùng với chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, lạm phát, khủng hoảng kinh tế
thì nghèo đói được coi là vấn nạn của toàn xã hội, là rào cản thực hiện tiến bộ xã
hội. Ở những quốc gia kém phát triển, đặc biệt ở các nước thế giới thứ ba, người
nghèo phải chấp nhận sống một cuộc sống dưới mức tối thiểu của một con người.
Và khi xã hội càng tiến bộ thì cộng đồng thế giới càng dành sự quan tâm nhiều
hơn tới những người nghèo. Trên thực tế, hàng năm, thế giới có những hoạt động

ủng hộ người nghèo như đấu giá từ thiện vì người nghèo, nhắn tin ủng hộ người
nghèo, thành lập quỹ vì người nghèo… Trên bình diện lý luận, quan điểm và khái
niệm về nghèo đói cũng nhận được sự quan tâm của cộng đồng các quốc gia và
giới khoa học. Ở những quốc gia và nền kinh tế khác nhau thì quan niệm về nghèo
đói cũng có sự khác biệt, điều này tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và trình độ phát
triển của những xã hội đặc thù.
* Khái niệm nghèo, đói.
- Theo Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(ESCAP): Nghèo đói là trạng thái một bộ phận dân cư không được hưởng và thão
mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa
phương.
- Khái niệm nghèo đói có thể chia thành hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối là sự không thoã mãn những nhu cầu tối thiểu của con
người để duy trì cuộc sống như: cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc, nhà cửa
không bảo đảm chống được mưa nắng, thiên tai bão lũ không so sánh với ai khác
nhưng bản thân họ không đủ lượng calo cần thiết để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối là sự thõa mãn chưa đầy đủ nhu cầu cuộc sống của con
người như: cơm ăn chưa ngon, quần áo chưa mặc đẹp, nhà ở chưa khang trang
hay nói cách khác là có sự so sánh về thoã mãn các nhu cầu cuộc sống giữa người
này với người khác, vùng này với vùng khác.
- Ở Việt Nam, Nghèo được hiểu là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả
năng thõa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang
bằng với mức sống tối thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện (Nguồn
Chính phủ.vn)
- Theo Chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và phương hướng từ năm
2006-2010 của Thủ tướng Chính phủ, đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo
có mức sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc
sống.

* Khái niệm “hộ nghèo”
- Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới
ngưỡng đói nghèo.
* Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2006-2010 (Theo quyết định của thủ tướng
chính phủ 170/2005/QĐ-TTg ký ngày 08 Tháng 07 năm 2005)
- Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là khu vực nông thôn và thành thị.
+ Khu vực nông thôn: hộ có thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng
được coi là hộ nghèo.
+ Khu vực thành thị: hộ có thu nhập bình quân 260.000đồng/người/tháng được
coi là hộ nghèo.
* Vào ngày 21 Tháng 9 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg về việc quy định chuẩn nghèo đói giai đoạn 2011-2015. Theo
đó, chuẩn nghèo mới được quy định cụ thể như sau:
+ Khu vực nông thôn : hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận
nghèo thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
+ Khu vực thành thị : Hộ nghèo có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo là hộ
có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Mức chuẩn nghèo theo quy định là căn cứ để thực hiện các chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác của nhà nước. Vì vậy, mức chuẩn
nghèo không cố định mà luôn được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của xã hội. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương
nào có đủ điều kiện sau đây có thể nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế
của địa phương đó:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả nước
(năm 2008 là 960 USD/người)
+ Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước.
( năm 2009 là 11%)
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói nghèo

theo chuẩn nâng lên.
* Khái niệm “hộ cận nghèo”
- Hộ cận nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người gần ngưỡng đói
nghèo.
- Ngày 21/9/2010 Thủ tướng ban hành Quyết định số 1752/CT – TTg chuẩn
hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015. Hộ cận nghèo ở nông
thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 – 510.000 đồng/người/tháng. Hộ
cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 510.000 – 650.000
đồng/người/tháng. Mức quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác. Quyết định có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/ 2011.
* Khái niệm “hộ vượt nghèo”
- Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một quá trình thực
hiện chương trình xoá đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập đã ở
trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng khái niệm
hộ thoát (hoặc vượt) đói và hộ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo đương nhiên không
còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói có thể đồng thời thoát
hẳn nghèo (ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường hợp thoát đói (rất nghèo)
nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo.
- Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiệu số giữa tổng
số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói nghèo khác với
khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát nghèo là số hộ ở đầu kỳ
nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong khi đó, số hộ nghèo giảm đi
trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về mặt số lượng hộ nghèo, chưa phản
ánh thật chính xác kết quả của việc thực hiện chương trình.
* Khái niệm “xã nghèo”
- Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành tiêu chí xã
nghèo giai đoạn 2001-2005. Quy định xã nghèo là xã có
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.

+ Chưa đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông,
trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể là:
+ Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch.
+ Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
+ Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm.
+ Số phòng học (theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ đáp ứng được
dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bợ bằng tranh tre, nứa, lá.
+ Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm.
+ Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ.
*Khái niệm “xoá đói giảm nghèo”
Xoá đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách của nhà nước và xã
hội hướng vào người nghèo hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo
đói, nhằm taọ điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập
không đáp ứng những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định.
1.2. Ý nghĩa của việc xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Xóa đói giảm nghèo là một trong những chương trình mục tiêu của Đảng và
nhà nước luôn được quan tâm hàng đầu, bởi nó mang ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Đối với bản thân người nghèo: Xóa đói giảm nghèo giúp người nghèo có
điều kiện nâng cao thu nhập, từ đó cải thiện đời sống, tiếp cận được với các dịch
vụ xã hội (y tế, giáo dục…) thông qua các chương trình chính sách cụ thể của nhà
nước.Tăng cường tình đoàn kết, lòng tin của nhân dân đối với đường lối lãnh đạo
của Đảng trong thời kỳ mới.
- Đối với xã hội: Xóa đói giảm nghèo góp phần thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo giữa các khu vực trong phạm vi cả nước. Vượt qua rào cản để xây dựng một
xã hội tiến bộ, vì người nghèo.
Do đó thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo không chỉ góp phần ổn
định đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội mà còn góp phần xây dựng một
đất nước phát triển bền vững về mọi mặt.
1.3. Quan điểm, mục tiêu của Đảng và nhà nước đối với công tác xóa đói giảm

nghèo
* Quan điểm
1. Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước và là sự nghiệp
của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của nhà nước, xã hội và của người dân để
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương.
2. Công cuộc giảm nghèo nhanh đối với các huyện nghèo là nhiệm vụ chính trị
trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và sự phối hợp tích
cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
3. Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững.
* Mục tiêu
Với quan điểm như trên, Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu tổng thể
cho chương trình xóa đói giảm nghèo như sau:
- Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm
hộ nghèo, hạn chế khoảng cách chênh lệch giàu nghèo.
- Để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, thực hiện
có hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo, trong giai đoạn 2006 – 2010, Chính
phủ Việt Nam đã xây dựng nhiều chương trình, chính sách như:
+ Nhóm chính sách, chương trình dự án tạo điều kiện cho người nghèo
phát triển sản xuất, tăng thu nhập: Chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất
cho hộ nghèo; Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề.
+ Nhóm chính sách tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội:
Chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục , trợ giúp pháp lý cho người nghèo.
+ Nhóm dự án nâng cao năng lực và nhận thức.
Trên đây là quan điểm và mục tiêu của Đảng và nhà nước ta trong việc thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo. Những quan điểm này đóng vai trò là kim chỉ
nam cho việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo trên phạm vi cả nước
trong thời gian tới.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI XÃ MỸ YÊN

HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2008 - 2010
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội xã Mỹ Yên,
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Ảnh 1: Bản đồ tự nhiên xã Mỹ Yên
Vị trí địa lí: Mỹ Yên là xã miền núi của huyện Đại Từ, nằm sát chân
dãy núi Tam Đảo, cách trung tâm huyện 10,7 km về phía Tây Nam, xã có
tổng diện tích đất tự nhiên là 3400 ha. Phía Đông Nam giáp với xã Văn
Yên, phía Tây giáp với xã Hoàng Nông, phía Đông Bắc giáp với xã Bình
Thuận, xã Khôi Kỳ. Đây là điều kiện thuận lợi để xã Mỹ Yên có thể giao
lưu, trao đổi hàng hoá và phát triển kinh tế với các xã trong địa bàn huyện
và với những huyện lân cận của Tỉnh Thái Nguyên.
Ảnh 2: Một góc quang cảnh xã Mỹ Yên, Đại Từ , Thái Nguyên
Địa hình: Địa hình xã Mỹ Yên phần lớn là đồi núi, thuận lợi để trồng rừng
và một số cây công nghiệp lâu năm như chè và một số cây ăn quả nhiệt đới như
hồng xiêm, nhãn. Tuy nhiên, đặc điểm địa hình này cũng gây ảnh hưởng không
nhỏ tới hoạt động giao thông đi lại của người dân trong xã, đặc biệt là về mùa
mưa.
Đất đai: Khoảng 90% diện tích đất tự nhiên là đồi núi và rừng thuộc vườn
quốc gia Tam Đảo nên thuận lợi cho việc phát triển cây chè – một loại cây đặc
trưng của vùng, phát triển rừng trồng keo, cây ăn quả nhiệt đới. Tuy nhiên diện
tích đất nông nghiệp rất ít, chỉ chiếm gần 10% diện tích đất tự nhiên của xã. Đất
canh tác là những cánh đồng nhỏ, hẹp chạy men theo chân dãy Tam Đảo, nên
thuận lợi để trồng lúa do có nguồn nước dồi dào từ các dòng suối, nhưng mặt khác
lại có nguy cơ bị ngập úng vào mùa mưa do lượng nước bị dồn từ trên núi.
Nguồn nước: Hệ thống sông ngòi ít, nguồn nước phục vụ cho sản xuất và
sinh hoạt chủ yếu là dựa vào nguồn nước từ các khe, suối dẫn về. Xã đã có hai
công trình cung cấp nước sạch cho sinh hoạt là Cao Chùa và La Tre được xây
dựng dựa trên nguồn vốn đầu tư của nhà nước cùng với vốn đóng góp cổ phần của
xã viên và nhân dân vay vốn ngân hàng. Số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp

vệ sinh là 981 hộ, chiếm 67% số hộ toàn xã. Tuy nhiên, về mùa khô, nguồn nước
ít, không đủ phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Khí hậu: Cùng với đặc điểm về địa hình, những đặc điểm về khí hậu cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống và sinh hoạt của cư dân trong vùng. Khí hậu
nhiệt đới ẩm gió mùa, tương đối thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp lâu năm
(chè và một số loại cây ăn quả như nhãn, hồng, na ). Tuy nhiên, về mùa đông
nhiệt độ xuống thấp và kéo dài, xuất hiện sương muối, gây hại cho sản xuất nông
nghiệp và đàn gia súc. Về mùa hạ, mưa nhiều, tập trung và độ ẩm không khí cao,
tạo thuận lợi cho trồng lúa, song khí hậu ẩm ướt lại là điều kiện thuận lợi cho sâu
bọ nảy nở.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân cư và nguồn lao động: Xã Mỹ Yên gồm có 25 thôn với 1431 hộ, tổng
số nhân khẩu hiện nay là 5314 người, trong đó có 63,8% số người trong độ tuổi
lao động. Trong tổng số 1431 hộ, có 80 hộ là người dân tộc thiểu số, chiếm 5,47%.
Trên địa bàn xã hiện có 5 dân tộc anh em cùng chung sống là Kinh, Tày, Dao,
Nùng, Thái. Điều đó, đã tạo nên một bức tranh văn hoá đa dạng, muôn màu, muôn
vẻ nhưng cũng gây khó khăn không nhỏ trong việc quản lý và phổ biến chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước tới người dân, đặc biệt là những hộ gia
đình thuộc dân tộc thiểu số.
Mỹ Yên là một xã nghèo của huyện Đại Từ. Theo số liệu thống kê, năm
2008 số hộ nghèo là 342 hộ ( chiếm 25,92% ) trong 1319 hộ , năm 2009 số hộ
nghèo là 206 trong tổng số 1412 hộ dân của toàn xã ( chiếm 14,59% ). Đến năm
2010, số hộ nghèo tăng lên là 385/1431 hộ, chiếm 26,90% (do quy định mới về
chuẩn nghèo của thủ tướng Chính Phủ, thu nhập bình quân\người\tháng là 400.000
đồng). Cho tới nay, nhìn chung, cuộc sống của người dân nơi đây đã được cải
thiện, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Về nông nghiệp: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp trong xã chủ yếu được
trồng lúa với 280 ha (chiếm 8,24% diện tích tự nhiên của xã), diện tích trồng chè
là 130 ha (chiếm 3,82% diện tích tự nhiên của xã), diện tích trồng ngô là 35 ha
(chiếm 1,02% diện tích tự nhiên của xã). Ngoài ra, người dân nơi đây còn chăn

nuôi gia súc (Trâu, Bò), gia cầm (Lợn, Gà, Vịt). Người dân có kinh nghiệm trong
sản xuất nông – lâm nghiệp, nhưng do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, thiếu tư liệu
sản xuất và cũng chưa áp dụng nhiều khoa học kĩ thuật vào trong quá trình sản
xuất nên hiệu quả đạt được chưa cao.
Về lâm nghiệp: Chính quyền và người dân địa phương đã chăm sóc tốt 48,58
ha rừng theo dự án AFAP do Úc tài trợ với tổng số vốn 1.2 tỉ đồng. Bên cạnh đó,
xã còn có những chính sách ưu đãi cho người nghèo trồng rừng như hỗ trợ cây con
giống, phân bón…và chăm sóc được 36,1 ha diện tích rừng trồng keo tại 5 xóm:
Bắc Hà 1, Bắc Hà 2, Bắc Hà 3, Việt Yên, Đồng Cháy (năm 2010). Triển khai mô
hình thâm canh keo Tai tượng 25 ha tại 6 xóm (Suồi Chì, Lò Gạch, Đồng Cạn,
Trại Cọ, Đầm Pháng, Đầm Gành).
Về tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: Do địa hình chủ yếu là đồi núi, nên ở
Mỹ Yên tiểu thủ công nghiệp không phát triển. Các ngành nghề dịch vụ có quy mô
nhỏ lẻ, chưa đa dạng về mặt hàng, chủ yếu là các dịch vụ về nước giải khát, đồ
dùng sinh hoạt hàng ngày, tập trung chủ yếu ở khu vực gần trung tâm xã. Trên địa
bàn xã đã có chợ, được họp theo phiên, cứ hai ngày họp một lần với các sản phẩm
chủ yếu là những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của người dân như:
thực phẩm, quần áo, hàng tiêu dùng…nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng của người dân trong xã.
Về cơ sở hạ tầng: Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước và chính quyền
địa phương, một số tuyến đường giao thông liên thôn đã được bê tông hoá, giúp bà
con đi lại được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, ở Mỹ Yên hiện nay, hầu hết tuyến đường
trong các thôn vẫn là đường đất, nên việc đi lại rất bất tiện, nhất là vào mùa mưa.
Toàn xã có một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở nằm gần trung tâm
xã. Trường cấp 3 nằm ở trung tâm huyện Đại Từ, cách xã 10,7 km, nên gây khó
khăn không nhỏ cho việc đến trường của các em học sinh. Các chính sách khuyến
học giáo dục cũng được ưu tiên phát triển, chất lượng dạy và học ngày càng được
nâng cao. Toàn xã có một trạm y tế nằm ở trung tâm xã. Công tác khám chữa
bệnh, chăm sóc sức khỏe của người dân được quan tâm. Người dân có ý thức tham
gia đóng bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, cũng như các trạm y tế thuộc tuyến xã ở nhiều

địa phương trong cả nước, trạm y tế xã Mỹ Yên còn thiếu thốn về thuốc men, cơ
sở vật chất và đội ngũ y bác sĩ nên đã hạn chế phần nào nhu cầu khám chữa bệnh
của người dân.
Như vậy, bên cạnh những mặt thuận lợi, điều kiện tự nhiên và điều kiện
kinh tế xã hội của xã Mỹ Yên cũng mang lại một số khó khăn trong phát triển kinh
tế, đặc biệt là nông lâm nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi chính quyền và nhân dân trong xã
phải có những biện pháp thiết thực để phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công
nghiệp…phát huy thuận lợi và khắc phục những khó khăn đó.
2.2.Tình hình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Mỹ Yên, huyện
Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
2.2.1.Tình trạng đói nghèo tại xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
* Tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo
- Theo kết quả điều tra năm 2008, tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn
xã Mỹ Yên được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Tỉ lệ số hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn xã Mỹ Yên năm 2010
TT Tên xóm Tổng số hộ rà
soát (hộ)
Tổng số hộ
nghèo qua phiếu
điều tra sơ bộ
(hộ)
Tỉ lệ hộ nghèo
sơ bộ (%)
Ghi chú
1 Kỳ Linh Ngoài 60 27 45
2 Kỳ Linh Trong 39 9 23,08
3 Đồng Khâm 67 13 19,40
4 Xóm Cao 43 12 27,91
5 Xóm Chùa 50 18 36
6 La Yến 60 12 20

7 Đồng Cháy 82 13 15,85

8 Đầm Gành 52 1 1,92

9 Đầm Pháng 54 12 22,22

10 Lò Gạch 61 9 14,75

11 Suối Chì 42 8 19,05

12 Trại Cọ 54 3 5,55

13 Đồng Cạn 56 8 14,29

14 Làng Lớn 69 22 31,88

15 La Tre 60 21 35

16 La Hồng 42 14 33,33

17 La Hang 59 11 18,64

18 La Vương 83 14 16,87

19 Đồng Phiêng 65 22 33,85

20 Tân Yên 67 27 40,30

21 Thuận Yên 28 21 75


22 Việt Yên 38 26 68,42

23 Bắc Hà 1 33 3 9,09

24 Bắc Hà 2 30 6 20

25 Bắc Hà 3 25 10 40

Tổng cộng 1319 342 25,92
(Nguồn UBND xã Mỹ Yên)
- Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, Xã Mỹ Yên có tỉ lệ hộ nghèo khá cao,
số hộ nghèo là 342/1319 hộ (chiếm 25,92%). Theo kết quả thống kê năm 2010, tỉ
lệ hộ nghèo có cả ở 25 thôn trong toàn xã, trong đó:
+ 01 xóm có tỉ lệ hộ nghèo trên 70% là thôn Thuận Yên.
+ 10 xóm có tỉ lệ hộ nghèo từ 30% - 70% là Kỳ Linh Ngoài; Xóm Chùa;
La Tre; La Hồng; Đồng Phiêng và một số thôn khác.
+ 5 xóm có tỉ lệ hộ nghèo từ 20% – 29% là các thôn: Kỳ Linh Trong; Xóm
Cao; Đầm Pháng; Bắc Hà 2 và La Yến.
+ Còn lại là các thôn có tỉ lệ hộ nghèo dưới 20%.
- Tình trạng nghèo đói ở Mỹ Yên được thể hiện trên nhiều mặt:
+ Ở Mỹ Yên, hầu hết các hộ dân sống trên địa bàn xã làm việc trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất trồng lúa lại không đáng kể,
phần lớn là diện tích đất là đồi núi chỉ thích hợp cho việc trồng chè. Phương thức
canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp, sản lượng lương thực làm ra không đáp
ứng đủ cho nhu cầu tích lũy và phát triển chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn.
Trong xã không có nhà máy hay doanh nghiệp sản xuất, cơ sở chế biến mặt hàng
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nhất là về giao
thông, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của người dân.
+ Toàn xã có một trường mầm non, một trường tiểu học và một trường
trung học cơ sở tập trung tại xã. Các trường đã có những cơ sở vật chất thiết yếu

cho việc giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, chưa có các thiết bị mang tính công
nghệ cao giúp công việc giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
+ Chợ được họp theo phiên, cứ hai ngày họp một lần. Tuy có nhiều mặt
hàng bày bán song mới bước đầu phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng
nhưng quy mô còn nhỏ, chủ yếu là các quán lều tạm bợ.
+ Cơ sở y tế còn hạn chế, chưa có đầy đủ trang thiết bị như giường bệnh,
các dụng cụ y tế… để phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh cho người dân.
Ảnh 3: Một hộ nghèo tại xã Mỹ Yên – Đại Từ - Thái Nguyên
* Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo tại xã Mỹ Yên
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
- Nghèo đói là hậu quả của nhiều vấn đề. Nhìn chung, sự đói nghèo của
người dân trên địa bàn xã Mỹ Yên bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ bản như
sau:
1. Mỹ Yên là một xã miền núi của huyện Đại Từ. Diện tích đất chủ yếu là
đồi núi và rừng thuộc vườn quốc gia Tam Đảo, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỉ
lệ nhỏ, khoảng 280ha (8,2%), việc độc canh cây lúa năng suất thấp không đáp ứng
đủ nhu cầu lương thực tại chỗ cho người dân nên hàng năm tỉ lệ hộ đói trên địa
bàn xã vẫn chiếm tỉ lệ lớn.
2. Thời tiết khắc nghiệt, tình hình dịch bệnh ở đàn gia súc diễn biến phức
tạp. Thị trường hàng hóa không ổn định, giá vật tư phân bón, nguyên liệu sản xuất
tăng cao, đặc biệt là thiếu vốn đầu tư phát triển sản xuất.
3.Người dân có trình độ dân trí thấp, không có khả năng áp dụng những
khoa học kỹ thuật vào sản xuất hoặc chưa mạnh dạn trong quá trình chuyển đổi
giống cây trồng, vật nuôi mới, chưa chú trọng phát triển ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ.
4. Dân đông làm kìm hãm tới sự phát triển của nền kinh tế, dân không có
việc làm, tệ nạn xã hội xảy ra liên tiếp như: cờ bạc, trộm cắp…
Mỹ Yên còn là một xã nghèo truyền thống như: tài sản để lại cho con ít
hoặc không có, các thế hệ sau tự phải chủ động gây dựng cơ ngơi cho riêng gia
đình mình, để đảm bảo cho cuộc sống sau này.

Có thể thấy rằng người dân nghèo đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Nếu
không có sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền địa phương thì vấn đề
nghèo đói ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có
sự chung tay, góp sức của cả cộng đồng thì tình trạng nghèo đói mới có thể giảm
dần được.
2.2.2. Một số chính sách, chương trình hỗ trợ xóa đói giảm nghèo đã và
đang được thực hiện tại xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2008-2010
* Chủ thể tham gia triển khai thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo tại
địa phương
- Được sự quan tâm sát sao, chỉ đạo kịp thời của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái
Nguyên và Uỷ ban nhân dân huyện Đại Từ, Ban công tác xóa đói giảm nghèo tại
xã Mỹ Yên - Đại Từ đã được thành lập từ năm 1999. Qua mỗi giai đoạn, thành
viên trong Ban công tác xóa đói giảm nghèo của xã cũng có sự điều chỉnh để phù
hợp với tình hình mới. Ban xoá đói giảm nghèo xã Mỹ Yên hiện nay bao gồm:

×