Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.99 KB, 90 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG







TRỊNH THỊ HƯƠNG




NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN



LUẬN VĂN THẠC SĨ



Khánh Hòa - 2013

ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

-




TRỊNH THỊ HƯƠNG



NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN


Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60 34 01 02


LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ DUNG



Khánh Hòa - 2013

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn: “Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu Bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An” là công trình nghiên cứu của cá nhân và chưa từng
được công bố.
Các số liệu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả của
luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Nếu có sai sót,
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Người thực hiện

Trịnh Thị Hương
ii

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin gửi đến Quý thầy cô trường Đại học Nha Trang lòng biết
ơn sâu sắc. Bằng sự đam mê, yêu nghề và trách nhiệm cao cả, các thầy cô đã làm việc
hết mình, không ngại khó khăn để truyền đạt kiến thức cho chúng tôi.
Tôi xin chân thành biết ơn cô Phan Thị Dung, người đã nhiệt tình, đầy trách
nhiệm, tận tâm trong công việc đã dành rất nhiều thời gian hướng dẫn và giúp tôi thực
hiện đề tài này.
Xin cảm ơn Ban Giám đốc và anh chị em cán bộ Bảo hiểm xã hội tỉnh Nghệ An
đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Người thực hiện

Trịnh Thị Hương
iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ vii
DANH MỤC SƠ ĐỒ vii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ THU
BẢO HIỂM XÃ HỘI 5
1.1. Sơ lược về quá trình hình thành ngành Bảo hiểm xã hội 5
1.2. Một số khái niệm 8
1.2.1. Khái niệm về bảo hiểm 8
1.2.2. Khái niệm về bảo hiểm xã hội 9
1.2.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội và phân biệt với bảo hiểm thương mại 11
1.3. Nội dung và các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện công tác quản lý thu BHXH 13
1.3.1. Nội dung công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An 13
1.3.2. Tỷ lệ nợ đọng BHXH 14
1.3.3. Tỷ lệ số đơn vị nợ/ số đơn vị tham gia 14
1.3.4. Số tiền nợ bình quân của một lao động 15
1.4. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về việc hoàn thiện công tác quản lý thu
BHXH 15
1.4.1. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới 15
1.4.2. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN CỦA BHXH TỈNH NGHỆ AN 24
2.1. Khái quát chung về địa bàn tỉnh Nghệ An 24
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội 24
2.1.2. Khái quát về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ
An. 25

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An
27
iv
2.2.1. Điều kiện tự nhiên 27
2.2.2. Nhân tố kinh tế 28
2.2.3. Nhân tố chính trị 29
2.2.4. Nhân tố quốc tế 29
2.3. Thực trạng về công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An 44
2.3.1. Về quy định thu BHXH hiện hành 44
2.3.2. Về cách thức, quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với người lao động tại
các doanh nghiệp NQD trên địa bàn tỉnh Nghệ An 45
2.4. Đánh giá chung về công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An 50
2.4.1 Thành tựu 50
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 53
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU
BHXH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN 59
3.1. Giải pháp đối với cơ quan bảo hiểm xã hội 59
3.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp 69
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO i
PHỤ LỤC ii














v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASXH An sinh xã hội
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BH Bảo hiểm
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
BHYT Bảo hiểm y tế
CNTT Công nghệ thông tin
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DN FDI Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
DN NQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
HĐLĐ Hợp đồng lao động
HĐND Hội đồng nhân dân
KT – XH Kinh tế - Xã hội
KTTN Kinh tế tư nhân
KTTT Kinh tế thị trường
LĐ Lao động
LĐTBXH Lao động Thương binh và Xã hội
NLĐ Người lao động
NSDLĐ Người sử dụng lao động
NSNN Ngân sách nhà nước
QLNN Quản lý nhà nước
SXKD Sản xuất kinh doanh
UBND Uỷ ban nhân dân

WTO Tổ chức thương mại thế giới








vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng số DN được thành lập đến các năm 2007 - 2012 26
Bảng 2.2. Cơ cấu DN phân theo ngành kinh tế (%) 27
Bảng 2.3. Tình hình đóng BHXH của một số doanh nghiệp năm 2012 28
Bảng 2.4. Tình hình tham gia BHXH của các DN NQD từ năm 2008 đến hết năm
2012. 32
Bảng 2.5. Tình hình tham gia BHXH của NLĐ trong các DN NQD từ năm 2007 đến
hết năm 2012 33
Bảng 2.6. Tổng quỹ tiền lương làm căn cứ tính đóng BHXH của các DN NQD từ năm
2007 đến hết năm 2012 (triệu đồng). 37
Bảng 2.7. Tổng thu BHXH từ năm 2007 đến năm 2012 39


vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ nợ BHXH của các DN từ năm 2007 đến năm 2012 so với số phải
đóng BHXH 41
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ số DN nợ BHXH so với tổng số DN từ năm 2007 đến năm 2012 42
Biểu đồ 2.3 Nợ BHXH bình quân của một LĐ trong các DN từ năm 2007 đến năm

2012 43
Biểu đồ 2.4. Tổng hợp lãi suất chậm nộp quỹ BHXH và lãi suất cho vay của ngân hàng
thương mại 54




DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ quy trình thu nợ đọng BHXH tập trung 17
Sơ đồ 2.1. Quy trình quản lý thu 48
Sơ đồ 2.2. Quy trình luân chuyển chứng từ thu BHXH 49
Sơ đồ 3.1. Quy trình thu nợ đọng BHXH 67



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế không ngừng phát triển đời sống nhân
dân được cải thiện và nâng cao, tuy nhiên một bộ phận người lao động đời sống còn
bấp bênh không đảm bảo do gặp phải những rủi ro như thiếu việc làm, ốm đau, tuổi
già không có thu nhập…Để bù đắp một phần thiếu hụt đó, từ năm 1995 Đảng ta đã cụ
thể hoá đường lối chính sách bằng chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH), được bổ sung, đổi
mới và hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH theo quy định tại chương III Bộ luật
lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1995,
và Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ.
Bảo hiểm xã hội là trụ cột về an sinh xã hội cho người lao động, là chính sách
quan trọng nhất để bảo vệ người lao động, đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ giảm hoặc mất thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp, bị thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết…Trên cơ sở
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động vào quỹ BHXH và có sự bảo hộ
của Nhà nước theo pháp luật nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình
họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn cho xã hội.
Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao,
Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006. Sự ra đời của Luật BHXH đánh giá một
bước tiến quan trọng của ngành BHXH. Đối tượng tham gia BHXH không còn tập
trung vào các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước nữa mà được
mở rộng tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hưu hạn, hợp tác xã, hộ kinh doanh các thế…, số người tham gia ngày
càng tăng, số thu BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước. Song song với thu BHXH
thì việc chi trả các chế độ BHXH cho người lao động ngày càng thuận lợi, mức chi trả
ngày càng cao, đối tượng thụ hưởng ngàng càng rộng hơn. Do đó, cần có một lượng
tiền đủ lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH đầy đủ, đúng quy định
cho người lao động. Để đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào
quỹ BHXH là một nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi quỹ BHXH là sự sống còn của
hệ thống BHXH, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, việc nợ, trốn đóng BHXH gây thất thu quỹ
BHXH xảy ra phổ biến trên địa bàn tỉnh Nghệ An và các tỉnh thành trong cả nước, đo
2
đó công tác quản lý thu BHXH là vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của
ngành BHXH nói chung và BHXH Nghệ An nói riêng. Là cán bộ công tác trong ngành
BHXH, nhận thức được vấn đề trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả
công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An” làm đề tài tốt
nghiệp cao học với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác quản lý thu BHXH.
2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan:
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu, bài báo bàn luận về cơ chế thu và
quản lý thu BHXH, đặc biệt là Luận án Tiến sỹ của nghiên cứu sinh Phạm Trường
Giang “Hoàn thiện cơ chế thu BHXH ở Việt Nam” mã số 62.31.03.01. Các bài báo và

luận án đã đề cập các vấn đề về cơ chế thu BHXH ở Việt Nam nhưng dựa trên phương
pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành kinh tế bảo hiểm và nghiên cứu tổng thể,
chưa đi sâu cụ thể vào cơ chế thu BHXH đối với NLĐ trong các Doanh nghiệp ngoài
nhà nước.
Ngoài ra, trước vấn đề nợ đọng BHXH ở Việt Nam, và cũng là nỗi bức xúc của
các nước thành viên ASEAN. Ngày 16/9/2010, tại Hà Nội, đã diễn ra hội nghị Hiệp
hội An sinh xã hội ASEAN (ASSA) 26, với chủ đề hội thảo chính là “Các biện pháp
thu hồi nợ đọng BHXH”, giúp các nước thành viên đóng góp, chia sẻ ý kiến, kinh
nghiệm trong công tác thu hồi nợ đọng BHXH.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Hệ thống hóa lý luận về công tác quản lý thu BHXH.
- Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện công tác quản lý
thu BHXH.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu trên địa bàn tỉnh Nghệ An của BHXH
tỉnh Nghệ An.
- Xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu trên địa bàn tỉnh
Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh Nghệ An
(không nghiên cứu quỹ khám chữa bệnh, không nghiên cứu BHXH tự nguyện và bảo
hiểm thất nghiệp), bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến số thu BHXH, đối tượng nộp
BHXH, phương thức đóng, mức đóng, quy trình quản lý thu, nguyên nhân của các
doanh nghiệp (chỉ bao gồm các doanh nghiệp ngoài nhà nước) né tránh nộp BHXH bắt
buộc và đề xuất những biện pháp chống thất thu BHXH bắt buộc.
3
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh
Nghệ An, khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp thu thập số liệu:
+ Nguồn sơ cấp:
Luận văn lấy ý kiến từ các cá nhân thông qua bảng câu hỏi điều tra. Đối tượng
được hỏi là Giám đốc các DN NQD. Bên cạnh đó tác giả thăm dò lấy ý kiến từ phía
các cá nhân là các chuyên gia có kinh nghiệm công tác lâu năm trong ngành, hiện giữ
các vị trí quan trọng, đặc biệt là lãnh đạo BHXH các địa phương có nhiều DN NQD
(thành phố Vinh, huyện Diễn Châu, huyện Quỳ Hợp, huyện Quỳnh Lưu) và lãnh đạo
phòng Thu, Kế hoạch Tài chính.
+ Nguồn thứ cấp:
Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ các tài liệu là báo cáo quyết toán,
báo cáo thanh, kiểm tra và số liệu khảo sát, quản lý của các cơ quan nhà nước trên địa
bàn tỉnh Nghệ An (Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế, Sở LĐTBXH, BHXH
tỉnh, ) v.v Các nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi
chú chi tiết trong phần tài liệu tham khảo.
- Phương pháp hệ thống, phân tích thống kê: từ số liệu tổng hợp thu từ năm 2009
đến năm 2012 để so sánh, đối chiếu số người tham gia BHXH, số thu BHXH và số nợ
BHXH giữa các năm. Từ đó, đánh giá công tác thực hiện quản lý thu BHXH như thế
nào. Đồng thời, đưa ra giải pháp cụ thể, hiệu quả trong công tác quản lý thu.
6. Ý nghĩa của đề tài:
- Ý nghĩa lý luận:
Luận văn hệ thống được cơ sở lý luận về thực trạng quản lý thu BHXH tại các
doanh nghiệp. Xây dựng được chỉ tiêu đánh giá tỷ lệ nợ đọng BHXH so với số tiền
phải thu của các doanh nghiệp.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Dựa trên những phân tích, đánh giá về thực trạng thu BHXH trên địa bàn tỉnh, Đề
tài phân tích được nguyên nhân, động cơ, mục đích của việc chủ doanh nghiệp muốn
né tránh, trốn đóng BHXH; làm thiệt thòi cho người lao động trong việc hưởng các chế
độ, chính sách BHXH trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đối với người lao động, do
4
sự hiểu biết về quyền lợi của mình còn thấp, lại sợ mất việc làm nên chưa quan tâm

đến chế độ BHXH, từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục. Nhờ vậy, luận văn đã
đóng góp hệ thống các biện pháp khả thi mang ý nghĩa thực tiễn cao nhằm làm tăng số
lao động được tham gia BHXH, đảm bảo quyền lợi của người lao động. Đồng thời
đảm bảo nguồn thu BHXH giảm sự thất thoát, hoàn thiện được công tác thu trên địa
bàn tỉnh.
7. Kết cầu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội và quản lý thu BHXH.
Chương 2: Thực trạng về công tác quản lý thu BHXH trên đại bàn tỉnh Nghệ An
của BHXH tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn
tỉnh Nghệ An.
Tôi hy vọng một số kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ góp phần làm rõ
thêm các nguyên nhân dẫn tới thất thu BHXH bắt buộc, công tác quản lý thu BHXH
tại BHXH tỉnh Nghệ An. Từ đó áp dụng được các biện pháp của Đề tài vào thực tiễn
để hoàn thiện hơn công tác thu BHXH.


5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ THU
BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Sơ lược về quá trình hình thành ngành Bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài
giữa giai cấp công nhân làm thuê với giới chủ tư bản. Kết quả này đã được các nước
trên thế giới ghi nhận và đều cố gắng xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù
hợp. Qua nhiều năm nghiên cứu về BHXH, giáo sư Henri Kliller thuộc trường đại học
Sol ray của Bỉ đã khẳng định rằng nguồn gốc của BHXH xuất phát từ những vấn đề
kinh tế, chính trị xã hội sau đây:

Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra đời và
ngày càng lớn mạnh. Xã hội tư bản chủ nghĩa là hiện thân của quan hệ tư hữu về tư
liệu sản xuất và sản xuất hàng hóa đã ra đời. Kinh tế hàng hóa đã buộc các chủ tư bản
phải thuê mướn lao động. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì nhu cầu thuê mướn
ngày càng tăng lên và đội ngũ những người gia nhập đội quân làm thuê ngày càng
đông. Vì vậy giai cấp công nhân cũng đã ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến.
Giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê cho giới chủ. Lúc đầu giới chủ cam kết trả tiền
lương, tiền công. Người lao động bị bóc lột tàn bạo và bị đối xử không công bằng. Giờ
làm việc của họ thường bị kéo dài và cường độ lao động rất cao nhưng tiền công được
trả rất thấp. Hiện tượng ốm đau, tai nạn lao động xảy ra phổ biến. Và với tiền công
được trả đó họ không thể đảm bảo cuộc sống của mình cũng như gia đình mình. Thêm
vào đó, nhà nước cũng như giới chủ không hề quan tâm hay giúp đỡ họ. Đứng trước
tình hình đó giai cấp công nhân đã liên kết lại với nhau để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau;
lập ra các quỹ cứu trợ người ốm, người bị tai nạn; lập các tổ chức tương tế và vận
động mọi người tham gia; đấu tranh tự phát với giới chủ như: đòi tăng lương giảm giờ
làm; thành lập các tổ chức công đoàn và sau này là đấu tranh có tổ chức nhưng bị giới
chủ đàn áp thậm tệ. Giai cấp công nhân không đòi được quyền lợi mà còn bị tổn thất
nặng nề. Mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ ngày càng trầm trọng và sâu sắc. Các cuộc
đấu trang của giai cấp công nhân diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt
đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hòa
mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vao trò của Nhà nước, mặt khác
6
buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng đối
với người làm thuê. Nhận thức được lợi ích của việc này nên cả giới chủ và thợ đều
tham gia. Ngoài nguồn đóng góp của giới chủ, thợ để hình thành qũy còn có sự tham
gia đóng góp bổ sung từ ngân sách Nhà nứơc khi cần thiết. Nguồn quỹ này nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động khi không may gặp phải những biến cố bất lợi. Chính
nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn
trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định.

Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh
lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Đó chính là nguồn gốc sự ra đời của bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội ra đời và lan rộng rất nhanh. Quá trình phát triển của BHXH trải
qua các mốc sau:
+ Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần
đầu tiên ở nước Phổ (Cộng hòa liên bang Đức).
+ Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức, Bỉ.
+ Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH.
+ Năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đấu tiên về
các tổ chức tương tế.
+ Ở Mỹ, đạo luật đầu tiên về An sinh xã hội (trong đó BHXH là hạt nhân) được
ban hành vào năm 1935. Trong đạo luật này có quy định về chế độ bảo hiểm tuổi già,
tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
+ Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II (1940-1945) có 3 sự kiện lớn đánh dấu quá
trình ra đời và phát triển BHXH, đó là:
- Tổ chức lao động quốc tế đã tổ chức thảo luận một số vấn đề liên quan đến
BHXH như: tàn tật và sinh đẻ liên quan đến lao động nữ. Vấn đề tử tuất của các binh
sỹ trong chiến tranh.
- Luật BHXH ở Mỹ đã được thông qua.
- Kế hoạch Beveridge (1942) đã được Chính phủ Bỉ thông qua để chuẩn bị thành
lập hệ thống BHXH ở Bỉ.
+ Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng liên hiệp quốc Tuyên ngôn nhân quyền và
trong đó có đoạn: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền về
kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”.
7
+ Ngày 25/6/1952, hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông
qua công ước số 102 (công ước về an sinh xã hội). Nội dung công ước được tập hợp từ
các chế độ và các vấn đề an sinh xã hội đã có và thực hiện ở một số nước trên thế giới

trước đó. Sau công ước số 102 đến nay hầu hết các nước ở Châu á, Châu Phi và Châu
Mỹ la tinh đều xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế-
xã hội; phù hợp với tương quan lực lượng giữa giới chủ và giới thợ và phù hợp với thể
chế chính trị trong mỗi thời kỳ ở từng nước.Cũng sau công ước 102, một loạt các công
ước quốc tế khác nhằm bổ sung, hoàn thiện và cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến
BHXH, như:
+ Công ước số 111 ra đời năm 1985, đề cập đến vấn đề việc làm và thất nghiệp,
chống phân biệt đối xử giữa những người lao động có mầu da, tôn giáo và chủng tộc
khác nhau.
+ Công ước số 128 ra đời ngày 7/6/1967 nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền tuất.
+ Công ước số 156 ra đời năm 1981 đã khuyến cáo các vấn đề về người lao động
và trách nhiệm gia đình.
+ Công ước số 158 ra đời năm 1982 nhằm mục đích chống lại việc giới chủ cho
người lao động thôi việc mà không có lý do chính đáng.
Có thể nói, những công ước quốc tế trên là cơ sở để BHXH các nước không
ngừng hoàn thiện mình trong những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể.
Ở Việt Nam, BHXH đã có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Sau
cách mạng tháng 8 thành công, trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ
trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước (có Sắc lệnh 29/SL
ngày 12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950).
Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp năm 1959. Hiến
pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp
BHXH. Quyền này được cụ thể hóa trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công
nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và
Điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của
Chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách
BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công
nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức
người sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước.

8
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, sự thay đổi mới về cơ chế kinh
tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách
BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chế độ BHXH
đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các
hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng
cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi
người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ
đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên “ Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao
động thuộc các thành phần kinh tế”. Như vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nước
là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ
chế thị trường, ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995/ về Điều lệ BHXH đối với người lao
động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản Điều lệ này góp phần thực hiện
mục tiêu của Đảng và Nhà nước đặt ra, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã
hội, góp phần làm lành mạnh hóa thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự
mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. Và
sự ra đời Nghị định số 01/2003/NĐ-CP về việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH
đối với người lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cùng với kế hoạch
hoàn thành việc soạn thảo luật BHXH. Vì những yêu cầu khách quan để giải quyết các
vấn đề về chính sách, Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 ra đời, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2007 và được xem là cánh tay vịn để thực hiện các chế độ chính
sách xã hội cho người lao động.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Khái niệm về bảo hiểm:
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của
số ít [18].
Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người

được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn
để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được
một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm.
9
Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo
các phương pháp của thống kê [18].
Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế
này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty
bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm
vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm [18].
Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): Kinh doanh bảo hiểm là hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [18].
Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người
cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên
Quy luật số đông (the law of large numbers) .
1.2.2. Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán một cách khoa học và được
dự báo trước, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra
do những nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn hán …), tai nạn
giao thông, tai nạn nghề nghiệp, ốm đau, dịch bệnh, hỏa hoạn … Những bất trắc, rủi ro
đó thường gây nên những hậu quả khó lường, làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội, hoạt
động sản xuất và ảnh hưởng tới sức khỏe của con người. Bởi vậy ngay từ khi xã hội
loài người xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và đó là một
trong những nhu cầu vĩnh cửu. BHXH ra đời và trở thành giải pháp hữu hiệu giúp con
người vượt qua những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống và trong quá trình lao động.
BHXH xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của

nhân loại. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì nước Phổ (nay là nước Cộng hòa
liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau, đánh
dấu sự ra đời của BHXH. Đến nay, BHXH trở thành nền tảng cơ bản của hệ thống
ASXH của mỗi quốc gia, được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng
phát triển. Mặc dù đã có quá trình phát triển tương đối dài, nhưng cho đến nay còn có
nhiều khái niệm về BHXH, chẳng hạn như:
10
- Theo Tổ chức Lao động quốc tế: “BHXH là hình thức bảo trợ mà xã hội dành
cho các thành viên của mình thông qua nhiều biện pháp công nhằm tránh tình trạng
khốn khó về mặt kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật,
thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và tử vong; chăm sóc y tế và trợ cấp cho
các gia đình có con nhỏ” .
- Theo Bộ luật Lao động “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp
do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội
thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [5, tr.7].
- “BHXH là việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập
bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động
làm công ăn lương trong xã hội” [17].
- “BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi
họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm cho cơ
sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người
lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [8, tr.28-29].
- “BHXH là biện pháp mà Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro
làm giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động, chết; gắn
liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham
gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm ổn định đời sống

cho họ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [10, tr.7].
BHXH cũng được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ chính sách: BHXH là một chính sách xã hội, nhằm giải quyết các
chế độ xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động và bảo vệ sự phát
triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị quốc gia.
- Dưới góc độ tài chính: BHXH là một quỹ tài chính tập trung, được hình thành
từ sự đóng góp của các bên tham gia và có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Dưới góc độ thu nhập: BHXH là sự đảm bảo thay thế một phần thu nhập khi
người lao động có tham gia BHXH bị mất hoặc giảm thu nhập.
11
- Dưới góc độ quản lý: BHXH là công cụ quản lý của Nhà nước để điều chỉnh
mối quan hệ kinh tế giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước; thực
hiện quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Khái niệm BHXH được khái quát một cách đầy đủ nhất trong Luật BHXH được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ hợp thứ 9 thông qua
ngày 29 tháng 6 năm 2006 như sau: “Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội” [11, tr.9].
1.2.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội và phân biệt với bảo hiểm thương mại
- Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội:
+ Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động. Nói cách khác,
khi đã tham gia vào hệ thống Bảo hiểm xã hội, người lao động được bảo hiểm cho đến
lúc chết. Khi còn làm việc, người lao động được đảm bảo khi bị ốm đau, lao động nữ
được trợ cấp thai sản khi sinh con; người bị tai nạn lao động được trợ cấp tai nạn lao
động; khi không còn làm việc nữa thì được hưởng tiền hưu trí, khi chết thì được tiền
chôn cất và gia đình được hưởng trợ cấp tuất… Đây là đặc trưng riêng của Bảo hiểm
xã hội mà không một loại hình bảo hiểm nào có được.
+ Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội của người lao động trong Bảo hiểm
xã hội liên quan đến thu nhập của họ gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết… Do những sự kiện và rủi ro này mà
người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động không
được sử dụng, dẫn đến họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Vì vậy, người lao động
cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống và sự bù đắp này được
thông qua các trợ cấp Bảo hiểm xã hội. Đây là đặc trưng rất cơ bản của Bảo hiểm xã hội.
+ Người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, tuy
nhiên quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng
BHXH. Người chủ sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người
lao động mà mình thuê mướn.
+ Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, bao gồm người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước là nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngoài ra
nguồn thu của quỹ BHXH còn có các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư phần nhàn
12
rỗi tương đối của quỹ BHXH; khoản nộp phạt của các doanh nghiệp/đơn vị chậm nộp
BHXH theo quy định của pháp luật và các nguồn thu hợp pháp khác. Quỹ BHXH dùng
để chi trả các trợ cấp BHXH và chi phí cho các hoạt động quản lý của bộ máy BHXH.
Như vậy, có thể thấy quỹ BHXH là một quỹ xã hội, nhưng vừa là quỹ tài chính, vừa là
quỹ phát triển…
+ Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ
BHXH cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động của BHXH.
BHXH còn chịu sự giám sát chặt chẽ của người lao động (thông qua tổ chức công
đoàn) và người sử dụng lao động (thông qua tổ chức của giới chủ) theo cơ chế ba bên.
Đây cũng là đặc trưng rất riêng của BHXH. Tất cả những khía cạnh đã nêu trên, một
lần nữa cho thấy, BHXH được lập ra là để tác động vào thu nhập theo lao động của
người lao động tham gia BHXH. Nói cách khác, BHXH là hệ thống bảo đảm khoản
thu nhập thay thế cho người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hay mất việc làm, do đó bị mất hoặc giảm khoản thu nhập được thay thế, nhằm
bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ.
- Sự khác biệt giữa Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thương mại:
* Sự giống nhau:

+ Hai loại bảo hiểm này được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là: có tham gia
đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi, không đóng góp thì không được đòi
hỏi quyền lợi.
+ Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho các đối
tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại trong khuôn khổ
bảo hiểm đang tham gia.
+ Phương thức hoạt động của hai loại hình bảo hiểm này đều mang tính "cộng
đồng - lấy số đông bù số ít" tức là dùng số tiền đóng góp của số đông người tham gia
để bù đắp, chia sẻ cho một số ít người gặp phải biến cố rủi ro gây ra tổn thất.
* Sự khác nhau:
+ Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. Mục tiêu hoạt động
bảo hiểm xã hội là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định
đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Vì vậy, hoạt động
bảo hiểm xã hội là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội.
+ Phạm vi hoạt động của bảo hiểm xã hội liên quan trực tiếp đến người lao động
và các thành viên trong gia đình họ và chỉ diễn ra trong từng quốc gia. Hoạt động bảo
13
hiểm thương mại rộng hơn, không chỉ diễn ra trong từng quốc gia mà còn trải rộng
xuyên quốc gia, có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội bao gồm cả
bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.
+ Có sở nguồn tiền đóng, mức đóng, tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội hoàn toàn dựa
vào thu nhập từ tiền lương, tiền công của người lao động. Bảo hiểm xã hội thực hiện
các quy định theo chính sách xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ để đảm bảo sự
phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị của quốc gia. Bảo hiểm thương mại
thực hiện theo cơ chế thị trường và nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Quan hệ giữa
mức đóng góp và mức hưởng là quan hệ tương đồng thuần tuý, tức là ứng với mỗi
mức đóng góp bảo hiểm nhất định thì khi xảy ra rủi ro sẽ nhận được một mức quyền
lợi tương ứng quy định trước.
1.3. Nội dung và các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện công tác quản lý
thu BHXH

1.3.1. Nội dung công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Trong một hệ thống BHXH có đóng góp, hệ thống thu các khoản đóng góp có
một tầm quan trọng đặc biệt. Các khoản đóng góp là nguồn tài chính mà hệ thống
BHXH phụ thuộc vào, là cơ sở để hình thành quỹ tài chính tập trung đảm bảo chi trả
các chế độ BHXH.
Để đảm bảo nguồn thu vào quỹ BHXH nói riêng và các quỹ tài chính nói chung,
đòi hỏi phải có cơ chế thu. Để tìm hiểu rõ hơn, tác giả đã nghiên cứu, làm rõ nội hàm
khái niệm cơ chế thu BHXH.
Cơ chế thu BHXH là tổng thể các yếu tố bao gồm: luật pháp, chính sách, bộ máy,
biện pháp … để chỉ đạo, triển khai và thực hiện công tác thu BHXH, nhằm thực hiện
mục tiêu an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, theo cách hiểu của tác giả, cơ chế thu BHXH sẽ bao gồm các bộ phận:
- Chính sách, pháp luật về thu BHXH: Chính sách, pháp luật về BHXH là cơ sở
pháp lý để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện. Chính sách, pháp luật về thu BHXH
bao gồm các quy định về đối tượng, mức đóng BHXH, phương thức đóng và các chế tài
xử lý đối với các trường hợp không tuân thủ quy định về thu BHXH.
- Chủ thể thu BHXH: BHXH là chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo ASXH,
vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Bởi vậy, ngoài các
quỹ BHXH do tư nhân quản lý, các quỹ BHXH do Nhà nước quản lý thì chủ thể thu
BHXH là Nhà nước. Tuy theo hệ thống tổ chức của từng nước, chủ thể thu BHXH bao gồm:
14
+ Các cơ quan QLNN về BHXH.
+ Các cơ quan sự nghiệp tổ chức thu BHXH.
- Biện pháp, hình thức thu: Là cách thức tổ chức thực hiện các chính sách, pháp
luật để thu nộp BHXH, bao gồm cả các biện pháp bắt buộc, cưỡng chế các đối tượng
thu chấp hành quy định về thu BHXH, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về thu BHXH.
- Đối tượng thu (người nộp): Trong hệ thống chính sách thu BHXH của các nước
trên thế giới đều quy định đối tượng thu BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, do
điều kiện KT - XH, chính trị của từng quốc gia khác nhau nên trách nhiệm đóng góp

(tỷ lệ đóng góp) của NLĐ, NSDLĐ có khác nhau.
1.3.2. Tỷ lệ nợ đọng BHXH
- Khái niệm: Tỷ lệ nợ đóng BHXH là tỷ lệ phần trăm tổng số tiền BHXH nợ
đóng so với tổng số tiền BHXH phải thu.
Cách tính:
- Tử số là tổng số tiền BHXH nợ đóng;
- Mẫu số là tổng số tiền BHXH phải thu trong kỳ bằng tổng số tiền BHXH nợ
đóng kỳ trước chuyển sang cộng tổng số tiền BHXH phải thu phát sinh trong kỳ.
Tỷ lệ nợ đóng
BHXH
=
Tổng số tiền nợ đóng BHXH
Tổng số tiền BHXH phải thu trong kỳ
x 100
Chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp mức độ thu kịp thời, hoàn thành công tác thu
BHXH của bộ phận thu BHXH. Tỷ lệ này càng nhỏ phản ánh số nợ đóng BHXH so
với tổng số phải thu BHXH càng thấp, ngược lại khi tỷ lệ này càng cao phản ánh quy
mô nợ lớn, phạm vi nợ đóng BHXH diễn ra phổ biến. Đây là chỉ tiêu tổng hợp vừa
đánh giá quy mô nợ và phạm vị nợ BHXH.
1.3.3. Tỷ lệ số đơn vị nợ/ số đơn vị tham gia
- Khái niệm: Tỷ lệ đơn vị nợ đóng BHXH là tỷ lệ phần trăm tổng số đơn vị
BHXH nợ đóng so với tổng số đơn vị tham gia BHXH.
Cách tính:
- Tử số là tổng số đơn vị BHXH nợ đóng;
- Mẫu số là tổng số đơn vị tham gia BHXH trong kỳ

Tỷ lệ đơn vị nợ
đóng BHXH
=


Tổng số đơn vị nợ đóng BHXH
Tổng số đơn vị tham gia BHXH trong kỳ
x 100

15
Chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp phạm vi nợ BHXH. Tỷ lệ này càng nhỏ phản ánh
số DN nợ BHXH càng ít, ngược lại khi tỷ lệ này càng cao phản ánh phạm vi nợ đóng
BHXH diễn ra phổ biến.
1.3.4. Số tiền nợ bình quân của một lao động
- Khái niệm: Số tiền nợ BHXH bình quân của một LĐ bằng tổng số nợ BHXH
chia cho tổng số NLĐ tham gia BHXH.
Cách tính:
- Tử số là tổng số tiền BHXH nợ đóng;
- Mẫu số là tổng số LĐ tham gia BHXH trong kỳ
Số tiền nợ đóng BHXH
bình quân một LĐ
=

Tổng số tiền nợ đóng BHXH
Tổng số LĐ tham gia BHXH trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp mức độ nợ BHXH. Tỷ lệ này càng nhỏ phản ánh
mức độ nợ BHXH càng ít, ngược lại khi tỷ lệ này càng cao phản ánh mức độ nợ đóng
BHXH diễn ra lớn. Đây là chỉ tiêu đánh giá quy mô nợ.
1.4. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về việc hoàn thiện công tác quản lý
thu BHXH
1.4.1. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới
1.4.1.1 Kinh nghiệm quản lý nợ đọng BHXH tại Hàn Quốc
Cơ quan Phúc lợi và Đền bù cho NLĐ Hàn Quốc (COMWEL) là tổ chức xã hội
thuộc Bộ Lao động Hàn Quốc. COMWEL thực hiện nhiều chương trình ASXH do

Chính phủ và pháp luật Hàn Quốc quy định như: đăng ký và thu các khoản đóng góp
BH việc làm, BH tai nạn LĐ và quỹ bảo đảm tiền lương cho NLĐ cũng như cung cấp
các dịch vụ phục hồi sức khỏe, bồi thường, chăm sóc y tế và hỗ trợ tai nạn LĐ cho LĐ
tự do.
Mục tiêu hoạt động của COMWEL là cung cấp các dịch vụ quản lý liên quan tới
LĐ và việc làm trong lĩnh vực BHXH và phúc lợi xã hội, góp phần hiện thực hóa cuộc
sống ổn định và hy vọng của NLĐ thông qua việc cung cấp các dịch vụ tối ưu nhất về
phúc lợi, hỗ trợ phục hồi và đền bù cho NLĐ.
Trong những năm qua, COMWEL luôn xác định tình trạng nợ đọng, chậm nộp
các khoản đóng góp BHXH sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ đồng thời
gây ách tắc trong quá trình giải quyết chế độ cho NLĐ. Để giải quyết thực trạng này,
COMWEL đã đưa ra một số biện pháp bảo đảm tài chính tập trung chủ yếu vào việc
16
làm thế nào để quản lý các khoản nợ đọng BHXH, qua đó đảm bảo thực hiện có hiệu
quả các chính sách cho NLĐ.
Để làm được điều này, COMWEL thực hiện nghiêm ngặt 3 nguyên tắc quản lý
nợ đọng, đó là:
- Bảo đảm quyền cơ bản của con người bắt đầu từ việc đem lại sự công bằng giữa
người đóng BHXH và người trốn đóng BHXH; tối thiểu hóa các vi phạm về quyền con
người; bảo đảm tuyệt đối thông tin cá nhân.
- Nâng cao dịch vụ cộng đồng thông qua các công cụ thanh toán phục vụ khách
hàng như thẻ tín dụng, ATM, rút tiền tự động.
- Đảm bảo cho công dân được biết các quyền về hướng dẫn thanh toán các khoản
BHXH và công khai thông tin danh sách nợ BHXH.
Dựa trên nguyên tắc này, COMWEL tiến hành thực hiện quy trình thu hồi nợ
đọng BHXH bao gồm 3 bước:
- Bước 1: Đóng các khoản nợ đọng BHXH sau khi nhận được thông báo hoặc
nhắc nhở quá hạn.
- Bước 2: Thu tiền thuế bắt buộc theo Luật thuế Quốc gia.
- Bước 3: Chuyển nhượng tài sản bằng cách đấu giá tài sản theo quy định của tòa

án. Thứ tự phân bổ tài sản được thiết lập theo Luật thuế Quốc gia.
Quy trình này được dựa trên 03 khía cạnh quản lý nợ đọng BHXH, đó là:
Khía cạnh hệ thống:
COMWEL khuyến khích thanh toán các khoản nợ BHXH trong năm BH hiện tại
thông qua việc liên tục thúc giục các đơn vị còn nợ tiền BH đóng các khoản nợ đọng
nhằm nâng cao tỷ lệ thu hàng năm. Trụ sở chính sẽ thông báo tới các văn phòng chi
nhánh kế hoạch về thời hạn thu BHXH để thúc giục các đơn vị còn nợ BHXH. Sau khi
nhận được kế hoạch từ trụ sở chính, các văn phòng chi nhánh sẽ thu thập dữ liệu nợ
đọng BHXH, biên soạn nội dung công văn nhắc nhở và gửi chúng tới các đơn vị nợ BHXH.
Thúc đẩy thu các khoản nợ đọng BHXH tập trung và có hệ thống thông qua việc
tập trung vào các đơn vị còn nợ BHXH theo loại hình hoặc quy mô DN trong một thời
gian nhất định, đồng thời khuyến khích các NSDLĐ đóng BHXH bằng cách liên lạc
với họ qua điện thoại hoặc đến gặp họ trực tiếp trước khi gửi công văn nhắc nhở quá
hạn (Sơ đồ 1.1).

×