MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
Trong năm năm gần đây nhờ có chính sách cởi mở của Chính phủ, hệ thống ngân hàng
thương mại (NHTM) Việt nam đã có sự tăng trưởng mạnh kể cả về quy mô tài sản và số
lượng các ngân hàng. Hệ thống NHTM tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng
cho nền kinh tế và đồng thời phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện các
chính sách tiền tệ quan trọng của quốc gia.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển, hệ thống NHTM Việt Nam cũng đang và sẽ phải
đối mặt với những thách thức nghiêm trọng như chất lượng tài sản kém, khó khăn về thanh
khoản, chất lượng lợi nhuận thấp, yếu kém về quản trị và về quản lý rủi ro. Có thể thấy
chính những bất ổn gần trên thị trường tiền tệ thời gian qua đã cho thấy rõ những tồn tại cần
khắc phục đó.
Trước thực trạng đó, việc tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trở
thành một trong những yêu cầu bức thiết. Điều này giúp cho các ngân hàng không bị rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán và khôi phục năng lực của hệ thống ngân hàng giúp thúc
đẩy nền kinh tế nhanh hồi phục sau giai đoạn khủng hoảng.
Trong khuôn khổ của bài viết, nhóm tác giả xin được đề cập khái quát tới thực trạng
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, tác
giả đưa ra một số giải pháp và các bước để thực hiện việc tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt
Nam trong tình hình hiện nay.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 2
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
I.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ NHTM
I.1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian tiêu biểu, đóng vai trò
quan trọng trong việc khai thông các nguồn vốn tiếp kiệm đáp ứng nhu cầu đầu tư của các
chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời nó giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nền
kinh tế vận hành nhịp nhàng, hữu hiệu.
Đây là loại hình định chế trung gian tài chính tiêu biểu, được đặc trưng bởi hình thức
hoạt động kinh doanh của nó. Hoạt động kinh doanh của NHTM chủ yếu và thường xuyên
là thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi phát hành séc tiền gửi tiết kiệm và những
khoản tiền gửi khác từ các chủ thể trong nền kinh tế. Sau đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn
này để cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính trên thị trường; đồng thời,
trong quá trình kinh doanh NHTM còn thực hiện cung ứng các dịch vụ trung gian thanh
toán. Do vậy, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc khơi thông các nguồn vốn tiết kiệm
đáp ứng cho nhu cầu đầu tư sinh lợi, góp phần đảm bảo cho nền kinh tế vận động nhịp
nhàng, hữu hiệu.
Ở Việt Nam cũng như các nước khác, khi định nghĩa về NHTM đều có điểm chung là
dựa trên chức năng và phương thức hoạt động. Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là một xí
nghiệp hay cơ sở mà nghiệp vụ thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình
thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các
nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài
trợ các khoản đầu tư.
Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “Ngân hàng thương mại là
một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
I.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng
cơ bản sau:
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 3
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Chức năng trung gian tín dụng:
NHTM là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người có nhu cầu về
vốn. Thông qua việc khai thác các khoản vốn tiền tệ tạm htời nhàn rỗi trong nền kinh tế,
ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này,
ngân hàng vừa đóng vai trò là chủ thể đi vay, vừa đóng vai trò là chủ thể cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng được mô tả qua sơ đồ sau:
Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
Huy động các nguồn vốn từ các chủ thể tiết kiệm, có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế:
+ Nhận tiền gửi không có kỳ hạn, có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã
hội, cá nhân dưới hiình thức tiền tệ (nội tệ hoặc ngoại tệ).
+ Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và các cá nhân.
+ Phát hành kỳ phiếu ngân hàng để huy động vốn trong xã hội.
Cấp tín dụng đầu tư đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế:
+ Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế cá nhân.
+ Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá.
+ Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các hình thức cấp tín dụng khác
Thông qua chức năng trung gian tín dụng NHTM góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
chủ thể kinh tế tham gia và lợi ích chung cho nền kinh tế:
Đối với người gửi tiền: thông qua cơ chế huy động vốn của ngân hàng đã tập hợp các khoản
vốn tạm thời nhàn rỗi và tạo thu nhập cho người gửi tiền dưới hình thức lãi tiền gửi. Đồng
thời, ngân hàng cũng đảm bảo an toàn cho các tài khoản tiền gửi và cung cấp cho khách
hàng những dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người vay: họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu về vốn kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà
không phải tiêu tốn nhiều chi phí về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn
tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 4
- Tổ chức kinh tế
- Doanh nghiệp
- Tổ chức xã hội
- Hộ gia đình, dân cư
- Tổ chức kinh tế
- Doanh nghiệp
- Tổ chức xã hội
- Hộ gia đình, dân cư
Cấp tín
dụng
Đầu tư
vốn
Huy
động
nguồn
vốn
NHTM
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đối với bản thân ngân hàng: ngân hàng sẽ tìm keiém được khoản lợi nhuận từ chênh lệch
giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Đây là yếu tố quyết định
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế: việc cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp đã khuyền khích sản xuất,
tạo thêm việc làm, tăng sản lượng và giảm nhập khẩu hàng hóa. Mặt khác việc điều tiết vốn
trong khu vực dân cư góp phần tăng thu nhập và khuyến khích tăng nhu cầu tiêu dùng hàng
hóa và điều này sẽ giúp cho việc tăng cường sản xuất. Như vậy, với chức năng này, ngân
hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân
chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện theo yêu cầu
của khách hàng như trích một khoản tiền trên tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hóa
dịch vụ hoặc nhập vào một khoản tiền gửi khách hàng từ bán hàng hóa hoặc các khoản thu.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau:
Trong chức năng trung gian thanh toán, NHTM thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho khách hàng: các tổ chức kinh tế, đoàn thể xã hội, cá
nhân có nhu cầu đều có quyền mở tài khoản giao dịch tại bất kỳ một NHTM nào mà họ cảm
thấy thuận tiện. Các NHTM có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản giao dịch cho khách
hàng khi họ đáp ứng các yêu cầu theo quy định về việc mở và sử dụng tài khoản giao dịch
tại ngân hàng. Chức năng thanh toán của ngân hàng chỉ được thực hiện thuận lợi khi các
khách hàng tham gia có tài khoản giao dịch tại ngân hàng, do vậy, thủ tục mở tài khoản phải
chặt chẽ nhưng đơn giản, đảm bảo bí mật, an toàn cho khách hàng.
Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng: thanh toán qua ngân hàng
là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, nó được thực hiện qua việc phản ánh trên
sổ sách ngân hàng. Do đó, các chứng từ dùng làm căn cứ hạch toán sổ sách phải chuẩn xác
do ngân hàng cung cấp và kiểm soát, có như vậy mới đảm bảo cho quá trình thanh toán
được nhanh chóng, an toàn và chính xác. Vì vậy, ngân hàng sẽ thiết kế và cung cấp cho các
khách hàng phương tiện thanh toán khác nhau như: giấy chuyển tiền, ủy nhiệm chi, séc, thư
tín dụng… Những phương tiện này vừa đáp ứng yêu cầu quản lý và kiểm soát chặt chẽ,
đồng thời đáp ứng yêu cầu linh hoạt, tiện lợi và dễ sử dụng.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 5
- Người thụ hưởng
- Người bán hàng
- Tổ chức xã hội
- Cá nhân
- Người trả tiền
- Người mua hàng
- Tổ chức xã hội
- Cá nhân chuyển tiền
Lệnh
trả tiền
qua
TK
Giấy
báo có
NHTM
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng: để đảm bảo yêu cầu thanh
toán phải nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi, ngân hàng phải tổ chức và kiểm soát
quy trình thanh toán giữa các khách hàng. Tùy theo từng phương thức thanh toán sẽ có
những quy trình khác nhau, khách hàng cảm nhận được những tiện ích và ưu điểm của từng
phương thức để lựa chọn cho từng giao dịch thanh toán thích hợp.
Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng có ý nghĩa rất lớn đối với các hoạt
động của nền kinh tế xã hội. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân
hàng góp phần tiết giảm chi phí và lượng tiền mặt trong lưu thông và đảm bảo an toàn trong
thanh toán. Việc lựa chọn thanh phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp cho
phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả, điều này góp phần tăng tốc
độ lưu thông hàng hóa, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.
Mặt khác, việc cung ứng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng
thu hút được nhiều khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và do đó tạo điều kiện để thu hút
nguồn vốn tiền gửi.
Việc kết hợp chức năng trung gian tín dụng và trun gian thanh toán tạo cho ngân hàng
thương mại khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tại ngân hàng thương mại. Từ một lượng tiền gửi ban đầu, qua nghiệp vụ cho
vay dưới hình thức chuyển khoản, đã làm cho số dư tiền trên tài khoản tiền gửi trong hệ
thống ngân hàng thương mại tăng lên.
1.1.2 Phân loại ngân hàng thương mại
Căn cứ vào phạm vi hoạt động và tính chất kinh tế
NHTM được chia làm hai loại cơ bản:
Ngân hàng thương mại chuyên doanh: là những ngân hàng thương mại hoạt động kinh
doanh trên từng lĩnh vực kinh tế xã hội cụ thể như: công nghiệp, thương nghiệp, ngoại
thương, nhà đất, bất động sản… Với mục đích đi sâu vào chuyên môn hóa, nhằm phát huy
lợi thế so sánh, các ngân hàng này sẽ khai thác nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng trên các
lĩnh vực đã lựa chọn. Hoạt động của các ngân hàng này hướng đến sự độc quyền trên thị
trường tín dụng.
Ngân hàng thương mại cổ phần hỗn hợp: loại hình ngân hàng này hoạt động theo
hướng đa ngành nghề đa lĩnh vực. Để phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh
với sự ra đời nhiều kênh huy động vốn, các ngân hàng từng bước đa dạng hóa các nghiệp vụ
kinh doanh ngân hàng, nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, cho nên phần lớn các ngân
hàng hiện nay là loại ngân hàng hỗn hợp, mặc dù tên gọi có thể là chuyên doanh nhưng hoạt
động lại mang tính chất là ngân hàng hỗn hợp.
Căn cứ vào tính chất sở hữu:
Ngân hàng thương mại bao gồm:
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 6
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Ngân hàng thương mại quốc doanh: Các NHTM quốc doanh thuộc sở hữu của Nhà
nước, vốn tự có do ngân sách Nhà nước cấp phát ban đầu khi mới thành lập và cũng sẽ được
xem xét bổ sung khi cần thiết. Hoạt động của các ngân hàng này nhằm mục đích thực hiện ý
chí quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và tạo nguồn thu nhập cho ngân
sách.
Ngân hàng thương mại cổ phần: NHTM cổ phần có loại hình sở hữu hỗn hợp. Vốn
điều lệ ngân hàng hình thanh trong cơ chế góp vốn cổ phần, trong quá trình kinh doanh cần
mở rộng quy mô ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phiếu mới. Loại hình ngân hàng này
phổ biến trong cơ chế kinh tế thị trường phát triển.
Ngân hàng thương mại liên doanh: NHTM liên doanh hình thành trên cơ sở góp vốn
liên doanh giữa các đối tác trong nước (Nhà nước hoặc một ngân hàng thương mại quốc
doanh) với một đối tác nước ngoài, trụ sở kinh doanh trong nước và vận hành trong khuôn
khổ pháp lý trong nước.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: do ngân hàng nước ngoài thành lập, đặt trụ sở trong
nước, hoạt động theo luật pháp trong nước. Vốn điều lệ do ngân hàng chính quốc cung ứng
theo mức vốn quy định của ngân hàng trung ương nước sở tại quy định.
1.2 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NAM
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của
từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới
sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng được thiết lập và bảo
hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa
đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào,
Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực
chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước xây
dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã trở thành hiện thực
khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ
với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự
chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng
cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh
tế mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân
hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp
bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản
xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 7
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây
dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về
chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960
của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân
hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với
hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải
phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư
bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất thể hoá hoạt
động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam
được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của
cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ
sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm
ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như
về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển
của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như sau:
Thời kỳ 1951 - 1954:
Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập
tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng
và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý
Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;
Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng
kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
Thời kỳ 1955 - 1975:
Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa
ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải
chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản:
Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và
phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam.
Thời kỳ 1975 - 1985:
Đây là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất
nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 8
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng
của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt
Nam cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành
các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam
- Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn
hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ
theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng -
chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối
những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.
Thời kỳ 1986 đến nay:
Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến
căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số "cột môc" có tính đột phá
sau đây:
Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi
chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và hoàn
thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức
chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó
lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân
biệt rạch ròi:
Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ,
tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung
ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là
Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy
nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính
sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.
Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối
và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng
và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống
ngân hàng là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình
sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh,
chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, Quỹ tín
dụng nhân dân, công ty tài chính Trong thời gian này, 4 ngân hàng thương mại quốc
doanh lớn đã được thành lập gồm: 1) Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 9
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới
và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực
tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng:
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
(IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân
hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật
các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; Thành lập Ngân
hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài
chính và hoạt động của các NHTMCP.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối
cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế
đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ sở Ngân hàng phục vụ
người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế
thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật NHNNVN.
Năm 2008: Thực hiện cam kết khi gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã chính thức cấp phép thành lập 05 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
bao gồm: Ngân hàng ANZ Việt Nam, Ngân hàng Hong Leong Việt Nam, Ngân hàng
Stardard Chartered Việt Nam, Ngân hàng HSBC Việt Nam, Ngân hàng Shinhan Việt Nam.
1.2.2 Quy mô hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
Tính đến cuối năm 2010, thị trường Việt Nam có 101 Ngân hàng và chi nhánh NH
nước ngoài, bao gồm ngân hàng thương mại trong nước, ngân hàng nước ngoài và Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể, có 5 NHTM quốc doanh (bao gồm cả VCB và CTG),
38 NHTM cổ phần, 53 NH 100% vốn nước ngoài và chi nhánh NH nước ngoài và 5 NH liên
doanh. Trong đó, chỉ có 11/43 (25,6%) NHTM trong nước có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng.
Bảng 1.1: Số lượng NHTM giai đoạn 2006 – 2010
STT
Loại hình
NHTM
Năm
2006 2007 2008 2009 2010
1 NH TMCP 37 34 40 39 38
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 10
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2
NHNN và CN
NHNN
31 41 44 45 53
3 NH quốc doanh 5 5 5 5 5
4 NH liên doanh 5 5 5 5 5
Tổng cộng 78 85 94 94 101
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam hiện có quá nhiều ngân hàng
có qui mô nhỏ, xuất phát điểm là các NHTM nông thôn nhưng lại vươn ra hoạt động tại
thành thị, do đó có tốc độ tăng trưởng tài sản và danh mục cho vay phát triển quá nóng.
Kèm theo đó là hệ thống quản lý rủi ro và kỹ năng quản lý hoạt động ngân hàng còn tương
đối kém, gây tác động không tốt đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Mạng lưới hoạt động: Không chỉ phát triển về số lượng, qui mô mạng lưới của các
NHTM cũng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, số lượng chi nhánh, phòng giao dịch (CN,
PGD) và ATM của các NH còn khá chênh lệch nhau do chiến lược phát triển và đặc trưng
của từng ngân hàng. Riêng 4 NHTMQD đã chiếm 35,7% tổng số lượng ATM của toàn hệ
thống. VBARD giữ vai trò chủ đạo trong phát triển đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn nên
có mạng lưới hoạt động rộng khắp với 2.300 CN, PGD và 1.704 ATM trong năm 2010. Tuy
nhiên, hiệu quả hoạt động ATM của Agribank chưa cao tương ứng với qui mô. Trong khi đó,
các NH như VCB và SEAB với thế mạnh là hoạt động thẻ có mạng lưới ATM lớn thứ 3 và 4
trong khi qui mô về CN, PGD thấp hơn nhiều.
Biểu đồ 1.1 : Số lượng Chi nhánh, PGD và ATM của một số ngân hàng lớn
Nguồn: Báo cáo ngành ngân hàng - VCBS
Khối ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm ưu thế về vốn và nhà nước vẫn nắm
quyền chi phối tại một số NH đã cổ phần hóa: Các NHTMQD là các NH thuộc sở hữu của
Nhà nước hoặc đã được cổ phần hóa một phần nhưng chủ sở hữu chính vẫn là Nhà nước.
Hầu hết các NH trong khối này đều có lợi thế về qui mô vốn, với tổng vốn điều lệ của 4 NH
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 11
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
lớn tại 31/12/2010 là 64.037 tỷ đồng, dẫn đầu là VBARD với 21.042 tỷ đồng. Khách hàng
truyền thống của khối này là các Tổng công ty nhà nước, tuy nhiên việc cho vay các DN
quốc doanh tiềm tàng nguy cơ nợ xấu nhiều hơn so với các DN khác. Theo thống kê của
NHNN, trong 2,5% nợ xấu toàn ngành của năm 2010, có tới 60% là nợ xấu của các DN
quốc doanh.
Khối ngân hàng thương mại cổ phần có hoạt động linh hoạt và dần chiếm lĩnh thị
phần của khối NHTMQD: Các NHTMCP có cơ cấu cổ đông đa dạng hơn các NHTMQD,
tập trung vào hoạt động cho vay các DN vừa và nhỏ và hoạt động ngân hàng bán lẻ. Thị
phần của khối này tăng nhanh trong những năm gần đây do chiếm lĩnh được từ khối
NHTMQD, chiếm 37,1% thị phần tín dụng của toàn ngành trong năm 2010 với tổng số vốn
điều lệ lên tới 151.590 tỷ đồng.
Tuy nhiên, qui mô của nhóm NH này vẫn nhỏ hơn nhiều so với các NHTM quốc
doanh. Dẫn đầu về vốn điều lệ trong nhóm này là Eximbank (EIB) với 10.560 tỷ đồng, theo
sau đó là ACB với 9.377 tỷ đồng và Sacombank (STB) với 9.179 tỷ đồng. Một số NHTMCP
khác cũng có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng bao gồm NH Quân đội (MB), NH Kỹ thương
(TCB), NH Hàng Hải Việt Nam (MSB) và NH Đông Nam Á (SEAB). Hầu hết các
NHTMCP còn lại đều có vốn điều lệ quanh mức 2.000 - 3.000 tỷ đồng. Trong điều kiện lạm
phát tăng cao của năm 2011, nhiều NH yếu về thanh khoản bắt buộc phải huy động bằng
mọi giá để đảm bảo hoạt động, dẫn đến tình trạng chạy đua lãi suất như thời gian vừa qua.
Khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh: thời gian gần đây đã có những động thái
tích cực nhằm thâm nhập sâu hơn vào thị trường Việt Nam: Thế mạnh của khối NH này là
mảng ngân hàng bán lẻ với chất lượng dịch vụ vượt trội và sản phẩm cung cấp đa dạng hơn
so với các NHTM trong nước. Đây cũng là mảng thị trường còn nhiều tiềm năng phát triển
mà các NH trong nước chưa khai thác được. Trong thời gian vừa qua, các NH lớn như
HSBC, Citibank (Citi), ANZ, Standard Chartered (S.C) và Deutsche Bank đều không ngừng
mở rộng hoạt động của mình. Citi và S.C chính thức triển khai hoạt động ngân hàng bán lẻ
tại Hà Nội vào tháng 10/2010, trong khi HSBC khai trương 2 chi nhánh mới tại Đà Nẵng và
Cần Thơ trong T9.2010. Một loạt các chi nhánh NHNN khác như Huanan, Chinatrust và
Mizuho cũng tăng mạnh vốn được cấp vào thời điểm cuối năm 2010. Ngoài ra, một vài
NHNNg vẫn đang nắm giữ cổ phần tại các NHTM trong nước.
Thị phần của khối NHNNg và liên doanh không có nhiều biến động, đặc biệt là thị
phần huy động do các NHNNg bị hạn chế về huy động vốn trên mức vốn được cấp. Thị
phần huy động và cho vay của nhóm NH này trong 2010 lần lượt là 8,9% và 13,6%. Mặc dù
bắt đầu từ năm 2011, hạn chế về huy động tiền gửi được xóa bỏ nhưng khối NH này sẽ cần
một thời gian nhất định để có thể thay đổi miếng bánh thị phần do về tương quan qui mô
mạng lưới của các NHNNg vẫn còn rất nhỏ so với các NHTM trong nước.
Bảng 1.2: Một số ngân hàng có cổ đông chiến lược nước ngoài tính đến 20/1/2012
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 12
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguồn: Báo cáo ngành ngân hàng - VCBS
Phần 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2011
2.1 MỘT SỐ NÉT CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2011
2.1.1 Vốn và tốc độ tăng trưởng tài sản
Qui mô vốn còn nhỏ so với các NH trong khu vực:
Mặc dù tổng tài sản tăng trưởng nhanh, qui mô của các NH Việt Nam vẫn nhỏ hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Theo số liệu của Bloomberg, trung bình 2 chỉ tiêu tổng
tài sản và vốn chủ sở hữu của 8 NH niêm yết tại Việt Nam là 166.844 tỷ đồng và 12.574 tỷ
đồng, thấp hơn mức trung bình của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Ấn
Độ, Thái Lan và Indonesia. Với qui mô tương đối nhỏ, các NH Việt Nam đều chịu áp lực
phải tăng cường qui mô nguồn vốn nhằm đảm bảo các chỉ số an toàn hoạt động. NHNN
hiện tại đang sử dụng hai công cụ chính để nâng cao khả năng an toàn vốn của các NHTM:
(1) quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu và (2) quy định về hệ số an toàn vốn tối thiểu
(CAR).
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 13
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đến cuối 2010 vẫn có 10 NH chưa đáp ứng yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu. Tính đến
thời điểm 31/12/2010, mới chỉ có 28/38 NHTMCP có vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng trở lên.
10 ngân hàng còn lại có vốn điều lệ từ 1.500-2.800 tỷ đồng và không thể tăng vốn đúng thời
hạn do thị trường chứng khoán diễn biến không thuận lợi. Chính vì vậy, NHNN đã phải gia
hạn cho việc tăng vốn đến hết 31/12/2011.
Tính đến thời điểm tháng 8/2011, đã có thêm 4 NH hoàn thành việc tăng vốn là NH Đệ
Nhất (FCB), NH Nam Á (NAB), NH Phương Tây (WEB) và NH Nam Việt (NVB). Tổng
cộng số vốn tối thiểu mà 6 NH còn lại phải huy động đến hết năm 2011 là 5.310 tỷ đồng.
Như vậy, trong trường hợp xấu nhất khi các NH này không hoàn thành được việc tăng vốn
trong năm nay, thì thanh khoản của hệ thống NH hầu như sẽ không bị ảnh hưởng.
Hầu hết các NH đều đáp ứng được tỷ lệ CAR tối thiểu 9% tại thời điểm cuối 2010.
Tính đến cuối 2010, hầu hết các NHTM đã đáp ứng được yêu cầu về hệ số CAR tối thiểu
9%. Một số ít các NH chưa đáp ứng được bao gồm VBARD (6,1%), MSB (8,1%), CTG
(8,6%) và NVB (8,9%), trong đó các NH CTG và NVB đều đã tiến hành tăng vốn trong thời
gian vừa qua, do đó chúng tôi cho rằng tỷ lệ CAR của các NH này đã đạt mức 9% tại thời
điểm hiện tại. MSB cũng đang tiến hành tăng vốn từ 5.000 tỷ lên 7.000 tỷ đồng để đáp ứng
mức CAR theo yêu cầu.
Biểu đồ 2.1: Hệ số an toàn vốn của một số NHTM lớn
Nguồn: Báo cáo ngành ngân hàng – VCBS
Tổng tài sản ngành NH tăng gấp đôi trong giai đoạn 2007 – 2011. Quy mô ngành
Ngân hàng Việt Nam đã mở rộng đáng kể trong những năm gần đây. Theo số liệu của IMF,
tổng tài sản của ngành đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn 2007 – 2011, từ 1.097 nghìn tỷ
đồng (52,4 tỷ USD) lên 2.690 nghìn tỷ đồng (128,7 tỷ USD). Con số này được dự báo sẽ
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 14
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
tăng lên 3.667 nghỉn tỷ đồng (175,4 tỷ USD) vào thời điểm cuối năm 2012. Việt Nam cũng
nằm trong danh sách 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng tài sản ngành NH nhanh nhất trên
thế giới theo thống kê của The Banker, đứng vị trí thứ 2 (chỉ sau Trung Quốc). Trong đó,
Eximbank là NH duy nhất của Việt Nam nằm trong tốp 25 NH tăng trưởng nhanh nhất về tài
sản trong 2010, đứng ở vị trí thứ 13.
Bảng 2.1: Vốn điều lệ các ngân hàng nội tại Việt Nam đến 31/12/2011
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 15
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguồn: tổng hợp Website các ngân hàng
Lượng ATM và số thẻ phát hành cũng tăng mạnh. Cùng với sự tăng trưởng về tài
sản, mạng lưới ATM cũng như số lượng thẻ đã tăng lên đáng kể. Số lượng ATM tăng mạnh
từ 1.800 trong năm 2005 lên 11.900 trong năm 2011, trong khi đó số lượng thẻ tín dụng và
ghi nợ được phát hành cũng đã tăng lên gấp đôi trong giai đoạn 2008-2011, đạt 31,7 triệu
thẻ. Kết quả này đạt được nhờ thu nhập bình quân mỗi hộ gia đình và nhu cầu đối với dịch
vụ ngân hàng bán lẻ ngày càng gia tăng.
VBARD dẫn đầu về số lượng thẻ phát hành nhưng VCB dẫn đầu về doanh số thẻ.
VBARD dẫn đầu thị trường về tổng số lượng thẻ phát hành với gần 6,4 triệu thẻ, chiếm
20,2% thị phần trong năm 2010. Tiếp đến là CTG đạt trên 5,7 triệu thẻ, chiếm 18,1% thị
phần. VCB đứng thứ 3 với trên 5,3 triệu thẻ, chiếm gần 17% thị phần. SEAB và BIDV lần
lượt xếp thứ 4 và 5 với hơn 5 triệu thẻ và 2,7 triệu thẻ, tương đương 16,1% và 8,6% thị
phần. Tuy nhiên, xét về hiệu quả hoạt động sử dụng thẻ, VCB tiếp tục khẳng định vị trí dẫn
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 16
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
đầu về doanh số thẻ các loại, chiếm 23,4% tổng doanh số thẻ của ngành. VBARD vươn lên
vị trí thứ 2 với gần 20% thị phần, doanh số tăng gấp 3 lần so với 2009. Tiếp theo là CTG và
SEAB chiếm lần lượt 17% và 16% thị phần
Biểu đồ 2.2: Doanh số và thị phần thẻ năm 2011
Nguồn: Hiệp hội thẻ Việt Nam
2.1.2 Một số đặc điểm hoạt động và chỉ tiêu kinh doanh của ngành
Tăng trưởng hoạt động tín dụng và huy động vốn:
Thứ nhất, tăng trưởng tín dụng và huy động ở Việt Nam luôn ở mức cao trên 20%.
Với đặc trưng của một nền kinh tế mới nổi, tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động của
Việt Nam luôn ở mức cao trên 20% trong suốt giai đoạn 2000 – 2010. Mức tăng trung bình
cho tín dụng và huy động trong giai đoạn này lần lượt là 31,55% và 28,91%, trong đó đỉnh
điểm là năm 2007 với 53,89% và 47,64%. Tốc độ cung tiền M2 trong giai đoạn 2005 – 2010
cũng đạt trung bình 29,19%
1
.
So với các nước trong khu vực, tăng trưởng tín dụng và M2 của Việt Nam cao hơn
nhiều so với Indonesia (14,5% và 12,4%) và Thái Lan (7% và 4%). Đây là một trong những
nhân tố đóng góp vào sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này, thể
hiện qua tốc độ tăng GDP trung bình là 7,15%, đạt đỉnh 8,5% vào năm 2007. Tuy nhiên,
tăng trưởng tín dụng nóng cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bong bóng tài
sản mà nhiều nước mới nổi như Việt Nam mắc phải khi nguồn vốn chảy vào các lĩnh vực có
rủi ro cao như bất động sản.
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng tín dụng và huy động giai đoạn 2000 – 2010
1 Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 17
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguồn: Báo cáo ngành ngân hàng, VCBS
Thứ hai, tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tăng trưởng huy động và GDP. Tỷ lệ
cho vay/huy động của Việt Nam cao nhất so với các nước trong khu vực nhưng mức độ
thâm nhập của ngành vẫn chưa đạt tương ứng: Thị trường tín dụng Việt Nam phát triển rất
mạnh trong những năm gần đây so với các nước khác trong khu vực Châu Á. Theo số liệu
của BMI, tỷ lệ cho vay/huy động và cho vay/tài sản trong 2010 lên tới 130,7% và 76,6%,
cao nhất trong các nước tại Châu Á. Tuy nhiên, mức độ thâm nhập của ngành thể hiện qua
tỷ lệ cho vay/GDP vẫn chưa đạt được mức tương ứng, mặc dù có tăng trưởng mạnh trong
giai đoạn 2005 – 2010. Tỷ lệ này tăng từ 60% trong 2005 lên 113,5% vào 2010, đứng sau
một số nước ở Châu Á như Trung Quốc (126,6%), Hồng Kông (194,2%), Malaysia
(119,4%) và Đài Loan (143,1%)
2
.
Biểu đồ 2.4: Một số chỉ tiêu hoạt động của hệ thống NHTM các nước
2 Theo số liệu IMF, VCBS tổng hợp
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 18
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, IMF.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng
huy động và GDP làm tăng rủi ro thanh khoản. Tín dụng tăng trung bình 32% trong giai
đoạn 2000-2010, huy động tăng 29% trong khi GDP chỉ tăng trung bình 7,15% trong giai
đoạn này. Theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế, với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng
7%, mức tăng trưởng tín dụng có thể đạt mức 14-20% mà không gây ra bong bóng tín dụng.
Tuy nhiên, khi tỷ lệ này vượt quá mức nêu trên sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của
nền kinh tế. Việc tín dụng tăng trưởng nhanh hơn huy động trong hầu hết các năm cũng làm
tăng rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Đây cũng chính là lí do một loạt các tổ
chức quốc tế như Fitch Rating, S&P và Moody’s hạ bậc xếp hạng tín dụng của Việt Nam
trong năm 2010 với lo ngại về tăng trưởng tín dụng nóng.
Nguồn: Báo cáo ngành ngân hàng - VCBS
Tăng trưởng lợi nhuận và khả năng sinh lời:
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 19
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Bắt đầu từ năm 2008, thị trường tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng bắt
đầu gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, các NHTM
Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng lợi nhuận tốt trong giai đoạn này với trung bình
tăng trưởng của 8 NHTM hàng đầu là 46% trong năm 2008, 59% trong năm 2009 và 31%
trong 2010. Trong đó các ngân hàng nổi bật với mức tăng trưởng tốt như EIB, MB, TCB và
MSB đều là đại diện của khối NHTMCP. CTG là đại diện duy nhất của khối NHTMQD có
được mức tăng trưởng nổi bật trong giai đoạn này. Kết quả kinh doanh của khối NH nước
ngoài không được công bố rộng rãi, tuy nhiên đại diện của khối này là HSBC Việt Nam đã
đạt mức tăng trưởng 40% lợi nhuận sau thuế trong năm 2010. Năm 2011 tiếp tục là một năm
khó khăn với ngành ngân hàng với những diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp trong 8 tháng
đầu năm. Lợi nhuận của các NH được dự báo sẽ tăng trưởng chậm hơn so với 2010, tuy
nhiên mức trung bình vẫn được duy trì trên 20%.
Tuy nhiên, hiện nay cơ cấu thu nhập chưa đa dạng, chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động
tín dụng. Nguồn thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu
nhập của hầu hết các NHTM trong nước. Năm 2010, tỷ trọng trung bình thu nhập lãi trong
tổng thu nhập của 10 NH hàng đầu Việt Nam là 76,8%. Đối với một số NH có qui mô nhỏ
hơn, tỷ trọng này thậm chí còn lên tới hơn 90% (Liên Việt: 92,2%, Đại Dương: 103,5%,
Nam Việt: 93,1%, Phát triển Mê Kông: 98,8%). Điều này cho thấy cơ cấu thu nhập của hệ
thống NH Việt Nam chưa có sự đa dạng, phụ thuộc nhiều vào hoạt động tín dụng, kéo theo
rủi ro về chất lượng tín dụng. Đồng thời, khi tăng trưởng tín dụng bị hạn chế như tình hình
hiện tại, thu nhập của các NH sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Chất lượng tín dụng và tình hình nợ xấu:
Do ảnh hưởng của việc tăng trưởng tín dụng cao, nợ xấu luôn là một trong những vấn
đề nổi cộm của ngành Ngân hàng Việt Nam từ trước tới nay, trong đó có hai vấn đề chính
cần chú ý: (1) sự khác biệt trong cách phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam (VAS) và theo
chuẩn quốc tế (IAS) và (2) sự gia tăng nợ xấu của toàn hệ thống trong thời gian gần đây.
Thứ nhất, có sự khác biệt tương đối lớn trong phân loại nợ giữa VAS và IAS: Theo
số liệu công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu năm 2010 của toàn hệ thống đang ở mức 3%, tăng
so với mức 2,5% vào cuối năm 2009. Con số này chưa tính đến các khoản nợ xấu của
Vinashin, chiếm khoảng 0,7% tổng dư nợ toàn ngành. Theo đánh giá của NHNN thì con số
3% vẫn ở mức an toàn và kiểm soát được. Tuy nhiên, theo tính toán của tổ chức xếp hạng
tín nhiệm Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của các NH Việt Nam lên tới 13% tổng dư nợ và là
một con số đáng lo ngại. Nguyên nhân cơ bản của sự chênh lệch này chính là sự khác biệt
trong việc phân loại nợ theo chuẩn Việt Nam (VAS) và chuẩn quốc tế (IAS).
Hầu hết các NHTM tại Việt Nam hiện nay đều phân loại nợ dựa vào định lượng mà
thiếu đi phần định tính như tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Điều này dẫn đến việc phân loại nợ không phản ánh thực chất khoản nợ. Đồng thời,
các NH chỉ xếp phần nợ đến hạn không trả được vào nợ xấu, trong khi phần còn lại của
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 20
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
khoản nợ vẫn là nợ đủ tiêu chuẩn. Trong khi đó, theo IAS, nếu phần nợ đến hạn không trả
được thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu.
Ngoài ra, một số NH Việt Nam còn biến nghiệp vụ gia hạn nợ, vốn là một nghiệp vụ
bình thường của NH, thành một hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu của mình do nợ gia hạn
không được tính vào nợ xấu. Đồng thời, không ít ngân hàng đã hạn chế phân loại nợ xuống
nhóm 3-5 để tránh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tránh ảnh hưởng đến lợi nhuận của
mình. Kết quả là sự chênh lệch giữa phân loại nợ xấu theo VAS và IAS ngày càng lớn.
Rất ít NH áp dụng phân loại nợ định tính do còn nhiều bất cập. Mặc dù NHNN đã đưa
ra quy định về việc phân loại nợ theo Quyêt định 493/2005/QĐ-NHNN, trong đó bao gồm
cả phân loại theo định lượng (Điều 6) và định tính (Điều 7), tính đến thời điểm hiện tại, chỉ
có 3 NH tại Việt Nam đã thực hiện việc phân loại nợ định tính theo Điều 7 là BIDV,
Agribank và VCB. Nguyên nhân chủ yếu là do: (1) Các NH phải xây dựng được hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ để áp dụng phương pháp phân loại này (2) Phân loại nợ theo định
tính sẽ làm tỷ lệ nợ xấu cao gấp 2 – 3 lần so với định lượng và (3) Bản thân việc phân loại
nợ theo định tính cũng gặp phải nhiều điểm bất cập.
Hiện tại, NHNN đang xin ý kiến của các Bộ ngành liên quan, các TCTD, NHNN Chi
nhánh tỉnh, thành phố về dự thảo Thông tư quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng, nhằm thay
thế Quyết định 493/2009/QĐ-NHNN.
Thứ hai, nợ xấu có xu hướng ngày càng gia tăng do tăng trưởng tín dụng nóng và
quản lý tín dụng không hiệu quả. Tăng trưởng tín dụng nóng, cùng với chất lượng quản lý
tín dụng không tốt của các NHTM Việt Nam, là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của
nợ xấu trong thời gian qua. Mặc dù ý thức được điều này, NHNN đã yêu cầu các NHTM
hạn chế tăng trưởng tín dụng quá cao, nhưng trong thực thế tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn
luôn ở mức trên 20% trong 10 năm gần đây. Đặc biệt, tăng trưởng tín dụng lên tới 53,89%
trong năm 2007, 37,73% trong 2009 trước khi hạ nhiệt xuống 27,65% trong 2010. Việc cho
vay ồ ạt trong những năm trước, cộng thêm với sự việc của Vinashin gần đây, đã để lại
nhiều hệ lụy, trong đó có việc gia tăng nợ xấu trong thời gian qua.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 21
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ nợ xấu trong các ngân hàng lớn năm 2010 và
2011.
Tỷ lệ nợ xấu cũng như nợ nhóm 2 của các ngân hàng thương mại năm 2011 đã tăng mạnh so
với cùng kỳ năm trước. Nợ xấu chung của hệ thống ngân hàng năm 2011 ở mức 3,3% tổng
dư nợ, cao hơn so với mức 2,14% vào cuối năm 2010.
Theo số liệu của 8 ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo tài chính riêng lẻ quý 4/2011
thì chỉ có VCB có tỷ lệ nợ xấu giảm nhẹ, còn lại đều có tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Riêng
Habubank, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh từ 2,39% năm 2010 lên 4,69% năm 2011. Nợ nhóm 2 của
các ngân hàng đều có sự tăng nhanh cả về giá trị tuyệt đối và tỷ lệ tương đối. Các nhà băng
có tỷ lệ này tăng nhanh nhất là HBB từ 9,86% năm 2010 lên 13,34%, VCB tăng từ 5,27 lên
8%, MBB tăng từ 0,6 lên 1,76%.
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng giai đoạn 2002 - 2011
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 22
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
2.2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.2.1 Một số thành tựu của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian qua
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã cung cấp thêm một lượng vốn khá lớn cho
nền kinh tế, chiếm khoảng 16-18% GDP hàng năm và gần bằng 50% tổng vốn đầu tư toàn
xã hội. Điều này chứng tỏ hệ thống ngân hàng đã có một sự phát triển vượt bậc, phát huy
hiệu quả vai trò huyết mạch trong việc làm cầu nối giữa sản xuất, tiêu dùng và tiết kiệm.
Trước đây các ngân hàng thương mại quốc doanh là đơn vị nòng cốt trong việc hỗ
trợkhu vực kinh tế nhà nước do lợi thế về vốn và thị phần. Tuy nhiên, với sự phát triển
mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân, trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại cổ
phần đã có bước phát triển đáng kể trong tăng trưởng nguồn vốn và mở rộng mạng lưới hoạt
động phục vụ cho khu vực dân cư và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tăng trưởng thu nhập của
các ngân hàng thương mại cổ phần đạt khoảng 60% - 120% mỗi năm. Trong năm 2007, tốc
độ tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần đạt khoảng 94% so với năm
2006. Trong khi đó các ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ tập trung trong khu vực
truyền thống là các doanh nghiệp Nhà nước nên tăng trưởng thu nhập đạt khoảng 20% mỗi
năm.
Hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính và tiến hành xử lý những khoản nợ
tồn tại từ những năm 90. Đến năm 2007, tỷ lệ nợ xấu chiếm dưới 2% trên tổng dư nợ tín
dụng.
2.2.2 Một số yếu kém, tồn tại hiện nay trong hệ thống NHTM Việt Nam
Về năng lực tài chính
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 23
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Mặc dù nhiều NHTM đã có những nỗ lực rất lớn trong việc tăng vốn điều lệ, nâng cao
năng lực tài chính, song vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam vẫn rất nhỏ, nhưng lại
không bị hạn chế bởi phạm vi và lĩnh vực hoạt động. Gần đây bàn về vấn đề tái cấu trúc hệ
thông ngân hàng, có nhiều ý kiến cho rằng: ở Việt nam vẫn rất cần ngân hàng nhỏ. Chúng
tôi cũng đồng tình với ý kiến này, khi và chỉ khi ngân hàng nhỏ hoạt động ở phạm vi và lĩnh
vực phù hợp với qui mô vốn của nó. Nhưng trên thực tế, các NHTM có qui mô vốn nhỏ,
kinh nghiệm, quản tri nội bộ, nhân sự và hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế…
nhưng lại không bị giới hạn bởi phạm vi và lĩnh vực kinh doanh. Do áp lực phải lớn theo lộ
trình, nhóm các NHTM nhỏ luôn tăng trưởng tín dụng nóng (thường từ 60 -70 %/năm, thậm
chí có năm còn cao hơn nhiều), lại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực bất động sản, chứng
khoán - lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Vì thế các NHTM này thường xuyên thiếu thanh khoản.
Để khắc phục vấn đề thiếu thanh khoản, các ngân hàng này đã sử dụng công cụ lãi suất cao
để cạnh tranh về huy động vốn trên thị trường 1; vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi
suất có khi lên tới 30% - 40%/năm . Những động thái này đã làm cho thị trường tiền tệ luôn
luôn bất ổn, ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Gần đây,
một số cơ chế, chính sách của NHNN đã được điều chỉnh theo hướng tăng cường quản trị
rủi ro, điển hình là Thông tư 13, 19 (sửa đổi), Thông tư 22 qui định các tỷ lệ an toàn đối với
hoạt động của các TCTD, hướng tới một cơ chế giám sát theo mức độ rủi ro. Tuy nhiên, hệ
thống giám sát trên cơ sở rủi ro vẫn chưa thể vận hành trong ngắn hạn, vì thế các rủi ro: tín
dụng, thanh khoản, lãi suất, tỷ giá…đều xảy ra ở tất cả các ngân hàng với các mức độ khác
nhau. Chính điều này đã làm cho lòng tin của người dân, các nhà đầu tư vào hệ thống ngân
hàng giảm sút.
Về quản trị ngân hàng
Với nhiều NHTM, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tới 70 – 80% tổng nguồn,
thậm chí đối với một số ngân hàng, tỷ trọng này còn cao hơn, trong khi tỷ trong cho vay
trung dài hạn không nhỏ . Với độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, thì vấn đề
thiếu thanh khoản, tiềm ẩn rủi ro thanh toán là lớn. Mặt khác, do áp lực tăng tổng tài sản ,
nhiều ngân hàng bằng mọi cách để có vốn, cách mà các NHTM sử dụng chủ yếu là dùng lãi
suất huy động cao, tất yếu lãi suất cho vay cũng rất cao, có thời điểm LSCV lên tới
25%/năm. Lãi suất cho vay càng cao, thì rủi ro từ phía khách hàng không trả được nợ khi
đến hạn sẽ càng lớn, nợ xấu của các ngân hàng tăng mạnh là điều dễ hiểu. Hiện nay, tỷ lệ nợ
xấu là 3,5%, trong đó đáng lo ngại là nợ nhóm 5 có xu hướng tăng nhanh từ đầu quí 3 năm
2011 đến nay . Vì vậy nếu không có những biện pháp hữu hiệu để mỗi ngân hàng tái cơ cấu
lại vốn của mình, thì nguy cơ bất ổn sẽ kéo dài, việc đổ vỡ là khó tránh khỏi.
Vài năm gần đây, chính sách lãi suất giữa ngoại tệ và nội tệ VND có độ doãng lớn, lãi
suất cho vay ngoại tệ thấp (5-7%/năm), lãi suất cho vay VND rất cao (20%-25%/năm), ngân
hàng nhanh chóng chuyển sang cho vay bằng ngoại tệ, làm cho tăng trưởng tín dụng ngoại
tệ tăng cao . Thực trạng này không chỉ làm căng thẳng thêm cung cầu ngoại tệ, tiềm ẩn rủi
ro tỷ giá cho các ngân hàng, khách hàng, mà còn làm tăng tình trạng đola hóa nền kinh tế.
Về chất lượng nguồn nhân lực
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 24
Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Với sự phát triển quá nóng của hệ thống, trong khi nguồn nhân lực có chất lượng cao,
có đạo đức nghề nghiệp còn rất thiếu, công tác tuyển dụng, đào tạo lại chưa được coi trọng
đúng mức, nên rủi ro tác nghiệp và đạo đức gia tăng. Mặt khác, đa số cán bộ quản lý cấp
trung và cấp cao ở từng NHTM chủ yếu được đề bạt qua hoạt động chuyên môn, họ rất
thiếu kiến thức về quản lý và điều hành một chi nhánh, một hệ thống theo hướng hiện đại, vì
thế đôi khi chỉ là sơ suất trong quản lý nhân sự… đã gây ra những rủi ro trong hoạt động
không nhỏ cho ngân hàng . Xem xét các vụ vỡ nợ “tín dụng đen” gần đây, hầu hết các
NHTM đều khẳng định không liên quan và không gây thiệt hại. Điều này chưa hẳn, bởi
chưa có thống kê cụ thể và chưa có sự kết nối các cá nhân với các doanh nghiệp “sân sau”
của các TCTD tham gia vào hoạt động này.
Về hệ thống công nghệ
Có thể nói, công nghệ thông tin được xem như một xu hướng chính trong hoạt động
ngân hàng hiện đại trong thập niên vừa qua, các giải pháp kỹ thuật công nghệ được lựa chọn
phù hợp đã bảo đảm cho sự phát triển công nghệ tin học ngân hàng đúng hướng, là yếu tố
giúp các ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ,
chiếm lĩnh thị phần bằng các thiết bị giao dịch tự động, tăng cường năng lực và hiệu quả
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại; đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tăng
vòng quay tiền tệ, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn xã hội.
Nhờ có đổi mới công nghệ mà hệ thống ngân hàng đã đưa ra được rất nhiều các dịch vụ giá
trị gia tăng dựa trên những công nghệ mới như: dịch vụ như máy ATM, máy POS, Internet
Banking, Telephone Banking, ngân hàng trực tuyến những dịch vụ này đang được coi là
sức mạnh của các ngân hàng.
Hệ thống corebanking (hệ thống quản trị ngân hàng tập trung) đã được ứng dụng phổ biến ở
phần lớn các ngân hàng, giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của hoạt động nội bộ ngân hàng
như kế toán thanh toán, quản trị rủi ro, đánh giá xếp hạng tín dụng khách hàng ; các dữ liệu
trong hoạt động được nối mạng trực tuyến giữa các Phòng, Ban tại trụ sở chính, Chi nhánh
đảm bảo kiểm soát, phát hiện kịp thời các vấn đề phát sinh trong hoạt động. Ứng dụng công
nghệ thông tin, đồng thời còn giúp các TCTD hiện đại hóa hệ thống thanh toán, đa dạng hóa
hình thức huy động vốn, cho vay, với những sản phẩm tiện ích ngân hàng hiện đại, cung
ứng cho doanh nghiệp và dân cư, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và
thanh toán qua ngân hàng.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng có được một nền tảng công nghệ hiện đại đáp
ứng được các dịch vụ giá trị gia tăng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ
chưa có đủ kinh nghiệm và vốn để triển khai đầu tư cho công nghệ.
Thực hiện: Nhóm 3 – Cao học TCDN Đêm 5 Trang 25