Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

tiểu luận môn luật kinh tế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.81 KB, 40 trang )

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


1
NỘI DUNG CHI TIẾT

1. TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH 2
1.1. Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh 2
1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 3
2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH THÔNG QUA TÒA ÁN 7
2.1. Sơ lược về hệ thống tòa án Việt Nam với chức năng giải quyết tranh chấp kinh doanh 7
2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại tòa án 8
2.3. Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh 12
2.3.1. Thẩm quyền theo nội dung tranh chấp (theo vụ, việc) 12
2.3.2. Thẩm quyền theo cấp tòa án 13
2.3.3. Thẩm quyền tòa án theo lãnh thổ 15
2.3.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn 15
2.4. Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng: 17
2.4.1. Cơ quan tiến hành tố tụng: 17
2.4.2. Người tham gia tố tụng: 17
2.4.3. Người tiến hành tố tụng 18
2.5. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp kinh doanh tại tòa án 19
2.5.1. Thủ tục xét sơ thẩm 19
2.5.2. Thủ tục xét Phúc thẩm 27
2.5.3. Thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật 30
2.6. Vấn đề thi hành các bản án, quyết định của Tòa án 34
3. TÌNH HUỐNG 36
4. TRÒ CHƠI Ô CHỮ 39

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án



2
1. TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH

1.1. Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh

Về mặt học thuật, tranh chấp kinh tế và tranh chấp trong kinh doanh là những khái
niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau, mặc dù chúng đều được hiểu là sự bất đồng chính
kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia
vào các quan hệ kinh tế.
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song nhiều nhà khoa học đã thống nhất cho rằng,
tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi
ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ
khác nhau.
Từ cách tiếp cận khác, tranh chấp trong kinh doanh còn được hiểu là sự bất đồng
về một hiện tượng pháp lý phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh
doanh và thông thường gắn liền với các yếu tố, lợi ích về mặt tài sản. Do đó, có thể khái
quát những đặc điểm tranh chấp trong kinh doanh như sau:
- Nó luôn gắn liền với những hoạt động kinh doanh của các chủ thể;
- Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp;
- Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về mặt lợi ích
kinh tế của các bên.
Điều cần nhấn mạnh là, hình thức tồn tại của các tranh chấp trong kinh doanh tự
thân nó là yếu tố phản ảnh những đặc trưng của các quan hệ kinh tế trong các cơ chế kinh
tế tùy ứng.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các tranh chấp trong kinh doanh chủ yếu tồn
tài dưới dạng các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, phản ánh tính đơn điệu của các lợi ích
cần được bảo vệ trong môi trường kinh tế này. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế thị
trường, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế kéo theo sự đa dạng về đối tượng chủ
thể và lợi ích cần được bảo vệ, sự xuất hiện của các phương thức kinh doanh, thị trường

và các yếu tố sản xuất phi truyền thống làm phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới như:
tranh chấp giữa thành viên công ty và công ty, tranh chấp giữa các thành viên với nhau
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


3
trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty; tranh chấp mua bán các loại cổ
phiếu, trái phiếu; tranh chấp về liên doanh, liên kết kinh tế; tranh chấp trong các lĩnh vực
quảng cáo, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, giám định,…; tranh chấp liên quan đến hối phiếu
và séc, tranh chấp liên quan đến việc bảo hộ các bí mật thương mại… Có thể nói, sự thay
đổi về nội dung và hình thức các tranh chấp trong kinh doanh trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế mới đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.

1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì vậy giải
quyết các tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh tế. Theo
hiểu biết chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là việc lựa chọn các phương thức,
biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên,
tạo lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện hiện nay cần phải đáp ứng
các yêu cầu sau:
- Nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh.
- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh.
- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
- Kinh tế nhất (ít tốn kém).
Sự tác động của những đặc điểm riêng biệt về phong tục, tập quán, truyền thống,
trình độ phát triển kinh tế-xã hội, đã làm cho các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh của các quốc gia rất khác nhau. Mặc dù vậy, căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh của

pháp luật đối với các hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, cho tới thời
điểm hiện tại, các phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên
thế giới bao gồm:
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


4
 Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết trong kinh doanh không cần đến vai trò
của người thứ 3. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan
điểm, chính kiến, bàn bạc, tìm kiếm các biện pháp thích hợp, và đi đến thống nhất thỏa
thuận để tự giải quyết các bất đồng.
Với những ưu điểm riêng (đơn giản, không bị ràng buộc bởi thủ tục pháp lý phiền
phức, ít tốn kém hơn và nói chung là không làm phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có
giữa các bên trong kinh doanh cũng như giữ được bí quyết kinh doanh,…), phương thức
này từ lâu đã được giới thương nhân trên thế giới sử dụng và khá ưa chuộng. Tuy nhiên,
trong điều kiện của các quốc gia chuyển đổi như Việt Nam, khi mà các doanh nghiệp nhà
nước còn chiếm một tỉ trọng còn khá cao trong cơ cấu kinh tế thì thương lượng cũng bộc
lộ một số yếu điểm nhất định: dễ phát sinh hiện tượng tiêu cực giữa các doanh nghiệp
Nhà nước thông qua việc các hoạt động trái nguyên tắc quản lí tài chính của Nhà nước;
thường bị các bên lợi dụng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ do giá trị pháp lý của
kết quả thương lượng không được xác định rõ ràng.
 Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp mà trong đó các bên trong quá trình
thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ
định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích
hợp cho việc giải quyết xung đột nhằm chấm dứt các tranh chấp, bất hòa.
Thực chất, phương thức trung gian hòa giải thường thích hợp cho việc giải quyết
các tranh chấp mà ở đó ngoài yếu tố thiện chí của các bên, còn có các vấn đề đòi hỏi
chuyên môn, mà tự các bên khó có thể xem xét đánh giá chính xác, khách quan được. Ở

nhiều quốc gia, hòa giải được xem xét là hình thức giải quyết tranh chấp quan trọng và
đây cũng là cơ sở cho việc ra đời của nhiều trung tâm hòa giải quốc tế. Ở Việt Nam, do
thiếu các quy định, hướng dẫn cụ thể, cũng như các điều kiện chuyên môn, do thói quen
trong thương mại và vì vậy dường như trung gian hòa giải còn mang nặng tính lý tưởng,
chưa được phổ biến.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


5
 Giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án.
 Giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại.
Đây là hai phương thức được sử dụng phổ biến tại Việt Nam hiện nay. Mỗi
phương thức chứa đựng những thế mạnh và hạn chế riêng, do đó việc đi sâu tìm hiểu sẽ
cho chúng ta nhìn nhận được góc nhìn của các nhà lập pháp Việt Nam cũng như sự quan
tâm, của các doanh nghiệp (chủ thể tranh chấp) đối với hai phương thức này.
 Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa “Giải quyết tranh chấp thông qua
Tòa án” và “Giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại”
Giống nhau: Đều là các tổ chức xét xử các tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ
kinh tế nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị hại.
Khác nhau:
Các tiêu chí so sánh
Trọng tài thương mại
Tòa án
1. Cách thức tổ chức
Là cơ quan trung gian – tổ
chức phi chính phủ, một tổ
chức mang tính chất xã hội
– nghề nghiệp.
Là cơ quan tư pháp của Nhà
nước.

2. Cơ sở pháp lý để
giải quyết
Các quy tắc hoặc công ước
quốc tế được các nước thừa
nhận hoặc các tập quán
thương mại quốc tế, luật các
nước.
Thường dùng luật quốc gia và
công ước quốc tế mà quốc gia ấy
đã ký kết.
3. Thẩm quyền theo
vụ việc
Thẩm quyền của trọng tài có
thể thay đổi hoặc thu hẹp tùy
theo từng trung tâm trọng
tài.
Giải quyết hầu hết tất cả các tranh
chấp trong kinh doanh.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


6
4. Thẩm quyền theo
lãnh thổ
Không đặt ra vấn đề thẩm
quyền về mặt lãnh thổ.
Chỉ giải quyết vụ án khi đơn kiện
được chuyển đến tòa án có thẩm
quyền.
5. Cách thức giải

quyết tranh chấp
Bảo vệ quyền lợi của bên bị
hại trên cơ sở pháp lý cố
gắng với hòa giải nhân
nhượng.
Dựa vào pháp luật giải quyết.

Giải quyết tranh chấp nhân
danh ý chí của các bên,
không nhân danh quyền lực
tự pháp của nhà nước.
Khả năng tác động của các bên rất
hạn chế, đôi lúc nó không thể hiện
được hết nguyện vọng của các
bên tranh chấp.
Xét xử kín
Xét xử công khai
6. Giá trị phán quyết
khi xét xử
Xử một lần mang tính chung
thẩm (chỉ một cấp xét xử)
Xử qua các bước sơ thẩm, phúc
thẩm, chung thẩm (Qua nhiều cấp
xét xử)
7. Thời gian phán
quyết khi xét xử
Hạn chế tốn kém thời gian
Mất nhiều thời gian
8. Chi phí
Cao

Thấp
9. Thủ tục xét xử
Đơn giản
Phức tạp
10. Phán quyết
Phụ thuộc vào ý thức tự
nguyện của các bên
Được đảm bảo thi hành bằng sức
mạnh cưỡng chế của Nhà nước
11. Áp dụng
Phù hợp để giải quyết các
tranh chấp có nhân tố nước
ngoài
Phù hợp để giải quyết các tranh
chấp của doanh nghiệp Việt Nam



Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


7
2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH THÔNG QUA
TÒA ÁN
2.1. Sơ lược về hệ thống tòa án Việt Nam với chức năng giải quyết tranh chấp kinh
doanh
Hệ thống toà án nhân dân ở nước ta được tổ chức theo địa giới hành chính, lãnh
thổ. Cụ thể, toà án được tổ chức thành 3 cấp:
- Toà án nhân dân cấp huyện: Tổ chức toàn án nhân dân cấp huyện gồm có: Chánh
án, một hoặc hai Phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký toà án. Toà án

nhân dân cấp huyện không tổ chức thành các toà chuyên trách.
- Toà án nhân dân cấp tỉnh: Gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thư Ký toà án. Trong cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân cấp tỉnh có Uỷ
ban Thẩm phán (gồm Chánh án, các Phó Chánh án Toà án cấp tỉnh, một số Thẩm phán
Toà án cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh
án Toà án cấp tỉnh; tổng số không quá 9 người); Các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà
dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính). Trong mỗi toà chuyên trách có Chánh
toà, Phó chánh toà, Thẩm phán, Thư ký toà án; Bộ máy giúp việc.
- Toà án nhân dân tối cao: Gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán và
Thư ký toà án. Trong cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao có Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao (gồm Chánh án, các Phó Chánh án và một số thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao; tổng không quá 17 người); các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà dân
sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm). Trong mỗi Toà
chuyên trách và Toà phúc thẩm đều có các Chánh toà, các Phó Chánh toà, Thẩm phán,
Thư ký Toà án; Bộ máy giúp việc.
Toà kinh tế ở Việt Nam không phải là một hệ thống Toà án riêng biệt mà là một
toà chuyên trách nằm trong hệ thống Toà án nhân dân tối cao và Toà án nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong kinh
doanh. Trước đây, theo quy định tại Pháp lệnh về giải quyết các vụ tranh chấp kinh tế
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


8
(1994), hầu hết các vụ tranh chấp kinh tế đều thuộc quyền xét xử của toà án nhân dân cấp
tỉnh. Những vụ việc tranh chấp có giá trị nhỏ (dưới 50 triệu đồng) và không có nhân tố
nước ngoài thuộc thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp huyện. Theo bộ luật Tố tụng
dân sự được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, toà án nhân dân cấp huyện được tăng
thêm thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại giữa các cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Việc mở
rộng thẩm quyền và tăng cường đội ngũ thẩm phán toà án cấp huyện về số lượng và chất

lượng giúp công tác xét xử đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới, đặc biệt là các yêu cầu
trong kinh doanh.
2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại tòa án
Các nguyên tắc cơ bản của thủ tục giải quyết vụ án kinh tế nói riêng và vụ án dân
sự nói chung là tư tưởng chỉ đạo hoạt động giải quyết vụ án dân sự nói chung và được ghi
nhận trong văn bản quy phạm pháp luật. BLTTDS 2004 đã dành chương 2 quy định
những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng dân sự, trong đó nêu lên những nguyên
tắc chung quy định hoạt động của Tòa án như: nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN;
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử; nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét
xử; nguyên tắc xét xử tập thể; nguyên tắc xét công khai;… Ngoài ra, còn có những
nguyên tắc riêng, đặc thù của tố tụng dân sự nói chung:
 Nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương sự:
(Theo Điều 5 BLTTDS 2004)
Quan hệ dân sự nói chung, quan hệ kinh doanh, thương mại nói riêng là những
quan hệ được hình thành trên cơ sở tự do xác lập, tự chịu trách nhiệm của các bên. Do đó,
khi giải quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền tự quyết định của các bên. Đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường, nguyên tắc này rất quan trọng góp phần bảo đảm quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể kinh doanh.
Theo nguyên tắc này, các bên tranh chấp hoàn toàn có quyền tự do lựa chọn
phương thức giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài. Khi tranh chấp xảy ra, đương sự có
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


9
quyền tự quyết định việc khởi kiện, quyết định về phạm vi, mức độ yêu cầu tòa án giải
quyết; có quyền thay đổi nội dung yêu cầu, tự hòa giải với nhau hoặc rút đơn kiện.
Đây chính là một trong những điểm sáng của nguyên tắc tố tụng dân sự để đảm
bảo quyền tự quyết của các bên và nguyên tắc này hoàn toàn không có giá trị trong luật tố
tụng hình sự. Bởi vì, theo Điều 13 BLTTHS 2003 quy định về trách nhiệm khởi tố và xử
lý vụ án hình sự, khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm hoặc tự mình phát hiện ra tội

phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và sử dụng các biện pháp hợp pháp do pháp luật quy
định để xác minh tội phạm và xử lý người phạm tội. Điều này có nghĩa là, đối với tố tụng
hình sự, tòa án hoàn toàn ở thế chủ động, chỉ cần nhận được tin báo, tố giác về tội phạm
hay tự bản thân phát hiện ra thì cơ quan tiến hành tố tụng lập tức có trách nhiệm khởi kiện
vụ án ngay cả khi không nhận được đơn tố cáo của các bên. Còn đối với hình thức giải
quyết tranh chấp bằng tòa án, các bên đương sự có quyền tự quyết định khởi kiện và mức
độ yêu cầu tòa án giải quyết; lúc này, tòa án hoàn toàn ở thế bị động, nếu như các bên
đương sự không có đơn khởi kiện thì tòa án không có trách nhiệm phải tiến hành giải
quyết vụ án.
 Nguyên tắc hòa giải:
(Theo Điều 10 BLTTDS 2004)
Khi thụ lý vụ việc, Tòa án có quyền và nghĩa vụ tiến hành hòa giải và tạo điều kiện
thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Hòa giải
được xem là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng tòa án. Khi hòa giải không thành, Tòa án
mới đưa vụ án ra xét xử.
Đây là một nguyên tắc đặc biệt có trong luật tố tụng dân sự mà không có trong luật
tố tụng hình sự, theo đó Tòa án sẽ tạo điều kiện cho các bên tiến hành hòa giải, thỏa thuận
để thông cảm và hiểu nhau hơn, từ đó có thể giữ vững mối quan hệ hợp tác lâu dài.
 Nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh:
(Theo Điều 6 BLTTDS 2004)
Theo nguyên tắc này, khi giải quyết vụ tranh chấp kinh tế, Tòa án căn cứ vào các
chứng cứ mà đương sự đưa ra. Các bên đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


10
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, khi phản đối yêu
cầu của người khác đối với mình thì cũng phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
Tuy nhiên, đối với luật tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về

người tiến hành tố tụng, trong đó có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10, BLTTHS 2003).
Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu của Tòa án có trách nhiệm
cung cấp những chứng cứ đang lưu trữ, quản lý. (Điều 7, Bộ luật Tố tụng dân sự)
 Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
(Theo Điều 8 BLTTDS 2004)
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một trong những quyền cơ bản của công dân
đã được ghi nhận trong Điều 52 Hiến pháp 1992 và Điều 8 BLTTDS 2004: “Các đương
sự đều có quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.
Theo nguyên tắc này, khi tham gia tố tụng kinh tế, các đương sự đều bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện các hành vi tố tụng, không phân biệt các bên thuộc
thành phần kinh tế nào. Các chủ thể đều có quyền ngang nhau trong việc đưa ra yêu cầu
và phản đối yêu cầu của bên kia; đều có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ nhằm bảo vệ
lợi ích của mình; có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong quan hệ tố
tụng,…
Nguyên tắc này giống với Điều 5 của BLTTHS 2003 quy định về việc bảo đảm
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hôi, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều xử lý
theo pháp luật. Song, luật tố tụng hình sự còn có một nguyên tắc khác làm tôn chỉ đỏ
trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân đó là: "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" (Điều 9, BLTTHS 2003).
 Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự:
(Theo Điều 9 BLTTDS 2004)
Theo nguyên tắc này, các bên đương sự có quyền tự mình hoặc nhờ luật sự hay
người khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


11

của mình. Nguyên tắc này cũng bao gồm cả việc đương sự có quyền yêu cầu tòa án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo vệ các quyền hợp pháp của mình.
Trong BLTTHD 2003, nguyên tắc này cũng thể hiện rõ ở Điều 11 quy định về việc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời không được quy định ở Luật tố tụng Hình sự.
Có thể khái quát bằng bảng so sánh sự khác nhau giữa các nguyên tắc của Luật tố
tụng Dân sự và Luật tố tụng Hình sự bằng bảng sau:
Nguyên tắc
Luật Tố tụng dân sự 2004
Luật Tố tụng hình sự 2003
Quyền tự định đoạt
của đương sự
- Có quyền tự do lựa chọn
phương thức giải quyết.
- Có quyền tự quyết định việc
khởi kiện, quyết định về phạm
vi, mức độ yêu cầu tòa án giải
quyết.
- Không có giá trị.
- Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm khởi tố vụ án.
Hòa giải
Thủ tục bắt buộc trước khi Tòa
án xét xử.
Không có nguyên tắc hòa giải.
Nghĩa vụ chứng
minh
Đương sự

Người tiến hành tố tụng, trong
đó có Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân.
Bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự


Bảo đảm quyền bảo
vệ của đương sự

Kể cả việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời

Không quy định về việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời




Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


12
2.3. Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh
(Theo Điểu 29 và 30, BLTTDS 2004)
2.3.1. Thẩm quyền theo nội dung tranh chấp (theo vụ, việc)
Hoạt động kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường diễn ra đa dạng,
phong phú từ đó phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên là điều khó tránh

khỏi. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi bị xâm phạm là nghĩa vụ
của Nhà nước, và thẩm quyền này được giao cho Toà án.
Quyền khởi kiện vụ án hay yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình là một trong các quyền cơ bản của cá nhân; tổ chức được pháp luật ghi nhận (Theo
Điều 4 BLTTDS 2004). Và thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại của
toà án được quy định tại điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS), bao gồm:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh của cá nhân, tổ chức có đăng kí
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, bao gồm: Cung ứng dịch vụ; Phân
phối; Đại diện, đại lý; Kí gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tư vấn, Kỹ thuật;
Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa; Vận
chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu,
trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai
thác. (Theo khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004)
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa các cá nhân, tổ
chức với nhau nhau và đều có mục đích lợi nhuận. (Theo khoản 2 Điều 29 BLTTDS
2004)
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. (Theo khoản 3 Điều 29 BLTTDS
2004)
- Các tranh chấp khác về kinh doanh mà pháp luật có quy định. (Khoản 4 Điều 29
BLTTDS 2004)
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


13
Ngoài những thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên, toà án cũng có thẩm quyền
giải quyết những yêu cầu khác về kinh doanh như: yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài
Thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng
tài Thương mại; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh

doanh, thương mại của Toà án nước ngoài; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài (Theo Điều 30
BLTTDS 2004)

2.3.2. Thẩm quyền theo cấp tòa án
Khi phát sinh tranh chấp, các bên tranh chấp phải xác định Toà án cấp nào có
quyền giải quyết lần đầu để yêu cầu giải quyết. Theo điều 33, 34 BLTTDS 2004, thẩm
quyền của các cấp toàn án được phân định như sau:
- Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các
tranh chấp phát sinh về kinh doanh phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa; Cung ứng
dịch vụ; Phân phối; Đại diện; đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tư
vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy
nội địa. (Theo điều 33 BLTTDS 2004 – Điểm b, Khoản 1, Điều 33 luật sửa đổi bổ
sung 2011)
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh
chấp kinh doanh còn lại (trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện). Đó là các tranh chấp liên quan đến hoạt động vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ
có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; tranh chấp giữa công ty với các thành viên
của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến những vấn đề của
công ty; tranh chấp lao động tập thể; các việc liên quan đến trọng tài thương mại Việt
Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


14
Việt Nam và các yêu cầu về lao động mà pháp luật có quy định. (Theo khoản 1 Điều 34
BLTTDS 2004)
- Đối với các vụ việc dân sự có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy

thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, tòa án nước ngoài.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án
nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định của tòa án nước ngoài; yêu cầu
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài nước ngoài.
Nhưng theo điểm b khoản 1 Điều 33 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng dân sự, theo số 65/2011/QH12, tranh chấp về kinh doanh, thương
mại quy định tại khoản 1 Điều 29 của BLTTDS đều thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện. Và theo khoản 3 Điều 33 của Bộ luật này,
những tranh chấp trên có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư
pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho
Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Trong một số trường hợp cần thiết, Toà án nhân dân cấp tỉnh còn có thẩm quyền sơ
thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện mà tòa án
nhân dân cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Thông thường, tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy các
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện lên để giải quyết trong những
trường hợp việc vận dụng pháp luật, chính sách có nhiều khó khăn, phức tạp; việc điều tra
thu thập chứng cứ có nhiều khó khăn hoặc phải giám định kỹ thuật phức tạp; đương sự là
cán bộ chủ chốt ở địa phương, những người có uy tín trong tôn giáo mà xét thấy việc xét
xử ở tòa án nhân dân cấp huyện không có lợi về chính trị hoặc vụ việc có liên quan đến
thẩm phán, phó chánh án, chánh án tòa án nhân dân cấp huyện. Theo yêu cầu của đương
sự, tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng có thể lấy những vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án
nhân dân cấp huyện lên để xét xử nếu thấy có lý do chính đáng. (Theo khoản 2 Điều 34
BLTTDS 2004)
Ngoài ra, theo pháp luật tố tụng dân sự, các tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa
án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh do chánh án tòa án nhân dân cấp tỉnh giải
quyết.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


15

Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn có thẩm quyền phúc thẩm những vụ tranh chấp kinh
tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh
có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án kinh tế mà bản án đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị.

2.3.3. Thẩm quyền tòa án theo lãnh thổ
(Theo Điều 35 BLTTDS 2004)
Theo BLTTDS 2004, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tranh chấp về kinh
doanh, thương mại là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc nơi bị đơn có trụ sở ( nếu bị
đơn là tổ chức). Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về
bất động sản.
Ngoài ra, BLTTDS 2004 còn cho phép đương sự có quyền thỏa thuận với nhau
bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn hoặc trụ sở của nguyên
đơn giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Đây là điểm mới của BLTTDS
2004 mà trước đó, các văn bản pháp luật Việt Nam chưa có quy định. Trước khi BLTTDS
2004 có hiệu lực, pháp luật của Việt Nam không cho phép các đương sự có quyền thỏa
thuận điều này. Thẩm quyền của Tòa án đã được phân định theo những tiêu chí nhất định
mà các đương sự không được quyền thỏa thuận chọn Tòa án, chỉ có nguyên đơn mới có
quyền chọn Tòa án trong những trường hợp được pháp luật quy định. Chính vì vậy, quy
định mới này (đương sự được thỏa thuận chọn) là xuất pháp từ quan điểm tôn trọng tối đa
quyền định đoạt của các đương sự và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên trong quá
trình giải quyết tranh chấp.

2.3.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
(Theo khoản 1 Điều 36 BLTTDS 2004 và luật sửa đổi bổ sung 2011)
Để thuận lợi cho nguyên đơn trong việc giải quyết tranh chấp cũng như xác định
thẩm quyền của Tòa án cụ thể, pháp luật dành cho nguyên đơn được quyền chọn Tòa án
để giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại khi xảy ra một trong các trường hợp sau
đây:

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


16
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu
cầu tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải
quyết; (Điểm a khoản 1 Điều 36 BLTTDS 2004)
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể
yêu cầu tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết; (Điểm b
khoản 1 Điều 36 BLTTDS 2004)
- Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể
yếu cầu toàn án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết. (Điểm c khoản 1 Điều 36 BLTTDS
2004)
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa
án nơi hợp đồng được thức hiện giải quyết. (Điểm d khoản 1 Điều 36 BLTTDS 2004)
- Nếu các vị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có
thể yêu cầu tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết. (Điểm h
khoản 1 Điều 36 BLTTDS 2004)
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều đia phương khác nhau thì
nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết. (Điểm i
khoản 1 Điều 36 BLTTDS 2004)
 Tình huống:
Công ty CP Phúc Sinh được thành lập vào năm 2001 tại Hải Phòng và được Cục
Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu chữ Phúc Sinh.
Đến cuối năm 2008, công ty ký hơp đồng làm việc với 1 công ty khác và phát hiện
Công ty CP Thương mại xuất nhập khẩu nông sản Phúc Sinh tại Đồng Nai này có ngành
nghề đăng ký kinh doanh trùng nhiều lĩnh vực với công ty. Ngoài ra, phần tên riêng Phúc
Sinh trong tên thương mại Công ty CP Thương mại xuất nhập khẩu nông sản Phúc
Sinh cũng được xem là không có khả năng phân biệt vì trùng với nhãn hiệu của Công ty
CP Phúc Sinh đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại này ra đời.

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


17
Sau khi phát hiện ra sự việc, nguyên đơn đã có thư thông báo tới bị đơn đề nghị
không tiếp tục sử dụng tên thương mại này vì gây nhầm lẫn nhưng yêu cầu này không
được chấp thuận nên nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện ra Tòa án.Vào thời điểm này,
Giám đốc công ty CP Thương mại xuất nhập khẩu nông sản Phúc Sinh đang công tác, làm
việc tại nước ngoài.
Vậy tòa án nào sẽ giải vụ việc trên và sẽ giải quyết theo bộ luật gì?
Giải quyết:
 Theo nội dung tranh chấp: Tình huống này thuộc việc tranh chấp về quyền sở
hữa trí tuệ giữa các doanh nghiệp với nhau nên thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Với nội dung tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, các doanh nghiệp sẽ được xử lí theo
Bộ luật tố tụng dân sự và Luật sở hữu trí tuệ
 Theo cấp tòa án: Vì đây là tranh chấp có đương sự ở nước ngoài nên tình huống
này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
 Theo lãnh thổ : Tòa án sẽ là nơi bị đơn cư trú , có trụ sở làm việc là Đồng Nai.
Tuy nhiên theo luật mới thì đương sự có quyền thỏa thuận với nhau bằng văn bản
yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn hoặc trụ sở của nguyên đơn giải
quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại .
 Theo sự lựa chọn của nguyên đơn: Nếu như có 1 trong các trường hợp đặc biệt
theo khoản 1 điều 36 bộ luật tố tụng dân sự thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải
quyết, có thể là nơi đặt trụ sở của bị đơn ( Đồng Nai) hay nơi có trụ sở của nguyên đơn
(Hải Phòng) hoặc nơi mà 2 công ty ký hợp đồng làm việc.

2.4. Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng:
2.4.1. Cơ quan tiến hành tố tụng:
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. (Theo khoản 1, Điều 39)
2.4.2. Người tham gia tố tụng:

Người tham gia tố tụng được gọi chung là đương sự.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


18
Theo Điều 56 BLTTDS, đương sự có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao
gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nguyên đơn là
người khởi kiện vụ án;
- Bị đơn chính là người bị nguyên đơn khởi kiện khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị người đó xâm phạm;
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan là người không khởi kiện cũng không bị
kiện nhưng việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ nên được
quyền tham gia.
Ngoài ra, tham gia tố tụng còn có: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự (thường là Luật sư), người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,
người đại diện.
2.4.3. Người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư kí tòa án; Viện trưởng viện kiểm sát và Kiểm sát viên (Khoản 2, Điều 39, BLTTDS
2004). Nhiệm vụ chính của người tiến hành tố tụng như sau:
- Chánh Tòa án là người tổ chức công tác giải quyết vụ việc dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án (Khoản 1a, Điều 40).
- Thẩm phán là người tiến hành lập hồ sơ vụ án, tiến hành hòa giải, quyết định đưa
vụ án ra xét xử và triệu tập những người tham gia phiên tòa. (Theo Điều 41)
- Hội thẩm nhân dân là người nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa. (Theo
Điều 42)
- Thư kí tòa án là người chuẩn bị các công tác nghiệp vụ trước khi khai mạc phiên
tòa, phổ biến nội quy phiên tòa, báo cáo danh sách những người được triệu tâp đến phiên
tòa, ghi biên bản phiên tòa. (Theo Điều 43)
- Viện trưởng viện kiểm sát là người tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự. (Theo Điều 44)
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


19
- Kiểm sát viên là người trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng dân sự. (Theo Điều 45)


2.5. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp kinh doanh tại Tòa án
Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, thủ tục giải quyết tranh chấp về kinh doanh
bao gồm 3 loại: thủ tục xét xử sơ thẩm, thủ tục xét xử phúc thẩm, thủ tục xét lại bản án đã
có hiệu lực pháp luật.
2.5.1. Thủ tục xét sơ thẩm
 Khởi kiện và thụ lý vụ án
(Theo điều 161 BLTTDS 2004) Các cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người
khởi kiện) tham gia quan hệ kinh doanh có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
(Theo khoản 1 Điều 159 BLTTDS và luật sửa đổi bổ sung 2011) Người khởi
kiện, trong thời hiệu khởi kiện theo luật định, phải làm đơn khởi kiện (kèm theo các điều
kiện, chứng cứ có liên quan) gởi đến tòa án có thẩm quyền. Thời hiệu khởi kiện là thời
hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết để bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình khi bị chủ thể khác xâm phạm. Quá thời hạn đó, nguyên đơn sẽ
mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thời hiệu khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại: Tranh chấp kinh doanh - thương
mại phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật
chuyên ngành điều chỉnh. Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát sinh trong
các lĩnh vực này, cũng có thể được văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, nếu
không được văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định tại Điều 319

Luật thương mại 2005 về thời hiệu khởi kiện, theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


20
trong hoạt động thương mại là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm,
trừ trường hợp được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại.
(Theo khoản 1 điều 167 BLTTDS 2004) Sau khi nhận đơn khởi kiện, tòa án
nghiên cứu đơn và những tài liệu có liên quan do nguyên đơn cung cấp. Nếu xét thấy vụ
việc thuộc thẩm quyền, tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án. (Theo điều 171 BLTTDS 2004)
Tòa án thông báo cho người khởi kiện yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án thụ lý vụ
án kể từ khi người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời hạn (trừ những trường
hợp được miễn theo quy định).
(Theo điều 172 BLTTDS 2004) Sau khi thụ lý vụ án, tòa án phân công một Thẩm
phán trực tiếp giải quyết vụ án; (Điều 174 BLTTDS 2004) đồng thời thông báo bằng văn
bản (về việc đã thụ lý) cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan và cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
(Theo điều 175 BLTTDS 2004) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
thông báo, người được thông báo (bị đơn) phải nộp cho tòa án bản ý kiến của mình đối
với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có. (Theo khoản 1 Điều
176 BLTTDS và Luật sửa đổi bổ sung 2011) Người được thông báo có quyền yêu cầu
tòa án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện. Trong một số trường hợp, bị đơn có quyền kiện ngược lại nguyên đơn (phản tố).
Yêu cầu phản tố cũng phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về
thủ tục khởi kiện.
 Hòa giải và chuẩn bị xét xử
(Theo khoản 1 Điều 179 BLTTDS 2004) Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là
bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là

hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


21
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà
án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với
vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp
quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là 2 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án (nếu vụ án có
tính chất phức tạp, Chánh án tòa án có thể quyết định gia hạn không quá 01 tháng). Luật
Tố tụng Dân sự quy định, trong quá trình xét xử sơ thẩm, tòa án phải tiến hành hòa giải
giữa các đương sự. Nếu trong phiên họp hòa giải, các đương sự đã tự thỏa thuận được với
nhau thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. (Theo khoản 1 và 2 Điều 187 BLTTDS
2004) Kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, các bên đương sự có thời hạn 7 ngày để cân
nhắc về nội dung thỏa thuận. Hết thời hạn này, nếu không có đương sự nào thay đổi ý
kiến thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự.
(Theo điều 188 BLTTDS 2004) Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định này chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc
trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
(Theo Điều 189 BLTTDS 2004 và luật sửa đổi bổ sung 2011) Trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, tòa án cũng có thể ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ
án nếu có những trở ngại khách quan (như đương sự là cá nhân chết mà không có người
thừa kế, đương sự mất năng lực hành vi dân sự, hoặc phải chờ kết quả một vụ án khác có
liên quan,…) làm cho việc giải quyết phải tạm thời dừng lại hoặc không thể giải quyết
tiếp.
(Theo điều 190 khoản 3 BLTTDS) Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết

vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


22
Nếu việc hòa giải giữa các đương sự không thành và vụ án không bị tạm đình chỉ,
đình chỉ giải quyết (theo Điều 191 BLTTDS 2004) trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì
tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. (Theo khoản 2 Điều 195 BLTTDS 2004)
Quyết định này phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra
quyết định. Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án
phải mở phiên tòa sơ thẩm. Nếu có lý do chính đáng thì thời hạn này là 2 tháng.
 Phiên tòa sơ thẩm
- Các bên đương sự phải có mặt tại phiên tòa khi tòa án xét xử vụ án. (Theo Điều
199, 200, 201 BLTTDS 2004 và luật sửa đổi bổ sung 2011) Trường hợp đương sự vắng
mặt (lần thứ nhất) có lý do chính đáng thì tòa án hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, nhằm tránh trường hợp đương sự cố tình vắng mặt để
trốn tránh nghĩa vụ, nên luật tố tụng dân sự quy định:
o (Theo khoản 2 Điều 199) Nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện, và tòa án ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét cử vắng mặt. Trong trường
hợp này, nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
o (Theo khoản 2 Điều 200) Nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai mà vẫn vắng mặt thì tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
o (Theo khoản 2 Điều 201) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt
họ.
- Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự, hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có 1 thẩm
phán và 2 hội thẩm nhân dân, trường hợp đặc biệt thì có thể gồm 2 thẩm phán và 3 hội
thẩm nhân dân. Trong các vụ tranh chấp dân sự, kinh doanh, kiểm sát viên chỉ bắt buộc
phải tham gia phiên tòa kinh tế đối với những vụ án do tòa án thu nhập chứng cứ, mà

đương sự có khiếu nại.
- Trình tự của phiên tòa sơ thẩm bao gồm các bước sau: thủ tục bắt đầu phiên tòa,
xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


23
 Bước 1: Thủ tục bắt đầu tại phiên tòa (Điều 213 BLTTDS 2004)

- Chủ tọa phiên tòa tuyên bố khai mạc và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Thư ký tòa án báo cáo với hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những
người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và lý do vắng mặt.
- Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo
giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của đương sự; phổ biến quyền và
nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác; giới thiệu họ, tên
của những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (nếu có).
- Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi không. (Theo Điều
214 BLTTDS 2004) Trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định. Hội
đồng xét xử có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu thay đổi nói trên. Nếu chấp
nhận thay đổi thì phải hoãn phiên tòa; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
(Theo Điều 215 BLTTDS 2004) Trường hợp người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên
tòa mà không thuộc trường hợp dẫn đến phải hoãn phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi
xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử
xem xét, quyết định. Hội đồng xét xử có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu chấp
nhận thay đổi thì phải hoãn phiên tòa; trường hợp không chấp nhận thì phải nói rõ lý do.



 Bước 2: Thủ tục hỏi tại phiên tòa

- Thủ tục hỏi tại phiên tòa được bắt đầu bằng việc chủ tọa phiên tòa hỏi nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, … hay không. (Theo Điều 218 BLTTDS
2004) Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu. Nếu có đương
sự tự nguyện rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình, thì Hội đồng xét xử chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu mà đương sự đã rút.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


24
- (Theo Điều 220 BLTTDS 2004) Trong bước tố tụng này, Chủ tọa phiên tòa hỏi
các đương sự xem họ có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không.
Nếu các đương sự thỏa thuận được và các thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự về việc giải quyết vụ án.
- (Theo khoản 1 Điều 221 BLTTDS 2004) Trường hợp có đương sự vẫn giữ
nguyên yêu cầu của mình và các bên không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án thì Hội đồng xét xử bắt đầu thực hiện việc hỏi bằng việc nghe lời trình bày
của các đương sự theo trình tự sau:
o Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của
nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.
o Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối
với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng
minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến.
o Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ
và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
- (Theo khoản 2 Điều 221 BLTTDS 2004) Nếu nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu,
đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
- (Theo Điều 222 BLTTDS 2004) Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự,
việc hỏi được tiến hành với riêng từng người, từng vấn đề và được thực hiện theo thứ tự:
Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi tới Hội thẩm nhân dân; sau đó đến người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Trường
hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên tòa thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án


25
- (Theo Điều 229 BLTTDS 2004) Trong lúc tiến hành việc hỏi, vật chứng, ảnh hoặc
biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét. (Theo Điều 228 BLTTDS 2004)
Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội
đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình tại phiên
tòa, (theo khoản 2 Điều 227 BLTTDS) trừ trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước,
giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí
mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu của đương sự.
- (Theo Điều 231 BLTTDS 2004) Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được
xem xét đầy đủ thì Chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu
hỏi vấn đề gì nữa không. Trường hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn
cứ, Chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc hỏi; nếu không có vấn đề gì nữa thì tuyên
bố kết thúc việc hỏi.

 Bước 3: Tranh luận tại phiên tòa

Sau khi kết thúc việc hỏi, hội đồng xét xử chuyển qua phần tranh luận tại tòa. Việc
tranh luận nhằm tạo điều kiện cho các bên đương sự được trình bày quan điểm của mình
về vụ việc, phản bác quan điểm của bên kia hoặc có những ý kiến bổ sung. Qua tranh
luận, Hội đồng xét xử có được cái nhìn toàn diện về bản chất vụ việc. (Theo khoản 1
Điều 232 BLTTDS 2004) Trình tự phát biểu khi tranh luận được quy định như sau:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu. Nguyên đơn có
quyền bổ sung ý kiến.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn có quyền bổ
sung ý kiến.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.

×