Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp thuộc tổng công ty khoáng sản và thương mại hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.56 KB, 105 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập ngày càng sâu, rộng là một xu thế tất yếu của các nền kinh tế
Thế giới. Mọi quốc gia không thể phát triển mà nằm ngoài xu thế đó. Việt
Nam không là một ngoại lệ, nhận thức rõ tầm quan trọng của hội nhập ngay từ
khi đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ ngoại
giao với các nước trên Thế giới. Với nỗ lực không ngừng sau 11 năm đàm
phán chúng ta đã gia nhập được Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO), cánh
cửa nền kinh tế Thế giới mở rộng đưa Việt Nam hội nhập một cách nhanh
hơn. Đó là thời cơ tuy nhiên đi kèm với nó là những thách thức hết sức khó
khăn mà chúng ta phải đối mặt. Những thách thức đó không chỉ nằm ở tầm vĩ
mô mà ngay cả những doanh nghiệp, muốn tồn tại trong nền kinh tế này cũng
phải thay đổi cách nhìn nhận, tư duy, thay đổi những cách làm không còn phù
hợp với xu thế mới này nữa.
Hà Tĩnh, một tỉnh nghèo nhất trong các tỉnh nghèo trong cả nước, với
quy mô các doanh nghiệp không nhiều và hầu như là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Chỉ có một số rất ít những doanh nghiệp lớn nhưng hầu như là các doanh
nghiệp Nhà nước đang được cổ phần hóa. Tiêu biểu trong số những doanh
nghiệp lớn ấy là Tổng công ty khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh. Doanh
nghiệp đã có đóng góp rất lớn cho GDP của tỉnh nhà trong những năm qua
nhờ vào khai thác khoáng sản. Tuy nhiên nguồn tài nguyên thiên nhiên này
đang ngày càng cạn kiệt và doanh nghiệp đang phải từng bước chuyển đổi cơ
cấu kinh doanh thành nhiều ngành nghề kể cả thương mại và dịch vụ. Cùng
với sự chuyển đổi ngành nghề thì đơn vị cũng không ngừng hoàn thiện tổ
chức quản lý, hoàn thiện tổ chức công tác kế toán cho phù hợp. Hiện nay
doanh nghiệp đang từng bước cổ phần hóa. Do vậy thông tin kế toán ngày
càng quan trọng, bởi nó cung cấp một cách đầy đủ và kịp thời thông tin tình
2


hình tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm như khách hàng,
nhà đầu tư, ngân hàng,…
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán
trong các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà
Tĩnh” đang là một đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tế.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn hệ thống hóa và khái quát hóa những vấn đề lý
luận cơ bản về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp
Về thực tiễn, trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức
hạch toán kế toán tại Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh và các
đơn vị thành viên, luận văn sẽ nêu ra được những ưu điểm, tồn tại và các
nguyên nhân chủ yếu. Từ đó có đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ
chức hạch toán kế toán tại công ty nhằm phù hợp với nền kinh tế mở cửa và
hội nhập sâu rộng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tổ chức hạch toán kế toán trong
các doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tổ chức hạch toán kế toán tại Tổng
công ty Khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh va các doanh nghiệp thuộc Tổng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử kết hợp với các phương pháp cụ thể trong quá trình nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,… để phân tích các vấn đề lý luận và thực
tiễn của tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp.
5. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn được thể hiện chủ yếu ở các nội dung
sau:
3

- Phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hạch

toán kế toán trong các doanh nghiệp
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác tổ chức hạch toán kế toán tại
các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh,
nêu rõ những ưu điểm, tồn tại, tìm ra những nguyên nhân tồn tại để đề xuất
các giải pháp hoàn thiện.
- Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện cho các doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh cho phù hợp với điều kiện
của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hạch toán kế toán trong
các doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh
Chương 3: Định hướng và những giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán
kế toán trong các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty khoáng sản và thương
mại Hà Tĩnh
4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC
HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của tổ chức hạch toán kế toán trong các
doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tổ chức hạch toán kế toán
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào, hoạt động sản xuất luôn là cơ
sở tồn tại và phát triển của con người, và nhu cầu phải thực hiện chức năng
quản lý hoạt động sản xuất là một nhu cầu tất yếu. Xã hội càng phát triển thì
sự quan tâm đến hoạt động sản xuất của con người càng tăng và càng cần thiết
phải tăng cường quản lý hoạt động sản xuất. Để có được thông tin phục vụ
cho hoạt động quản lý kinh tế, cần thiết phải thực hiện hoạt động quan sát, đo

lường, tính toán và ghi chép các hoạt động đó, nghĩa là phải hạch toán các quá
trình kinh tế.
Mục đích của hạch toán là cung cấp thông tin phục vụ cho quản lý hoạt
động sản xuất, cho quản lý nền kinh tế. Các thông tin này có thể thu từ nhiều
nguồn khác nhau như hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê, tuy nhiên
hạch toán kế toán là một nguồn thông tin quan trọng.
Với chức năng thông tin và kiểm tra, kế toán đòi hỏi phải thiết kế một
hệ thống thu thập, xử lý, phân tích, tổng hợp số liệu của các quá trình kinh tế
diễn ra trong đơn vị kế toán nhằm cung cấp thông tin hữu ích phục vụ tốt nhất
cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, của Nhà nước và các đối tượng liên
quan. Đó chính là tổ chức hạch toán kế toán (HTKT).
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tổ chức HTKT, mỗi quan điểm
được xét trên một góc độ khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Xuất phát từ bản chất của HTKT là hệ thống
thông tin và kiểm tra về tài sản trong các doanh nghiệp, các tổ chức bằng hệ
thống phương pháp khoa học như chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản và
5

tổng hợp cân đối, một số nhà nghiên cứu cho rằng: Tổ chức HTKT là việc
thiết lập những mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của HTKT:
Chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản, tổng hợp – cân đối kế toán. Theo quan
điểm này, tổ chức hạch toán kế toán thực chất là việc tổ chức vận dụng các
phương pháp kế toán để liên kết các yếu tố cấu thành, các công việc của
HTKT.
Quan điểm thứ hai: Xuất phát từ nội dung công việc cụ thể và đối
tượng của HTKT là ghi chép, tính toán, xử lý, kiểm tra và cung cấp thông tin
về tình hình tài sản và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho công
tác quản lý kinh tế tài chính của đơn vị, quan điểm này cho rằng: Tổ chức
HTKT là việc thiết lập mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán (phương
pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá,

phương pháp tổng hợp cân đối kế toán) trong từng nội dung hạch toán cụ thể
và trong từng điều kiện cụ thể nhằm phản ánh chính xác, kịp thời tình hình tài
sản và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị. Quan điểm này thể hiện cụ
thể hơn về tổ chức HTKT, tuy nhiên lại chưa nêu rõ yếu tố con người là yếu
tố đảm nhiệm việc thực hiện các công việc và áp dụng các phương pháp
HTKT, đó chính là bộ máy kế toán trong mỗi đơn vị, một yếu tố không thể
thiếu được của hệ thống tổ chức HTKT.
Quan điểm thứ ba: Xuất phát từ nội dung và nhiệm vụ của kế toán là
thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về tình hình kinh tế tài chính của đơn vị,
quan điểm này cho rằng: Tổ chức HTKT phải giải quyết cả hai phương diện:
Tổ chức thực hiện các phương pháp kế toán, các nguyên tắc kế toán, các
phương tiện tính toán nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của khoa học kế
toán và tổ chức bộ máy kế toán nhằm liên kết các cán bộ, nhân viên kế toán ở
đơn vị để thực hiện công tác kế toán.
6

Nhìn chung các quan điểm trên đều đã thể hiện được những nội dung,
phương diện cơ bản của tổ chức HTKT trong mỗi đơn vị tuy nhiên vẫn chưa
đầy đủ. Từ những quan điểm trên có thể nêu lên khái niệm về tổ chức HTKT
như sau: Tổ chức HTKT là việc sắp xếp hợp lý các khối lượng công tác kế
toán và bộ máy nhân sự của kế toán theo một mô hình nào đó, trên cơ sở vận
dụng hệ thống phương pháp kế toán, các nguyên tắc kế toán, các căn cứ nhất
định và trong những điều kiện, đặc điểm cụ thể của đơn vị nhằm thực hiện
chức năng thông tin và kiểm tra của kế toán.
Như vậy từ khái niệm trên có thể thấy được nội dung cơ bản của tổ
chức HTKT là: Xác lập mô hình tổ chức HTKT; Tổ chức các khối lượng công
tác kế toán; Tổ chức bộ máy kế toán; Tổ chức kiểm tra kế toán.
1.1.2. Bản chất của tổ chức hạch toán kế toán
Hạch toán kế toán nghiên cứu tài sản trong mối quan hệ với nguồn hình
thành và quá trình vận động của tài sản trong các tổ chức và đơn vị. Nhờ đó

mà hạch toán kế toán thực hiện được sự giám đốc liên tục cả trước, trong và
sau quá trình sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn.
Để thực hiện chức năng phản ánh và giám đốc của mình, hạch toán kế
toán cũng sử dụng ba loại thước đo, trong đó thước đo tiền tệ được coi là chủ
yếu. Để nghiên cứu đối tượng của mình, hạch toán đã sử dụng hệ thống
phương pháp khoa học như chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá và tổng hợp -
cân đối kế toán.
Có thể khái quát bản chất của HTKT như sau:
- Thứ nhất, HTKT là một loại hạch toán, nghĩa là nó cũng thực hiện
chức năng phản ánh, quan sát, đo lường, ghi chép và giám đốc các quá trình
kinh tế, nhưng nó khác với các loại hạch toán là thực hiện chức năng hạch
toán toàn diện liên tục và tổng hợp.
7

- Thứ hai, HTKT nghiên cứu quá trình tái sản xuất trên góc độ cụ thể là
tài sản với tính hai mặt (giá trị tài sản và nguồn hình thành) và tính vận động
(tuần hoàn) trong các tổ chức, doanh nghiệp cụ thể. Trong điều kiện sản xuất
hàng hóa tài sản được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ vì vậy trong hạch toán
kế toán thước đo tiền tệ được sử dụng có tính bắt buộc.
- Thứ ba, Trên cơ sở của phép biện chứng về nhận thức hiện thực khách
quan và phù hợp với đối tượng độc lập của mình, HTKT xây dựng hệ thống
phương pháp khoa học riêng gồm các yếu tố: chứng từ kế toán, đối ứng tài
khoản, tính giá, tổng hợp – cân đối kế toán.
- Thứ tư, Vị trí, nội dung và phương pháp hạch toán quyết định hai
chức năng của phân hệ HTKT riêng trong hệ thống quản lý là thông tin và
kiểm tra về tài sản trong các tổ chức, doanh nghiệp.
1.1.3. Ý nghĩa của tổ chức hạch toán kế toán
Từ những phân tích trên đây có thể thấy HTKT là một công cụ quan
trọng không thể thiếu được trong hệ thống quản lý kinh tế nhằm quản lý, điều
hành, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế tài chính ở mỗi đơn vị cũng

như trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện được điều đó
thì đòi hỏi HTKT phải được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với
đặc điểm, điều kiện của từng doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt như hiện nay với các quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng phức
tạp thì thông tin phục vụ cho quản lý ngày càng phải kịp thời và chính xác.
Do vậy, việc tổ chức HTKT một các khoa học, hợp lý càng trở nên cần thiết:
- Tổ chức HTKT tốt sẽ đảm bảo cung cấp thông tin về hoạt động kinh
tế tài chính của đơn vị một cách có hệ thống, kịp thời, chính xác cho các nhà
quản lý, các chủ đầu tư, cổ đông, khách hàng,… giúp họ đưa ra các quyết
định kinh doanh có hiệu quả nhất.
8

- Bố trí con người để thực hiện các khối lượng công tác kế toán là một
nội dung của tổ chức HTKT. Vì vậy, tổ chức HTKT khoa học, hợp lý còn
giúp cho đơn vị có được bộ máy kế toán gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, góp
phần tinh giản bộ máy quản lý của đơn vị, nâng cao hiệu suất lao động của kế
toán và hiệu lực của bộ máy quản lý.
- Tổ chức HTKT khoa học, hợp lý phù hợp với đặc điểm của đơn vị
trên cơ sở những quy định, chế độ chung của Nhà nước về quản lý tài chính sẽ
tạo ra sự thống nhất trong quản lý, cung cấp thông tin tin cậy cho công tác
quản lý vĩ mô, giúp cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, soạn
thảo luật lệ thích hợp.
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rõ ý nghĩa của việc tổ chức
HTKT và tính tất yếu phải tổ chức HTKT một cách khoa học, hợp lý. Thông
tin của HTKT phải có độ tin cậy cao, mô tả được thực trạng hoạt động kinh tế
tài chính của doanh nghiệp, là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong hệ
thống thông tin kinh tế của doanh nghiệp, có ý nghĩa to lớn cả tầm vi mô và vĩ
mô.
1.2. Yêu cầu và nguyên tắc của tổ chức hạch toán kế toán
1.2.1. Yêu cầu của tổ chức hạch toán kế toán

Tổ chức HTKT là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật để tạo ra
bộ máy kế toán hoạt động có hiệu quả. HTKT được coi là hoạt động sản xuất
ra các thông tin có ích cho người sử dụng với nguyên liệu đầu vào là các
thông tin chưa qua chế biến. Cũng như mọi quá trình sản xuất khác, tổ chức
HTKT đòi hỏi phải đạt được các yêu cầu cơ bản sau:
- Tổ chức HTKT phải đảm bảo yêu cầu bộ máy kế toán gọn nhẹ, hoạt
động có hiệu quả. Đây là điều kiện cần thiết để giúp cho bộ máy kế toán thực
hiện tốt nhiệm vụ với chi phí thấp nhất. Tổ chức bộ máy gọn nhẹ sẽ giúp cho
doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, giảm bớt các bộ phận hoặc thao tác
9

trung gian tạo điều kiện để bộ phận kế toán cung cấp thông tin nhanh, kịp
thời.
- Tổ chức HTKT phải đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin kịp
thời và phù hợp cho quản lý. Mục đích chính của hệ thống kế toán là cung cấp
thông tin hữu ích cho quản lý vì vậy tổ chức HTKT phải quan tâm thực hiện
tốt yêu cầu này. Các thông tin kế toán phải được cung cấp phù hợp theo từng
đối tượng sử dụng đồng thời cần phải đảm bảo về mặt thời gian.
- Tổ chức HTKT góp phần kiểm tra, bảo vệ tài sản của đơn vị tránh
được các hiện tượng tham ô, lãng phí làm thất thoát tài sản. Cùng với chức
năng thông tin, chức năng kiểm tra, giám sát của kế toán cần được chú trọng
trong tổ chức HTKT nhằm tránh được các hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến
tài sản, lợi ích của doanh nghiệp.
1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức hạch toán kế toán
Các nguyên tắc kế toán là những tuyên bố chung như là sự hướng dẫn
để phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính đạt được các mục tiêu: dễ hiểu,
đáng tin cậy và dễ so sánh. Do các nguyên tắc kế toán tiến triển trong môi
trường kinh doanh không ngừng thay đổi, cho nên không thể có một danh
mục đầy đủ những nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung, chúng ta chỉ xét
đến những nguyên tắc chính đang chi phối các quá trình kế toán:

- Nguyên tắc thực thể kinh doanh (đơn vị kế toán)
Mục đích của kế toán là ghi nhận lại quá trình kinh doanh và báo cáo
định kỳ về tình hình tài chính và lợi nhuận của từng doanh nghiệp riêng biệt.
Nên số liệu ghi chép và báo cáo của mỗi doanh nghiệp không được bao gồm
bất kỳ quá trình kinh doanh hoặc tài sản của doanh nghiệp khác, hoặc tài sản
cá nhân hay quá trình kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp, để các yếu tố
này không làm sai lệch các thông tin về tình hình tài chính và lợi nhuận của
doanh nghiệp.
10

Do đó trong lĩnh vực kế toán, đơn vị kế toán được hiểu là một tổ chức
độc lập kể cả đối với chủ sở hữu và tổ chức này thực hiện một quy trình kế
toán khép kín từ khâu lập chứng từ đến khâu ghi sổ và lập báo cáo tài chính.
- Nguyên tắc hoạt động liên tục
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán giả
định hoạt động này là liên tục. Là một doanh nghiệp hoạt động liên tục nên tài
sản được dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không được bán.
Do đó tài sản của doanh nghiệp không ghi nhận theo giá thị trường thay đổi vì
chúng thật sự không thích hợp và không cần thiết. Hơn nữa, không có việc
mua bán xảy ra thì giá trị thị trường thường không thể được xác lập một cách
khách quan như yêu cầu của nguyên tắc khách quan.
- Nguyên tắc thước đo tiền tệ
Là đơn vị đồng nhất trong việc tính toán và ghi chép các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh, kế toán chỉ phản ánh nhưng gì có thể biểu hiện bằng tiền.
Nguyên tắc tiền tệ có nghĩa là tiền được sử dụng như một đơn vị đo lường cơ
bản trong các báo cáo tài chính.
- Nguyên tắc khách quan
Thông tin báo cáo tài chính cần phải ghi nhận một cách thực tế khách
quan. Hay nói cách khác kế toán chỉ được phép phản ánh những nghiệp vụ
kinh tế có thực (đã xảy ra), có tính kiểm tra được.

- Nguyên tắc kỳ kế toán
Mục đích của kế toán là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính và
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, để phục vụ cho việc ra các quyết định
của ban lãnh đạo doanh nghiệp và của các nhà đầu tư, do đó yêu cầu doanh
nghiệp cung cấp báo cáo tài chính định kỳ, ít nhất là hàng năm. Điều đó có
nghĩa là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xem như tiến hành
trong từng khoảng thời gian nhất định như: tháng, quý, năm (mặc dù trong
11

thực tế quá trình kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trong nhiều năm). Do
đó báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập cho mỗi kỳ kế toán.
- Nguyên tắc giá phí
Theo nguyên tắc này, việc tính toán tài sản, công nợ, vốn, doanh thu,
chi phí phải dựa trên giá trị thực tế (giá gốc) mà không quan tâm đến giá trị
thị trường. Khi vận dụng nguyên tắc giá gốc thì giá trị tài sản hay dịch vụ mua
được đánh giá trên cơ sở tiền mặt hoặc tương đương tiền mặt mà doanh
nghiệp phải trả để trao đổi lấy tài sản hoặc dịch vụ mua. Nếu doanh nghiệp
dùng tiền mặt để chi trả, thì giá trị tài sản hay dịch vụ đó được đánh giá theo
số tiền mặt chi ra. Nếu doanh nghiệp dùng tài sản khác để trao đổi lấy tài sản
hoặc dịch vụ cần mua thì giá trị tài sản hay dịch vụ đó được đánh giá theo giá
trị tiền mặt tương đương số tiền đã định sẵn hoặc theo giá trị tiền mặt tương
đương của tài sản hoặc dịch vụ nhận được.
- Nguyên tắc nhất quán
Để báo cáo tài chính có thể thực hiện được mục đích là cung cấp các
thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của
một doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử
dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế, thì việc trình bày và phân loại
các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang
niên độ khác.
Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng các phương pháp

kế toán giống nhau từ kỳ này sang kỳ khác nhằm mục đích đảm bảo tính so
sánh của các thông tin trên báo cáo tài chính của các kỳ liên tiếp nhau.
- Nguyên tắc phù hợp
Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi
nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có
liên quan đến việc tạo ra khoản doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh
12

thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi
phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
- Nguyên tắc trọng yếu
Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin
hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài
chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài
chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc
các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin
phải được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.
1.3. Nội dung cơ bản của tổ chức hạch toán kế toán
Khi nói đến tổ chức hạch toán kế toán phải đứng trên cả hai phương
diện kế toán tài chính và kế toán quản trị. Hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu
chỉ quan tâm tới kế toán tài chính chứ không quan tâm tới kế toán quản trị
nhiều, có chăng chỉ là các doanh nghiệp lớn. Trong khi đó kế toán quản trị là
việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo
yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán.
Đây là bộ phận kế toán rất quan trọng đối với bản thân các doanh nghiệp.
Nội dung của tổ chức hạch toán kế toán chính là tổ chức bộ máy kế
toán, tổ chức hệ thống chứng từ kế toán, tổ chức hệ thống tài khoản kế toán,
tổ chức hệ thống sổ kế toán, tổ chức hệ thống báo cáo kế toán và tổ chức hệ
thống kiểm tra kế toán.
1.3.1. Tổ chức bộ máy kế toán

Tổ chức bộ máy kế toán là nội dung rất quan trọng của tổ chức hạch
toán kế toán. Bộ máy kế toán trong doanh nghiệp cần được hiểu như một tập
hợp cán bộ, nhân viên kế toán cùng các phương tiện kỹ thuật ghi chép, tính
toán, thông tin được trang bị để thực hiện toàn bộ công tác kế toán từ khâu thu
nhận, kiểm tra, xử lý đến khâu tổng hợp, phân tích và cung cấp những thông
13

tin kinh tế về các hoạt động của doanh nghiệp, phục vụ công tác quản lý.
Trong bộ máy kế toán của doanh nghiệp có bộ máy kế toán tài chính và bộ
máy kế toán quản trị. Việc tổ chức bộ máy kế toán trong các doanh nghiệp
được thực hiện theo những mô hình khác nhau, phù hợp với điều kiện của
từng doanh nghiệp.
1.3.1.1. Tổ chức bộ máy kế toán tài chính doanh nghiệp
Từ lý luận cũng như thực tiễn tổ chức bộ máy kế toán có thể khái quát
thành ba mô hình tổ chức bộ máy kế toán tài chính, đó là: Tập trung, phân tán
và bộ máy kế toán hỗn hợp.
a. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung
Tổ chức bộ máy kế toán tập trung hay còn gọi là tổ chức kế toán một
cấp. Theo hình thức này, đơn vị kế toán độc lập chỉ mở một bộ sổ kế toán, tổ
chức một bộ máy kế toán để thực hiện tất cả các giai đoạn hạch toán ở mọi
phần hành kế toán. Các đơn vị kế toán trực thuộc không có tổ chức kế toán
riêng, không mở sổ sách và hình thành bộ máy nhân sự kế toán riêng, chỉ có
nhân viên làm nhiệm vụ hạch toán ban đầu, thu thập, kiểm tra và định kỳ gửi
các chứng từ về phòng kế toán doanh nghiệp.
Điều kiện áp dụng: Mô hình kế toán tập trung tồn tại trong các đơn vị
thống nhất độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ hoặc trong các doanh nghiệp
lớn có tổ chức các đơn vị thành viên độc lập hoàn toàn, không có sự phân tán
quyền lực quản lý hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động tài chính.
Ưu điểm của mô hình này là đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất
thuận lợi cho việc phân công công tác kế toán, trang bị máy móc, kỹ thuật

hiện đại.
Tuy nhiên mô hình này không thích hợp với những doanh nghiệp hoạt
động trên địa bàn phân tán, trình độ trang bị, sử dụng phương tiện kỹ thuật
chưa cao, bởi vì sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm tra của kế toán trưởng và
14

lãnh đạo doanh nghiệp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh ở đơn vị trực
thuộc.

b. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán
Theo mô hình tổ chức kế toán phân tán, bộ máy kế toán được phân
thành nhiều cấp: Kế toán trung tâm và kế toán trực thuộc. Kế toán trung tâm
và kế toán trực thuộc đều có sổ sách kế toán và bộ máy nhân sự tương ứng để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của kế toán phân cấp.
Kế toán đơn vị trực thuộc phải mở sổ kế toán, thực hiện toàn bộ khối
lượng công tác kế toán phần hành từ giai đoạn hạch toán ban đầu tới giai đoạn
lập báo cáo kế toán lên kế toán trung tâm theo sự phân cấp quy định. Kế toán
trung tâm là nơi thực hiện khâu tổng hợp số liệu báo cáo của cơ sở, lập báo
cáo tài chính cho các cơ quan tổ chức quản lý, chịu trách nhiệm cuối cùng về
toàn bộ hoạt động của đơn vị trực thuộc trước nhà nước, các bạn hàng, nhà
cung cấp,…
Kế toán đơn vị
cấp trên
Bộ phận tài chính
và tổng hợp tại
trung tâm
Các nhân
viên kế toán
ph
ần t

ài s
ản

Các phần hành
kế toán hoạt
động trung tâm
Nhân viên hạch toán ban
đầu, báo sổ từ đơn vị
tr
ực thuộc

Sơ đồ 1.1. Tổ chức bộ máy theo mô hình kế toán tập trung
15


Điều kiện áp dụng: Mô hình này phù hợp với những doanh nghiệp có
quy mô kinh doanh lớn, cơ cấu kinh doanh phức tạp và địa bàn hoạt động
rộng, phân tán. Trong những điều kiện kinh doanh như vậy, các doanh nghiệp
thường phải phân cấp kinh doanh, phân cấp trong quản lý điều hành do vậy
buộc phải phân cấp trong tổ chức kế toán.
Ưu điểm của mô hình này là tạo điều kiện cho việc kiểm tra, chỉ đạo
hoạt động sản xuất kinh doanh về công tác kế toán ở các đơn vị trực thuộc
Kế toán trưởng đơn vị
c
ấp tr
ên

Bộ phận kế
toán vật tư,
TSCĐ

Bộ phận tài
chính
Bộ phận kế toán
hoạt động thực hiện
ở đơn vị cấp trên
Bộ phận kế
toán tổng
hợp
Bộ phận kiểm
tra kế toán
Kế toán trưởng đơn vị
trực thuộc
Bộ phận kế
toán vật tư,
TSCĐ
Bộ phận kế
toán thanh
toán

Kế toán trưởng đơn vị
trực thuộc
Bộ phận kế
toán thanh
toán
Bộ phận kế
toán tiền
lương
Bộ phận kế
toán…
Bộ phận kế

toán tiền
lương
Bộ phận
kế toán…
Sơ đồ 1.2. Tổ chức bộ máy theo mô hình kế toán phân tán
16

được nhanh nhạy, kịp thời. Đồng thời, phát huy được chức năng, vai trò của
kế toán ở đơn vị trực thuộc.
Mô hình này có nhược điểm là việc tổng hợp số liệu, cung cấp thông
tin, lập báo cáo toàn doanh nghiệp thường bị chậm, không tập trung trong
khâu chỉ đạo kiểm tra nghiệp vụ của kế toán trưởng, bộ máy kế toán cồng
kềnh, không thuận tiện cho việc cơ giới hóa công tác kế toán.
c. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán hỗn hợp
Trong thực tế kinh doanh, có khá nhiều doanh nghiệp tồn tại cả những
điều kiện của mô hình kế toán tập trung và mô hình kế toán phân tán. Vì thế
mô hình tổ chức bộ máy kế toán trong trường hợp này là bộ máy kế toán hỗn
hợp hay nói cách khác là sự kết hợp đặc biệt của cả mô hình kế toán tập trung
và mô hình kế toán phân tán.
Phòng kế toán ở các đơn vị trực thuộc lớn, phân tán tùy theo tình hình
thực tế để có thể cấu thành các bộ phận phù hợp (kế toán vật tư, tài sản cố
định,…) để thực hiện việc ghi chép kế toán khá hoàn chỉnh các hoạt động của
đơn vị mình theo sự phân cấp quản lý của phòng kế toán trung tâm. Còn
phòng kế toán trung tâm thực hiện tổng hợp tài liệu từ phòng kế toán đơn vị
trực thuộc gửi lên, tiến hành các hoạt động kế toán chung của toàn doanh
nghiệp rồi tổng hợp lập báo cáo, cung cấp thông tin về toàn bộ hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều kiện áp dụng: Mô hình này phù hợp với các doanh nghiệp có quy
mô lớn, hoạt động trên địa bàn vừa tập trung vừa phân tán.
Ưu điểm của mô hình này là khắc phục được những hạn chế của hai

hình thức tập trung và phân tán, tạo điều kiện tăng cường công tác kế toán ở
các đơn vị trực thuộc lớn cũng như toàn bộ doanh nghiệp phù hợp với việc
phân công kế toán và phân cấp quản lý tài chính. Tuy nhiên nhược điểm của
hình thức này là bộ máy cồng kềnh.
17




1.3.1.2. Tổ chức bộ máy kế toán quản trị doanh nghiệp
Việc tổ chức bộ máy kế toán quản trị của doanh nghiệp phải phù hợp
với đặc điểm hoạt động, quy mô đầu tư và địa bàn tổ chức sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, với mức độ phân cấp quản lý kinh tế - tài chính của
doanh nghiệp. Bộ máy kế toán phải gọn nhẹ, khoa học, hợp lý và hiệu quả cao
trong việc cung cấp thông tin cho bộ máy lãnh đạo của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp căn cứ vào các điều kiện cụ thể của mình (Quy mô;
Trình độ cán bộ; Đặc điểm sản xuất, kinh doanh, quản lý, phương tiện kỹ
thuật ) để tổ chức bộ máy kế toán quản trị theo một trong các hình thức sau:
a. Hình thức kết hợp
Tổ chức kết hợp giữa kế toán tài chính với kế toán quản trị theo từng
phần hành kế toán: Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành, kế toán bán
hàng,… Kế toán viên theo dõi phần hành kế toán nào thì sẽ thực hiện cả kế
Kế toán trưởng đơn vị cấp trên
Kế toán các
hoạt động
cấp trên
Kế toán các đơn
vị trực thuộc
hạch toán tập
trung


Bộ phận tổng
hợp báo cáo
từ đơn vị trực
thu
ộc

Bộ phận
kiểm tra kế
toán
Đơn vị trực thuộc
Nhân viên hạch
toán ban đầu tại
đơn vị trực thuộc
Đơn vị kế toán
phân tán tại đơn vị

tr
ực thuộc

Sơ đồ 1.3. Tổ chức bộ máy theo mô hình kế toán hỗn hợp
18

toán tài chính và kế toán quản trị phần hành đó. Ngoài ra, doanh nghiệp phải
bố trí người thực hiện các nội dung kế toán quản trị chung khác, như: Thu
thập, phân tích các thông tin phục vụ việc lập dự toán và phân tích thông tin
phục vụ cho việc ra quyết định trong quản trị doanh nghiệp. Các nội dung
công việc này có thể bố trí cho kế toán tổng hợp hoặc do kế toán trưởng đảm
nhiệm.
b. Hình thức tách biệt

Hình thức tách biệt là tổ chức thành một bộ phận kế toán quản trị riêng
biệt với bộ phận kế toán tài chính trong phòng kế toán của doanh nghiệp.
Hình thức này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô lớn, như: Tổng
công ty, tập đoàn kinh tế,
c. Hình thức hỗn hợp
Đây là hình thức kết hợp hai hình thức nêu trên như: Tổ chức bộ phận
kế toán quản trị chi phí giá thành riêng, còn các nội dung khác thì theo hình
thức kết hợp.
1.3.2. Tổ chức công tác kế toán
1.3.2.1. Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán
Tại Điều 4 Chương I Luật Kế toán, giải thích: Chứng từ kế toán là
những giấy tờ và vật mang tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh
và đã hoàn thành, làm căn cứ ghi sổ kế toán.
Chứng từ được làm căn cứ ghi sổ kế toán là chứng từ đã được kiểm tra và xác
minh tính pháp lý của chúng.
Tổ chức chứng từ kế toán là tổ chức việc ban hành, ghi chép, luân
chuyển và lưu trữ tất cả các loại chứng từ kế toán sử dụng trong đơn vị nhằm
đảm bảo tính chính xác của thông tin, kiểm tra thông tin đó phục vụ cho việc
ghi sổ kế toán và tổng hợp kế toán.
a. Phân loại chứng từ kế toán
19

- Căn cứ vào tính chất pháp lý:
+ Hệ thống chứng từ kế toán bắt buộc là các chứng từ kế toán phản ánh các
hoạt động kinh tế tài chính có mối quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân hoặc
có yêu cầu quản lý chặt chẽ mang tính phổ biến rộng rãi.
+ Hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn là chứng từ kế toán phản ánh các hoạt
động kinh tế tài chính có mối quan hệ kinh tế nội bộ đơn vị, có tính chất riêng
biệt, không phổ biến. Chứng từ kế toán hướng dẫn được nhà nước hướng dẫn
các yếu tố đặc trưng, các ngành, các thành phần kinh tế, các đơn vị có thể

thêm bớt các chỉ tiêu, linh hoạt áp dụng cho phù hợp yêu cầu quản lý của
ngành, của đơn vị nhưng phải đảm bảo tính pháp lý cần thiết của chứng từ kế
toán.
- Căn cứ vào nội dung kinh tế của nghiệp vụ có các loại chứng từ kế toán sau:
+ Chứng từ lao động, tiền lương
+ Chứng từ hàng tồn kho
+ Chứng từ bán hàng
+ Chứng từ tiền tệ
+ Chứng từ tài sản cố định
- Căn cứ vào trình tự lập chứng từ:
+ Chứng từ gốc: Là chứng từ kế toán phản ánh trực tiếp hoạt động kinh tế tài
chính xảy ra, sao chụp lại nguyên vẹn hoạt động kinh tế tài chính đó, do đó
chứng từ gốc là cơ sở ghi chép, tính toán số liệu, tài liệu ghi sổ kế toán, thông
tin kinh tế và kiểm tra, quản lý các hoạt động kinh tế tài chính.
+ Chứng từ kế toán tổng hợp là chứng từ kế toán được dùng để tổng hợp tài
liệu từ các chứng từ gốc cùng loại, phục vụ việc ghi sổ kế toán được thuận lợi.
Thuộc chứng từ tổng hợp có chứng từ ghi sổ, bảng tổng hợp chứng từ ghi sổ,
bảng tổng hợp chứng từ gốc. Chứng từ ghi sổ phải kèm theo các chứng từ gốc
mới có giá trị sử dụng trong ghi sổ kế toán, thông tin kinh tế, quản lý.
20

b. Vai trò của chứng từ kế toán
- Về phương diện quản lý: Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được thể hiện
trên chứng từ. Do đó chứng từ kế toán là phương tiện thông tin nhanh cho
công tác lãnh đạo nghiệp vụ ở đơn vị hạch toán và phân tích kinh tế từ đó có
thể đưa ra được những quyết định quản lý phù hợp.
- Về phương diện kế toán, chứng từ là cơ sở để phân loại, tổng hợp các nghiệp
vụ kinh tế cho việc ghi sổ kế toán theo dõi từng đối tượng hạch toán cụ thể.
- Về mặt pháp lý, chứng từ là căn cứ xác định trách nhiệm vật chất của các cá
nhân và đơn vị liên quan đến nghiệp vụ kinh tế đồng thời là căn cứ để giải

quyết các mối quan hệ kinh tế - pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán.
c. Lập chứng từ kế toán
Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán chỉ lập 1 lần
cho một nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Nội dung chứng từ kế toán
phải đầy đủ các chỉ tiêu, phải rõ ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh
tế, tài chính phát sinh. Chữ viết trên chứng từ phải rõ ràng, không tẩy xoá,
không viết tắt. Số tiền viết bằng chữ phải khớp, đúng với số tiền viết bằng số.
Chứng từ kế toán phải được lập đủ số liên theo quy định cho mỗi chứng
từ. Đối với chứng từ lập nhiều liên phải được lập một lần cho tất cả các liên
theo cùng một nội dung bằng máy tính, máy chữ hoặc viết lồng bằng giấy
than. Trường hợp đặc biệt phải lập nhiều liên nhưng không thể viết một lần tất
cả các liên chứng từ thì có thể viết hai lần nhưng phải đảm bảo thống nhất nội
dung và tính pháp lý của tất cả các liên chứng từ.
Các chứng từ kế toán được lập bằng máy vi tính phải đảm bảo nội dung
quy định cho chứng từ kế toán.
Ngoài ra doanh nghiệp có thể cụ thể hoá và bổ sung các nội dung cần thiết
vào từng mẫu chứng từ kế toán đã được quy định để phục vụ cho việc thu
21

thập thông tin quản trị nội bộ doanh nghiệp.
Sử dụng các chứng từ ban đầu, chứng từ thống kê trong điều hành sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (Lệnh sản xuất; Bảng kê khối lượng;
Quyết định điều động lao động; Quyết định điều động (di chuyển) tài sản;
Biên bản điều tra tình hình sản xuất,…) để kế toán quản trị khối lượng sản
phẩm (công việc), thời gian lao động, lập kế hoạch.
Doanh nghiệp được thiết kế và sử dụng các chứng từ nội bộ dùng cho
kế toán quản trị mà không có quy định của Nhà nước (Bảng tính phân bổ chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp,…)
d. Trình tự luân chuyển và kiểm tra chứng từ kế toán

Tất cả các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập hoặc từ bên ngoài
chuyển đến đều phải tập trung vào bộ phận kế toán doanh nghiệp. Bộ phận kế
toán kiểm tra những chứng từ kế toán đó và chỉ sau khi kiểm tra xác minh tính
pháp lý của chứng từ thì mới dùng những chứng từ đó để ghi sổ kế toán.
Trình tự luân chuyển chứng từ kế toán bao gồm các bước sau:
- Lập, tiếp nhận, xử lý chứng từ kế toán;
- Kế toán viên, kế toán trưởng kiểm tra và ký chứng từ kế toán hoặc
trình Giám đốc doanh nghiệp ký duyệt;
- Phân loại, sắp xếp chứng từ kế toán, định khoản và ghi sổ kế toán;
- Lưu trữ, bảo quản chứng từ kế toán.
Trình tự kiểm tra chứng từ kế toán:
- Kiểm tra tính rõ ràng, trung thực, đầy đủ của các chỉ tiêu, các yếu tố
ghi chép trên chứng từ kế toán;
- Kiểm tra tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã
ghi trên chứng từ kế toán, đối chiếu chứng từ kế toán với các tài liệu khác có
liên quan;
- Kiểm tra tính chính xác của số liệu, thông tin trên chứng từ kế toán.
22

Để có kế hoạch luân chuyển chứng từ hợp lý và khoa học cần phải dựa vào
đặc điểm yêu cầu quản lý cụ thể từng loại tài sản đã được ghi nhận trên chứng
từ.
Danh mục hệ thống chứng từ theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC (xem phụ
lục 1.1)
1.3.2.2. Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán
Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán là việc xác định loại tài
khoản, số lượng tài khoản tổng hợp, tài khoản chi tiết phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng doanh nghiệp căn cứ vào hệ thống tài khoản thống nhất do Bộ
tài chính ban hành; qua đó hình thành hệ thống tài khoản riêng cho từng
doanh nghiệp.

a. Vai trò của hệ thống tài khoản kế toán
Tài khoản là hình thức biểu hiện của phương pháp đối ứng tài khoản.
Phương pháp đối ứng tài khoản có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý kinh
tế, tài chính, cũng như trong công tác kế toán, cụ thể là:
- Nhờ có phương pháp tài khoản, kế toán có thể hệ thống hóa được
thông tin về tài sản, nguồn vốn và các hoạt động kinh tế tài chính ở các đơn vị
phục vụ cho lãnh đạo và quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước, của ngành
và của đơn vị.
- Nhờ có phương pháp tài khoản kế toán có thể hệ thống hóa thông tin
cụ thể, chi tiết về tình hình tài sản, nguồn vốn và sự vận động của chúng ở
từng đơn vị phục vụ cho yêu cầu quản trị kinh doanh, yêu cầu phân cấp quản
lý kinh tế trong đơn vị, cũng như yêu cầu quản lý tài sản ở đơn vị.
- Nhờ có phương pháp tài khoản kế toán có thể hệ thống hóa được hệ
thống số liệu theo các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để lập các báo cáo kế toán
định kỳ.
23

Tài khoản kế toán được sử dụng để theo dõi và phản ánh tình hình và
sự biến động của từng loại tài sản, nguồn vốn trong doanh nghiệp. Bởi vậy để
cung cấp đầy đủ thông tin cho quản lý, các doanh nghiệp phải dùng rất nhiều
tài khoản khác nhau mới đảm bảo phản ánh được toàn bộ các chỉ tiêu cần
thiết.
b. Nguyên tắc tổ chức hệ thống tài khoản
Khi tổ chức hệ thống tài khoản kế toán ở doanh nghiệp phải tuân thủ
theo các nguyên tắc sau:
- Hệ thống tài khoản kế toán ở doanh nghiệp phải bao quát đầy đủ các
hoạt động kinh tế tài chính phát sinh ở các bộ phận trong doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp không mở thêm tài khoản kế toán cấp 1 ngoài hệ thống
tài khoản kế toán thống nhất mà Nhà nước ban hành.
- Hệ thống tài khoản phải được xây dựng đơn giản, dễ làm.

- Nội dung, kết cấu, phạm vi hạch toán trên các tài khoản phải được
quy định phù hợp với đặc điểm của ngành.
- Hệ thống tài khoản phải được đáp ứng yêu cầu xử lý thông tin bằng
máy vi tính.
c. Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản
Hệ thống tài khoản thống nhất được sử dụng cho các doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay được ban hành theo quyết định 1141 – TC/QĐ/CĐ KT ngày
1/1/1995 của Bộ tài chính sửa đổi bổ sung theo quyết định số 15/2006/QĐ –
BTC đối với các doanh nghiệp.
Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp bao gồm các tài khoản cấp 1, tài
khoản cấp 2, tài khoản trong Bảng cân đối kế toán và tài khoản ngoài Bảng
cân đối kế toán.
Các doanh nghiệp căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán quy định trong
chế độ kế toán doanh nghiệp, tiến hành nghiên cứu, vận dụng và chi tiết hóa
24

hệ thống tài khoản kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, yêu
cầu quản lý của từng ngành nghề và từng đơn vị nhưng phải phù hợp với nội
dung, kết cấu và phương pháp hạch toán của tài khoản tổng hợp tương ứng.
Trường hợp các doanh nghiệp cần bổ sung tài khoản cấp 1, cấp 2 hoặc
sửa đổi tài khoản cấp 1, cấp 2 về tên, ký hiệu, nội dung và phương pháp hạch
toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đặc thù phải được sự chấp thuận bằng
văn bản của Bộ Tài chính trước khi thực hiện.
Các doanh nghiệp có thể mở thêm tài khoản cấp 2 và tài khoản cấp 3
đối với những tài khoản không có quy định tài khoản cấp 2, tài khoản cấp 3
tại danh mục Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp đã được quy định
trong Quyết định 15/2006/QĐ – BTC nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của
doanh nghiệp mà không phải đề nghị Bộ Tài chính chấp thuận.
Với những yêu cầu và trên cơ sở hệ thống tài khoản hiện hành các
doanh nghiệp có thể đi sâu nghiên cứu, lựa chọn những tài khoản phù hợp và

để tự đơn vị mở tài khoản chi tiết.
1.3.2.3. Tổ chức hệ thống sổ kế toán
Tổ chức hệ thống sổ kế toán là thiết lập cho doanh nghiệp một bộ sổ kế
toán tổng hợp và chi tiết có chủng loại, số lượng và hình thức kết cấu theo
một hình thức kế toán nhất định và phù hợp với những đặc thù của doanh
nghiệp.
Sổ kế toán là những tờ sổ được xây dựng theo mẫu nhất định, có liên hệ
chặt chẽ với nhau được sử dụng để ghi chép, hệ thống hóa thông tin về các
hoạt động kinh tế, tài chính trên cơ sở số liệu của các chứng từ kế toán theo
đúng phương pháp kế toán nhằm cung cấp thông tin có hệ thống phục vụ công
tác lãnh đạo và quản lý các hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị.
a. Nguyên tắc tổ chức sổ kế toán
25

Doanh nghiệp phải thực hiện các quy định về sổ kế toán trong Luật kế
toán, Nghị định số 129/2004/NĐ – CP ngày 31/5/2005 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán trong lĩnh
vực kinh doanh và Quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/3/2006 của Bộ
tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán doanh nghiệp.
- Sổ kế toán là những tờ rời được xây dựng theo mẫu nhất định có liên
hệ chặt chẽ với nhau được sử dụng để ghi chép, hệ thống hóa thông tin về các
hoạt động kinh tế tài chính trên cơ sở số liệu chứng từ kế toán nhằm cung cấp
thông tin phục vụ công tác lãnh đạo và quản lý các hoạt động kinh tế tài chính
trong doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp phải căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán, các chế
độ, thể lệ kế toán của Nhà nước và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp để mở
sổ kế toán. Mỗi doanh nghiệp chỉ được mở một hệ thống sổ kế toán chính
thức theo một trong các hình thức tổ chức sổ kế toán quy định.
- Ngoài ra doanh nghiệp căn cứ vào hệ thống sổ kế toán do Bộ Tài
chính ban hành hoặc được Bộ Tài chính chấp thuận áp dụng cho doanh

nghiệp để bổ sung các chỉ tiêu, yêu cầu cụ thể phục vụ cho kế toán quản trị
trong doanh nghiệp. Việc bổ sung hoặc thiết kế các nội dung của sổ kế toán
không được làm sai lệch nội dung các chỉ tiêu đã quy định trên sổ kế toán và
cần phù hợp với yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể thiết kế các sổ kế toán mới phù hợp với yêu cầu
quản lý chi phí, doanh thu và xác định kết quả kinh doanh theo bộ phận, mặt
hàng, công việc và các yêu cầu khác của kế toán quản trị (Phiếu tính giá thành
sản phẩm; Báo cáo sản xuất; Sổ chi tiết bán hàng theo khách hàng, )
- Trường hợp sử dụng chương trình phần mềm kế toán:
+ Hệ thống sổ kế toán nếu xử lý và ghi chép bằng chương trình phần
mềm kế toán phải đảm bảo nguyên tắc ghi chép theo một hình thức kế toán đã

×