Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

nghiên cứu nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (pci) của tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG




PHAN ĐÌNH HIỀN




NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CẤP TỈNH (PCI) CỦA TỈNH NGHỆ AN






LUẬN VĂN THẠC SĨ









Nghệ An, năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG




PHAN ĐÌNH HIỀN




NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CẤP TỈNH (PCI) CỦA TỈNH NGHỆ AN



LUẬN VĂN THẠC SĨ




Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60 34 01 02


Người hướng dẫn khoa học : TS. LÊ KIM LONG


Nghệ An, năm 2014



i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh ( PCI) của tỉnh Nghệ An” là công trình nghiên cứu của riêng tôi và chưa
được công bố trên bất kỳ phương tiện thông tin nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong nghiên cứu này đều được
ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn




Phan Đình Hiền


ii


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài “Nghiên cứu nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh ( PCI) của tỉnh Nghệ An” , tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các thầy cô
giáo Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang đã truyền đạt cho tôi những kiến thức
bổ ích trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn TS. Lê Kim Long,
người đã nhịêt tình chỉ dẫn, định hướng, truyền thụ kiến thức trong suốt quá trình học

tập và nghiên cứu.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các đồng nghiệp, gia
đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.

Tác giả luận văn




Phan Đình Hiền


iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………………………………i
LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………………………….ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU viii
DANH MỤC HÌNH VẼ viii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ LÝ THUYẾT 5
1.1. Tổng luận về năng lực cạnh tranh 5
1.1.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh 5
1.1.2. Năng lực cạnh tranh quốc gia 6
1.1.3. Năng lực cạnh tranh ngành 6

1.1.4. Năng lực cạnh tranh địa phương 7
1.1.5. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp 8
1.1.6. Năng lực cạnh tranh sản phẩm 9
1.1.7. Mối quan hệ năng lực cạnh tranh giữa các cấp độ 10
1.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 10
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của PCI 10
1.2.2. Vai trò của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI 13
1.2.3. Các chỉ số thành phần và phương pháp đo lường chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI) 15
1.2.3.1. Thành phần 1 - Chi phí gia nhập thị trường 15
1.2.3.2. Thành phần 2 - Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất: 16
1.2.3.3. Thành phần3 - Tính minh bạch và tiếp cận thông tin 18
1.2.3.4. Thành phần 4 - Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà
nước 19
1.2.3.5. Thành phần 5 - Chi phí không chính thức 20
1.2.3.6. Thành phần 6 - Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh 21


iv


1.2.3.7. Thành phần 7 - Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp 21
1.2.3.8. Thành phần 8 - Đào tạo lao động 22
1.2.3.9. Thành phần 9 - Thiết chế pháp lý 23
1.2.3.10. Thành phần 10 – Cạnh tranh bình đẳng 24
1.2.4. Phương pháp xây dựng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): 25
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh: 30
1.2.5.1. Nhóm nhân tố chủ quan 30
1.2.5.2. Nhóm các nhân tố khách quan 31
1.2.6. Ưu điểm và hạn chế của chỉ số PCI 33

1.2.6.1. Ưu điểm của chỉ số PCI 33
1.2.6.2. Hạn chế của chỉ số PCI 34
1.2.7. Kinh nghiệm của một số địa phương về cải thiện chỉ số PCI 34
CHƯƠNG 2 40
THỰC TRẠNG CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỈNH NGHỆ AN THỜI
GIAN QUA 40
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Nhgệ An. 40
2.2. Tổng quan biến động về chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của các tỉnh trong cả
nước giai đoạn 2005 – 2013 43
2.3. Tổng quan biến động về chỉ số PCI Nghệ An GĐ 2005 - 2013: 46
2.4. Phân tích chi tiết các chỉ số thành phần PCI của Nghệ An năm 2013 52
2.4.1. Chi phí gia nhập thị trường: 52
2.4.2. Tiếp cận đất đai 54
2.4.3. Tính minh bạch và tiếp cận thông tin 57
2.4.4. Chi phí về thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước: 59
2.4.5. Chi phí không chính thức 61
2.4.6. Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh: 62
2.4.7. Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp 63
2.4.8. Đào tạo lao động 66
2.4.9. Thiết chế pháp lý 67


v


2.4.10. Cạnh tranh bình đẳng 69
CHƯƠNG 3 72
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CẤP TỈNH CỦA NGHỆ AN 72
GIAI ĐOẠN 2014 – 2020 72

3.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013 -2020: 72
3.1.1. Quan điểm phát triển: 72
3.1.2. Mục tiêu phát triển 72
3.1.3. Các khâu đột phá theo ngành và lĩnh vực 75
3.2. Quan điểm, định hướng và mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tỉnh
Nghệ An đến năm 2020 75
3.3. Các giải pháp nâng cao chỉ số PCI Nghệ An 77
3.3.1. Các giải pháp chung 77
3.3.2. Các giải pháp cụ thể đối với cải thiện các chỉ số thành phần 82
3.3.2.1. Chi phí gia nhập thị trường: 82
3.3.2.2. Tiếp cận đất đai 83
3.3.2.3. Tính minh bạch và tiếp cận thông tin 85
3.3.2.4. Chi phí về thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước: 86
3.3.2.5. Chi phí không chính thức 86
3.3.2.6. Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh: 87
3.3.2.7. Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp 87
3.3.2.8. Đào tạo lao động 88
3.3.2.9. Thiết chế pháp lý 89
3.3.2.10. Chỉ số cạnh tranh bình đẳng 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97



vi


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực mậu dịch tự do cộng đồng các nước Đông Nam Á
APEC Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN Cộng đồng các nước Đông Nam Á

CNH-HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CIEM Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
CSVN Cộng Sản Việt Nam
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCN Khu công nghiệp
KKT Khu kinh tế
PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam
PNTR Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
R&D Nghiên cứu và Phát triển
SWOT Điểm mạnh - Điểm yếu - Cơ hội - thách thức
UBND Ủy ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VNCI Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam
WTO Tổ chức Thương Mại Thế giới
IDM
GCI
WEF
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
NLCT Năng lực cạnh tranh
GPMB Giải phóng mặt bằng
CCHC Cải cách hành chính
CCHCC Cải cách hành chính công


vii



KT-XH Kinh tê- Xã hội
HTX Hợt tác xã
KH-ĐT Kê hoạch – Đầu tư



viii


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1: Trọng số của các chỉ số thành phần 29
Bảng 1.2: Bảng điểm của 4 tỉnh năm 2006 - 2011 38
Bảng 2.1: Xếp hạng PCI Nghệ An so với cả nước và khu vực 46
Bảng 2.2: Vị trí PCI của tỉnh Nghệ An so với cả nước và các tỉnh trong khu vực 47
Bảng 2.3: So sánh chỉ số thành phần PCI 2013 giữa các tỉnh/ thành trong khu vực 48
Bảng 2.4: Các chỉ số thành phần của PCI Nghệ An qua các năm 49
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp chỉ số pci nghệ an giai đoạn 2011 – 2013 so sánh với cả
nước và các tỉnh bắc trung bộ 50
Bảng 2.6: Kết quả khảo sát chỉ số chi phí gia nhập thị trường năm 2013 52
Bảng 2.7: Kết quả khảo sát chỉ số tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất năm
2013 55
Bảng 2.8: Kết quả khảo sát chỉ số tính minh bạch và tiếp cận thông tin năm 2013 57
Bảng 2.9: Kết quả khảo sát chỉ số chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà
nước năm 2013 60
Bảng 2.10: Kết quả khảo sát chỉ số chi phí không chính thức năm 2013 61
Bảng 2.11: Kết quả khảo sát chỉ số tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh,
năm 2013 62

Bảng 2.12: Kết quả khảo sát chỉ số dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, năm 2013 64
Bảng 2.13: Kết quả khảo sát chỉ số đào tạo lao động, năm 2013 66
Bảng 2.14: Kết quả khảo sát chỉ số thiết chế pháp lý, năm 2013 67
Bảng 2.15. Kết quả khảo sát chỉ số cạnh tranh bình đẳng, năm 2013 69

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Biểu đồ “hình sao” Thể hiện kết quả điều hành của từng tỉnh theo chỉ số
thành phần, năm 2009 27
Hình 1.2: Mô hình phương pháp xây dựng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 29
Hình 2.1: Xếp hạng chỉ số PCI các tỉnh, năm 2005 44
Hình 2.2: Tổng quan chỉ số PCI các tỉnh, năm 2013 45
Hình 2.3: So sánh chỉ số PCI của Nghệ An trong vùng Duyên hải Miền Trung 49
Hình 2.4: Biểu đồ chỉ số PCI tỉnh Nghệ An, năm 2007 - 2013 52


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Ngày nay, dưới sự tác động của quá trình cải cách sang nền kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và vị trí của chính quyền địa phương các cấp (gồm
HĐND, UBND, và các cơ quan chuyên môn) ngày càng được phân cấp mở rộng. Họ
có quyền chủ động hơn trong việc lập và thực thi các chiến lược và kế họach phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, mở rộng khả năng thực hiện các quan hệ trực tiếp với
các đối tác nước ngoài để thu hút vốn, công nghệ cũng như hợp tác sản xuất nhằm khai
thác hiệu quả hơn các nguồn lực sẵn có. Xuất phát từ tình hình trên, các địa phương
phải tự thân vận động như một doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Các nhà lãnh
đạo cần biết xây dựng địa phương mình thành một sản phẩm hấp dẫn, đồng thời cần
biết cách quảng bá các nét đặt thù của “sản phẩm” này một cách hiệu quả đến các thị

trường mục tiêu của mình.
Sự phát triển kinh tế xã hội các tỉnh trong những năm qua cũng cho thấy chính
quyền cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và địa
phương. Chính quyền đã đang và cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư ở địa phương. Nhiều địa phương đã thành công
trong việc thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp và cải thiện đời sống vật chất tinh
thần cho người dân. Những thành công đó đã khiến các nhà nghiên cứu, các tổ chức
trong và ngoài nước quan tâm hơn dến vai trò cấp tỉnh mà cụ thể hơn là cạnh tranh cấp
tỉnh ở Việt Nam.
Năng lực cạnh tranh (NLCT) được tạo nên từ tập hợp nhiều yếu tố khác nhau, tác
động đa chiều, đan xen và ảnh hưởng qua lại rất phức tạp. Câu hỏi đặt ra là những yếu
tố nào tạo nên sự thành công ở một số địa phương, trong khi một số địa phương khác
lại thất bại trong việc thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Các nhà nghiên cứu
kinh tế, các tổ chức trong và ngoài nước quan tâm đến sự khác nhau về hiệu quả điều
hành kinh tế của chính quyền cấp tỉnh ở Việt Nam. Từ đó, chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI – Provincial Competitiveness Index) được xây dựng để đánh giá năng lực
điều hành kinh tế của chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm
vi cả nước.
Nghệ An là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của vùng Bắc Trung bộ, với diện tích
tự nhiên lớn nhất cả nước. Hệ thống giao thông đầy đủ các loại hình: đường bộ, đường


2


không, đường sắt, đường biển; có cửa khẩu quốc tế Nâm Cắm, cửa khẩu Thanh Thủy,
có tuyến hành lang phía Tây thông thương với Lào mở ra nhiều cơ hội giao thương
mới. Về lợi thế so sánh, Nghệ An sẵn có nhiều tiềm năng có biển, đảo, khóang sản,
đồng bằng, rừng, núi, biên giới trên đất liền… là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú được thừa hưởng để phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, chính quyền tỉnh

Nghệ An đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng
hạng chỉ số PCI. Nhiều chương trình, đề án đã được thực hiện với mục tiêu tạo mọi
điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh, sức hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hiệu quả đạt được vẫn chưa
được như mong muốn. Trong bảng xếp hạng chỉ số PCI năm 2013, Nghệ An vẫn giẫm
chân tại chỗ, không tăng được bậc nào, xếp thứ 46/63. Tuy xét về điểm số, Nghệ An
tăng được 1,47 điểm so với năm 2012 , nhưng xét về xếp loại nhóm điều hành thì
Nghệ An đã tụt hạng từ nhóm loại khá rơi xuống gần cuối nhóm trung bình (7 tỉnh),
chỉ đứng trước tỉnh Lai Châu. Nhìn lại kết quả xếp hạng của Nghệ An trong 9 năm qua
cho thấy: Chỉ có 2 năm Nghệ An được xếp trong nhóm loại khá. Trong khi đó, nếu so
sánh các tỉnh khu vực duyên hải Trung Bộ, ngoại trừ Đà Nẵng là thành phố trực thuộc
Trung Ương, 9 tỉnh còn lại đều có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng với Nghệ An
nhưng Nghệ An cũng chỉ xếp hạng 10/11 tỉnh. Đặc biệt, nếu so sánh với Thanh Hóa –
một tỉnh láng giềng của Nghệ An – đã tăng được 6 bậc từ nhóm loại khá năm 2012,
nay đã đứng chân trong nhóm loại tốt. Đây thực sự là những kết quả rất cần được xem
xét. Vì sao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Nghệ An lại thấp thua xa nhưng tỉnh có
điều kiện kinh tế xã hội tương đồng, thậm chí cả những tỉnh có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn hơn nhiều? Kết quả đó thực sự đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường
đầu tư kinh doanh, khả năng canh tranh trong vấn đề thu hút đầu tư trong và ngoài
nước của tỉnh Nghệ An so với các địa phương khác.
Thực tế, việc nâng cao chỉ số PCI để thu hút đầu tư và cải thiện môi trường kinh
doanh trong dài hạn đã được nhiều địa phương quan tâm và có nhiều nghiên cứu mang
tính hàn lâm tiêu biểu như: Nguyễn Thum Em (2013) cho Kiên Giang, Võ Tấn Thái
(2014) cho Khánh Hòa, Là một cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An, cơ quan
trách nhiệm trước UBND tỉnh về chỉ số PCI của tỉnh. Tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu
nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Nghệ An ” để phục vụ


3



cho công việc hiện tại và tương lai của mình với mong muốn tỉnh Nghệ An sẽ phát
triển nhanh và bền vững, đúng với tiềm năng và thế mạnh của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân ảnh hưởng đến chỉ số năng lực
cạnh tranh (PCI) tỉnh Nghệ An giai đoạn 2005 - 2013.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao chỉ số năng lực cạnh
tranh (PCI) tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Địa phương được chọn nghiên cứu là tỉnh Nghệ An, có xem xét với các quan hệ
với một số tỉnh ở Việt Nam.
Luận văn sử dụng những số liệu PCI từ năm 2005-2013.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Quy trình nghiên cứu được thực hiện thông qua hai bước như sau:
- Phương án tiếp cận và phân tích hệ thống: Sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu
vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, các chỉ số, tiêu chí cấu thành và các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh , …
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh: các phương pháp này sử dụng chủ
yếu trong việc nghiên cứu bài học, kinh nghiệm, phân tích đánh giá thực trạng chỉ số
NLCT của tỉnh Nghệ An, đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị liên quan đến nâng
cao chỉ số NLCT tỉnh Nghệ An.
5. Đóng góp của Luận văn:
Về mặt lý thuyết: tác giả đã hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận cơ bản về
cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là gì? Chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh, các chỉ số thành phần, phương pháp tỉnh toán và tổng hợp các chỉ
số thành phần thành chỉ số tổng hợp PCI được đề xuất bởi VCCI.
Về mặt thực tiễn: Tác giả đã học hỏi và kế thừa cách tiếp cận phân tích đánh giá
thực trạng của điểm số PCI và các chỉ số thành phần có so sánh đánh giá với cả nước,
khu vực và các tỉnh lân cận, để biết được vị trí của tỉnh đang nằm ở vị trí nào so với cả

nước và khu vực. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trước đây chỉ dừng lại sự so sánh
điểm số tổng PCI và các chỉ số thành qua từng năm, rồi đánh giá kết luận đề xuất biện
pháp xử lý nên trong đánh giá và nhận định những ưu điểm và hạn chế còn chung


4


chung chưa thật sự cụ thể nên không thấy được trong các chỉ số hạn chế đang yếu kém
ở các tiểu chỉ số thành phần nào để có giải pháp khắc phục…
6. Bố cục luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý thuyết
Chương II: Thực trạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Nghệ An thời
gian qua.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh của Nghệ An.


5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng luận về năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Từ nhiều thập kỷ trước đây, thuật ngữ “Năng lực cạnh tranh” đã trở nên khá phổ
biến đối với các nhà kinh tế và hoạch định chính sách trên thế giới với nhiều quan
điểm và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Có rất nhiều thuật ngữ khác nhau liên
quan đến quá trình cạnh tranh giữa các chủ thể được sử dụng song hành cùng với thuật
ngữ “Năng lực cạnh tranh” (Competitiveness) như: “Sức cạnh tranh” (Competitive

Edge), “Khả năng cạnh tranh” (Competitive Capacity), “Lợi thế cạnh tranh”
(Competitive Advantage) và “Tính cạnh tranh” (Competitivity). Cho đến nay vẫn chưa
có sự thống nhất trong việc sử dụng những thuật ngữ này.
Theo quan điểm của K.Marx, “cạnh tranh” là “sự ganh đua đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Theo từ điển kinh doanh (xuất bản
năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là “sự ganh
đua, kinh địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại
tài nguyên sản xuất hoặc cùng một nhóm khách hàng về phía mình”. Khái quát lại hệ
thống lý thuyết về cạnh tranh cho thấy, cạnh tranh là một khái niệm có nhiều cách hiểu
khác nhau, là một phạm trù rất rộng và mang tính lâu dài. Khái niệm cạnh tranh được
sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, ngành, địa phương hoặc quốc gia…, và chỉ
khác nhau ở mục tiêu được đặt ra là ở quy mô doanh nghiệp, địa phương hay quốc gia.
Trong khi đối với một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận
cao thì đối với địa phương hay quốc gia, mục tiêu là tạo việc làm, nâng cao mức sống
và phúc lợi cho nhân dân. Tóm lại cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể
cạnh tranh ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục
tiêu của mình.
Liên quan đến quá trình cạnh tranh, làm thế nào để hình thành được năng lực
cạnh tranh thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, chính phủ quốc gia,
các doanh nhân và cả các nhà nghiên cứu. Từ khái niệm cạnh tranh có thể hiểu rộng ra
năng lực cạnh tranh là tập hợp những điều kiện vốn có hoặc khả năng đủ để giành
thắng lợi, tạo lập được những thuận lợi hay lợi thế của chủ thể cạnh tranh (cá nhân hay


6


tổ chức, doanh nghiệp, địa phương hay quốc gia) trong việc thực hiện cùng mục tiêu
nào đó.

Có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trên các cấp độ: quốc gia,
địa phương, doanh nghiệp và sản phẩm. Hiện nay vẫn chưa có một lý thuyết nào hoàn
toàn thuyết phục vấn và “chuẩn” về năng lực cạnh tranh. Dù vậy, hai hệ thống lý
thuyết với hai phương pháp đánh giá được các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế
sử dụng nhiều nhất là: (i) phương pháp do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thiết lập
trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu, và (ii) phương pháp do Viện Quốc tế về quản lý và
phát triển (IMD) đề xuất trong cuốn niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương
pháp này đều do một số Giáo sư đại học Havard như Michael Porter, Jeffrey Shach và
một số chuyên gia của WEF như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng [20].
1.1.2. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Báo
cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh quốc gia là
khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống,
nghĩa là đạt được mức tăng trưởng cao mang lại sự thay đổi tổng sản phẩm quốc nội
trên đầu người theo thời gian” [20].
Theo tác giả Lương Gia Cường (2003), năng lực cạnh tranh quốc gia được định
nghĩa như sau: “Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt
được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định được kinh tế xã hội,
nâng cao đời sống của người dân” [20].
Theo đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)
thì năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao,
là tăng năng lực sản xuất bằng việc đổi mới, sử dụng các công nghệ cao hơn, đào tạo
kỹ năng liên tục, quan tâm đến công bằng xã hội và bảo vệ môi trường [20].
1.1.3. Năng lực cạnh tranh ngành
Theo M.E.Porter (1980), một ngành (sản phẩm hay dịch vụ) là một nhóm doanh
nghiệp sản xuất những sản phẩm hay dịch vụ mà những sản phẩm hay dịch vụ này
cạnh tranh trực tiếp với nhau. Ngành còn được định nghĩa là một nhóm các công ty
chào bán một sản phẩm hay một danh mục sản phẩm có thể hoàn toàn thay thế được.
Năng lực cạnh tranh của một ngành là khả năng đạt năng suất cao, sử dụng đầu
vào thấp nhất để tạo được nhiều đầu ra nhất. Trong cạnh tranh ngành, chủ thể cạnh



7


tranh là ngành. Cũng có thể hiểu năng lực cạnh tranh của một ngành là khả năng ngành
đó tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn các ngành khác trong điều kiện cạnh tranh và
hội nhập quốc tế.
Có rất nhiều cách để phân tích năng lực cạnh tranh của ngành, tác giả
M.E.Porter (1980) đưa ra cách phân tích năng lực cạnh tranh dựa vào phân tích cấu
trúc trong quản trị chiến lược. Theo đó năng lực cạnh tranh ngành bị ảnh hưởng bởi
các nhóm nhân tố: điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; trình độ phát triển
khoa học - công nghệ; nguồn nhân lực; kết cấu hạ tầng; trình độ tổ chức quản lý
ngành; thể chế kinh tế - xã hội [1, 7].
1.1.4. Năng lực cạnh tranh địa phương
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng của mọi quốc gia, mọi
địa phương. Để thực hiện mục tiêu ấy, mỗi quốc gia, địa phương sẽ có những chính
sách và bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Bất kỳ địa phương nào cũng
phải tìm lời giải đáp cho vấn đề là nguồn lực cho đầu tư phát triển ở đâu và cách thức
huy động các nguồn lực ấy như thế nào. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và
phát triển DN là lời giải đáp cho mỗi chính quyền địa phương. “Khả năng một địa
phương cấp tỉnh thu hút các DN, các tổ chức và cá nhân đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội theo những mục tiêu đã định chính là năng lực cạnh tranh của tỉnh đó” [7,16-17].
Do vậy, một tỉnh có NLCT cao thể hiện ở sự hấp dẫn về đầu tư và kinh doanh đối với
các DN, nhà đầu tư hay là đã tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đó.
Cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là
cấp độ cạnh tranh có tính gay gắt, đa dạng hơn trong phạm vi một quốc gia. Cạnh
tranh giữa các tỉnh trong một quốc gia có mức độ mềm dẻo và linh hoạt hơn. Đó là sự
ganh đua giữa các tỉnh (vùng) nhằm thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở

lợi thế của địa phương (vùng) đó sẵn có hoặc tự tạo ra như vị trí địa lý, tài nguyên
thiên nhiên phong phú hoặc chất lượng con người, cơ sở hạ tầng, chính sách thu hút
đầu tư, đan xen với sự ganh đua có tính chất hợp tác, liên kết cùng phát triển dựa
trên lợi thế có sẵn của nhau. Vì thế, việc liên kết hợp tác giữa các địa phương nhằm
xoá bỏ giới hạn địa giới hành chính và phân chia các nguồn lực nhằm bổ sung và hỗ
trợ cho nhau để tăng cường năng lực cạnh tranh của các tỉnh trở nên rất quan trọng.


8


Như vậy, thực chất NLCT cấp tỉnh là khả năng các tỉnh ganh đua nhằm thu hút
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế của địa phương trong mối
quan hệ
liên kết với những địa phương khác trong phạm vi quốc gia.
Như vậy, vai trò của
chính quyền địa phương là tạo môi trường thúc đẩy thu hút đầu tư nhằm phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Vai trò ấy được xác định trên các mặt sau: (1) Định
hướng phát triển thông qua các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, chính sách
phát triển kinh tế; (2) Tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các DN hoạt động và
cạnh tranh lành mạnh; (3) Điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng
thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính công; (4) Kiểm tra giám sát các hoạt
động kinh tế theo pháp luật, chính sách đã đề ra.
Để nâng cao NLCT cấp tỉnh, cả nguồn lực vật chất và nguồn lực phi vật chất
(hay nguồn lực mềm) đều rất quan trọng. Trong khi các nguồn lực vật chất dễ nhận
biết, lượng hoá thì nguồn lực phi vật chất không phải lúc nào và ai cũng nhìn nhận ra
được, và nhìn nhận như nhau. Vì thế, khi nói đến NLCT và tạo dựng NLCT cho địa
phương mình, mỗi tỉnh sẽ nhìn nhận và có cách làm khác nhau.
1.1.5. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp trong việc

tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị phần, tạo thu nhập cao và phát triển
bền vững.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây
là yếu tố nội lực của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính một cách riêng biệt bằng
các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp…mà cần
đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị
trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp
được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối thủ cạnh
tranh. Trên cơ sở so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp
phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối thủ của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp
có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được
khách hàng của đối thủ cạnh tranh [5,6].
Thực tế cho thấy, không có một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ
tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này
và hạn chế về mặt khác. Nhưng không phải vì thế mà các doanh nghiệp không thể tạo


9


dựng được lợi thế cạnh tranh cho riêng mình. Doanh nghiệp có thể thông qua việc tạo
ra sự khác biệt sản phẩm và dịch vụ, thỏa mãn được thị hiếu khách hàng bằng những
cách thức mà đối thủ cạnh tranh không thể thực hiện hoặc bằng cách đi trước đón đầu,
tạo ra nhu cầu mới cho khách hàng, tận dụng những nguồn lực có sẵn để tăng giá trị
cho khách hàng đồng thời hạ thấp chi phí và giảm giá cả.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình e chưa đủ, bởi trong điều
kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực tế chứng
minh một số doanh nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong còn yếu
nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng thực

lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm - dịch vụ hấp dẫn
người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến
vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được
các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần
thực hiện việc đánh giá bằng cả định lượng và định tính. Các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh ở các ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực
cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng
lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng
sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc
tiến thương mại; năng lưc nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của doanh
nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị
phần, vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp [6].
Một doanh nghiệp có thể sản xuất kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch vụ
nên người ta còn phân biệt NLCT của DN với NLCT của sản phẩm dịch vụ.
1.1.6. Năng lực cạnh tranh sản phẩm
Trong thực tế việc đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nhiều khi chúng
ta hay chỉ xem xét trên phương diện định tính. Điều này không tránh khỏi những cảm
tính trong đánh giá, do vậy không đảm bảo tính chính xác. Kết quả của việc đánh giá
không chính xác có thể ảnh hưởng không tốt đến các quyết định quản lý liên quan đến
sản phẩm của công ty. Bởi vậy, việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng vào việc phân
tích và đánh giá năng lực cạnh tranh cho sản phẩm là hết sức cần thiết. Để đo lường


10


sức cạnh tranh cho một sản phẩm, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: giá cả sản
phẩm, chất lượng sản phẩm và bao gói, doanh thu và sản phẩm, thị phần của sản phẩm,
tổ chức phân phối sản phẩm, khả năng cung ứng của sản phẩm.

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được tạo ra từ năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Sẽ không có NLCT của sản phẩm cao trong khi NLCT của bản thân doanh
nghiệp thấp. Điều này cho thấy mối quan hệ giữa NLCT DN ảnh hưởng cơ bản và lâu
dài đến NLCT sản phẩm [6].
1.1.7. Mối quan hệ năng lực cạnh tranh giữa các cấp độ
Khi nói đến năng lực cạnh tranh, các nhà nghiên cứu thường xem xét dưới các
cấp độ như: năng lực cạnh tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh của địa phương,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành, năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch
vụ. Giữa các cấp độ này đều có mối quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau rất mật thiết,
tạo điều kiện cho nhau hay chế định nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Năng lực cạnh tranh quốc gia hay của địa phương có thể tạo cơ hội thuận lợi mở
đường cho DN khai thác điểm mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngược lại, việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của DN sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính
bền vững của năng lực cạnh tranh quốc gia và địa phương.
Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia hay địa phương cao đòi hỏi
phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao. Tương tự, quan hệ giữa năng
lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng
vậy. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các
sản phẩm/dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
1.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của PCI
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay gọi tắt là PCI (Provinvial
Competitiveness Index) là chỉ số dùng để đo lường và xếp hạng công tác điều hành
kinh tế của các tỉnh đối với môi trường kinh doanh để thúc đẩy phát triển khu vực kinh
tế tư nhân thông qua cảm nhận của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. PCI được
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố chính thức từ năm
2005. Tuy nhiên, việc đánh giá và xếp hạng về PCI cho tất cả 64 tỉnh, thành phố trong
cả nước chỉ được tiến hành hàng năm từ năm 2006 [7,17].



11


Ý tưởng xây dựng chỉ số PCI bắt nguồn từ một nghiên cứu trước đây của Quỹ
châu Á và VCCI. Đó là nghiên cứu “Những thực tiễn tốt trong điều hành kinh tế cấp
tỉnh ở Việt Nam”, được thực hiện vào năm 2003 - 2004 tại 14 tỉnh của Việt Nam [16].
Nghiên cứu này tập trung vào quan hệ tương tác giữa các yếu tố điều hành kinh tế và
sự phát triển của tỉnh, thành đó. Kết quả của dự án nghiên cứu này đã trở thành cơ sở
khởi động một dự án nghiên cứu khác có quy mô lớn hơn, nghiên cứu về sự khác biệt
giữa các tỉnh, thành. Dự án nghiên cứu thứ hai do VNCI đảm nhận là dự án phát triển
kinh tế do Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh doanh tại Việt Nam
(PCI) là kết quả hợp tác nghiên cứu giữa VNCI và VCCI. Chỉ số PCI được xây dựng
nhằm mục đích lý giải nguyên nhân tại sao trong cùng một nước, một số tỉnh, thành có
sự phát triển năng động của khu vực tư nhân, tạo ra việc làm và tăng trưởng kinh tế…
tốt hơn các tỉnh, thành khác. PCI được tính toán dựa vào dữ liệu điều tra DN để tìm hiểu
đánh giá của các DN đối với môi trường kinh doanh ở tỉnh, thành; và các dữ liệu khác
thu thập được từ các nguồn chính thức về các địa phương [7,17].
Năm 2005, chỉ số PCI được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông
và thu hút được sự quan tâm từ cộng đồng các DN, các nhà tài trợ cũng như chính
quyền địa phương, đồng thời cũng ghi nhận nhiều đóng góp ý kiến từ các chuyên gia
kinh tế trong và ngoài nước. Theo Báo cáo chi tiết chỉ số PCI năm 2005 do VCCI công
bố, chỉ số PCI được cấu thành từ 9 chỉ số thành phần, bao gồm: Chi phí gia nhập thị
trường; Tiếp cận đất đai; Tính minh bạch và tiếp cận thông tin; Chi phí về thời gian để
thực hiện các quy định của Nhà nước; Chi phí không chính thức; Thực hiện chính sách
của Nhà nước; Ưu đãi đối với DNNN; Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo
tỉnh; Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân [8].
Đến năm 2006, đã có sự thay đổi trong các chỉ số cấu thành nên chỉ số tổng hợp
PCI. Chỉ số thực hiện chính sách của Nhà nước được thay thế bằng hai chỉ số mới là:
Đào tạo lao động và Thiết chế pháp lý, hình thành nên 10 chỉ số thành phần [9].

Nguyên nhân của sự thay đổi này:
 Đào tạo lao động: trong nhiều năm qua, các DN liên tục phàn nàn về năng
lực yếu kém của lực lượng lao động. Các DN gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và
tuyển dụng lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp. Chính vì
vậy, việc chính quyền địa phương tập trung vào việc nâng cao chất lượng lực lượng


12


lao động địa phương sẽ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với môi trường kinh doanh
trên địa bàn.
 Thiết chế pháp lý: việc phát triển pháp luật và giải quyết các tranh chấp
một cách chính quy luôn là một mắt xích quan trọng trong quá trình cải cách, chuyển
đổi ở Việt Nam. Tăng cường thể chế cho các cơ quan tư pháp và tòa án địa phương trở
nên cấp thiết hơn khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Ngoài ra, có rất ít DN thực sự
hiểu biết một cách thấu đáo về các trình tự, thủ tục pháp lý để có thể phân biệt rạch ròi,
chi tiết các thiết chế pháp lý khác nhau.
Đến năm 2009, khi quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
diễn ra một cách mạnh mẽ, ảnh hưởng của các DNNN không còn tác động mạnh đến
khu vực kinh tế tư nhân, nhóm nghiên cứu của VCCI đã bỏ chỉ số Ưu đãi đối với
DNNN và đổi tên chỉ số Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân thành Dịch vụ
hỗ trợ DN [12]. Thông qua việc đối thoại với các lãnh đạo tỉnh, doanh nghiệp, đại diện
các hiệp hội và các chuyên gia nghiên cứu cho thấy nên bổ sung chỉ số này vào các chỉ
số thành phần. Tất cả các chuyên gia đều đồng tình với quan điểm là các dịch vụ hỗ trợ
DN có vai trò then chốt để các DN thành công trong hoạt động kinh doanh. Tại thời
điểm này, những đơn vị cung cấp dịch vụ hỗ trợ tư nhân như: các công ty tư vấn, công
ty kế toán, tư vấn chiến lược, và các luật sư vẫn còn “xa lạ” đối với số đông các DN
Việt Nam và cũng chỉ tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Trong khi đó, các DN có nhu cầu sử dụng các dịch vụ hỗ trợ này nhưng lại thiếu

đi những nhà cung cấp dịch vụ mang tính chuyên nghiệp và đáng tin cậy.
Đến năm 2013, có thêm chỉ số thành phần cạnh tranh bình đẳng, thực chất là
phục hồi với cách tiếp cận mới chỉ số thành phần ưu đãi doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) đã thể hiện trong các đợt nghiên cứu đầu tiên và loại bỏ từ năm 2009. Chỉ số
cạnh tranh bình đẳng cũng xuất phát từ tồn tại trong thực tế sự cạnh tranh không bình
đẳng các các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh chung. Như có sự ưu ái cho
các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp lớn trong tỉnh, doanh nghiệp của ngành,
doanh nghiệp có mối quan hệ với các quan chức, lãnh đạo thường được ưu ái trong
tiếp cận nguồn lực, đấu thầu, mua sắm công tất cả điều này tạo nên sự cạnh tranh
không bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Chỉ số thành phần mới được bổ sung nhằm
phản ánh sát hơn tình hình môi trường kinh doanh thực tế tại Việt Nam. Các chuyên
gia đã bày tỏ lo ngại trong mấy năm gần đây về sự ưu đãi của chính quyền tỉnh đối với


13


DN FDI và DNNN lớn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực tư nhân. Việc mở
rộng phạm vi PCI dự kiến sẽ giúp thúc đẩy môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho
doanh nghiệp tư nhân trong nước – đối tượng đang trở thành đầu tàu kinh tế Việt
Nam. Cạnh tranh bình đẳng là một trong mười chỉ số thành phần cấu thành chỉ số PCI,
phản ánh đánh giá và yêu cầu của cộng đồng DN tư nhân trong nước về môi trường
kinh doanh bình đẳng. Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau nhưng đây có thể là tham
khảo cần thiết khi điều hành kinh tế tại địa phương. Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013,
Ðiều 51, điểm 2 ghi: "Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật".
Cho đến nay, VCCI đã công bố thường niên Báo cáo chi tiết chỉ số PCI (từ năm
2005 - 2013). Các Báo cáo này đã đóng góp một phần rất lớn trong việc cải thiện môi
trường kinh doanh tại các tỉnh, thành trên cả nước; giúp cho các chính quyền địa

phương nhận biết được đâu là điểm mạnh và điểm yếu của địa phương mình, từ đó đề
ra hướng giải quyết nhằm phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu, đưa kinh tế địa
phương phát triển [8-15].
1.2.2. Vai trò của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI
Kể từ khi công bố, PCI ngày càng được sử dụng như một công cụ quan trọng để
đo lường và đánh giá công tác quản lý, điều hành kinh tế của chính quyền 63 tỉnh,
thành phố ở Việt Nam dựa trên cảm nhận của khu vực kinh tế tư nhân. Những tỉnh có
công tác điều hành tốt hơn thì sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực sẵn có và đạt được
mức phúc lợi từ kinh tế cao hơn [7,17].
Trên thực tế, kết quả điều tra PCI đã được nhiều tổ chức và cá nhân đón nhận,
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn và đời sống:
- Ở góc độ chính quyền địa phương: PCI đã và đang được sử dụng để nhận diện
điểm mạnh, điểm yếu trong môi trường kinh doanh của địa phương mình, tìm hiểu và
học hỏi kinh nghiệm từ các địa phương tốt hơn, giám sát việc thực hiện công tác quán
lý điều hành của bộ máy hành chính, từ đó đưa ra chính sách phù hợp nhằm cải thiện
chất lượng điều hành kinh tế. PCI còn là thước đo để đánh giá, so sánh các nỗ lực và
tiến bộ của từng tỉnh so với các tỉnh, thành khác. Các nhà lãnh đạo cũng có thể sử
dụng dữ liệu PCI để đánh giá các thay đổi chính sách và đo lường trực tiếp tác động
các chính sách này.


14


Điều tra PCI cũng cung cấp các thông tin quan trọng về tác động của những sáng
kiến cải cách ở cấp trung ương và địa phương, trong đó có Đề án Đơn giản hóa thủ tục
hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước (Đề án 30) do Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo là nỗ lực cải cách thể chế mang tính đột phá tại Việt Nam giúp đẩy nhanh quá
trình đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chỉ số PCI cũng góp phần hỗ trợ quá trình phân cấp quản lý hiện nay bằng việc

cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách những thiếu sót trong quá trình
thực hiện chính sách từ cấp trung ương xuống cấp địa phương, qua đó giúp chính
quyền tỉnh nâng cao năng lực và hiệu quả thực hiện, và cung ứng các dịch vụ công tốt
hơn. Chẳng hạn như nhiều tỉnh đã cải thiện tính minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin
và văn bản pháp luật nhằm tuân thủ các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới và Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ.
- Ở góc độ doanh nghiệp: Vai trò điều hành kinh tế của chính quyền trở nên đặc
biệt quan trọng đối với những quyết định của DN. Trong điều tra PCI, DN sẽ bày tỏ
quan ngại về các triển vọng trong tương lai vì rất khó dự đoán các sự kiện kinh tế
khách quan nằm ngoài tầm kiểm soát của mình và thậm chí cả sự cập nhật những
quyết định chính sách đã được ban hành. Trong bối cảnh này, việc đảm bảo các chính
sách, quy định minh bạch và công bằng là hết sức cần thiết, giúp DN dự báo chính xác
hơn về triển vọng kinh doanh trong tương lai.
Chẳng hạn, khi được tiếp cận đầy đủ với thông tin về những thay đổi chính sách,
phát triển cơ sở hạ tầng, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, các DN sẽ dự báo tốt hơn về
triển vọng đầu tư của họ trong tương lai. DN cũng sẽ mạnh dạn đầu tư hơn nếu thấy
yên tâm về triển vọng kinh doanh dài hạn. Và ngược lại, khi DN lo lắng về những thay
đổi bất ngờ trong quy định, cơ sở hạ tầng, hay đất đai đồng thời doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn trong việc đổi mới công nghệ và mở rộng hoạt động do thiếu nhân sự thì
DN sẽ do dự trước các dự án quy mô lớn, và chỉ đầu tư cầm chừng để thăm dò thị trường.
- Đối với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế (gồm các tổ chức song và đa
phương): Các chỉ tiêu cụ thể trong kết quả PCI đã được sử dụng như là một cơ sở để
theo dõi và đánh giá các dự án phát triển kinh tế tại địa phương đặt dự án.
Dữ liệu điều tra PCI cũng được sử dụng trong nhiều nghiên cứu về tình hình
hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân, các nhân tố quyết định đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp


15



Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, chính sách công nghiệp, xóa đói giảm nghèo, kể
cả vai trò của Quốc hội trong hoạch định chính sách.
1.2.3. Các chỉ số thành phần và phương pháp đo lường chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI)
Có nhiều cách để phân loại các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư cấp
tỉnh, trong đó có cách phân loại theo nhóm yếu tố truyền thống (như điều kiện tự nhiên
- địa lý, xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng, quy mô thị trường…) và nhóm yếu tố nguồn
lực mềm bao gồm những khía cạnh quan trọng khác nhau của môi trường kinh doanh
cấp tỉnh, những khía cạnh này chịu tác động trực tiếp từ thái độ và hành động của
chính quyền cấp tỉnh.
Nhóm yếu tố truyền thống là những nhân tố căn bản, quan trọng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh nhưng rất khó hoặc thậm chí không đạt được trong thời gian ngắn.
Nhóm yếu tố nguồn lực mềm là nhân tố quyết định đến sự hấp dẫn đầu tư và phát triển
sản xuất kinh doanh của DN. Vì vậy, NLCT cấp tỉnh được xác định theo các tiêu chí
xác định khả năng của nguồn lực mềm và chỉ số PCI hiện nay được cấu thành từ hệ
thống bao gồm 10 chỉ số thành phần sau:
(1) Chi phí gia nhập thị trường
(2) Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất
(3) Tính minh bạch và tiếp cận thông tin
(4) Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
(5) Chi phí không chính thức
(6) Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
(7) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp
(8) Đào tạo lao động
(9) Thiết chế pháp lý
(10) Cạnh tranh bình đẳng (mới được bổ sung bắt đầu tư năm 2013)
1.2.3.1. Thành phần 1 - Chi phí gia nhập thị trường
Đây là chỉ số thành phần xác định về thời gian hoàn thành các thủ tục và giấy tờ
cần thiết để DN chính thức đi vào hoạt động. Chỉ số này nhằm đánh giá sự khác biệt

về chi phí gia nhập thị trường của các DN mới thành lập giữa các tỉnh với nhau. Được
đo lường bởi các chỉ tiêu cụ thể như sau:

×