Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Tình trạng suy dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ dưới 5 tuổi tại xã trường lạc, quận ô môn, thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.12 KB, 59 trang )

1
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng (SDD) là nguyên nhân làm 1/3 trẻ dưới 5 tuổi tử vong trên toàn
cầu [35]. Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể không cung cấp đầy đủ năng lượng, chất
đạm cũng như các yếu tố vi lượng khác để đảm bảo cho cơ thể phát triển. Theo Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), có 3 thể suy dinh dưỡng ở trẻ em là thể nhẹ cân, thể thấp
còi và thể gầy còm. Đây là tình trạng bệnh lý hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, biểu hiện ở
những mức độ khác nhau không những gây ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất,
tâm thần và vận động của trẻ mà còn ảnh hưởng đến sức lao động của xã hội sau này,
trường hợp nặng có thể dẫn đến tử vong [34]. Đặc biệt, lứa tuổi từ lúc sơ sinh cho tới 5
tuổi là thời kỳ phát triển quan trọng, là thời kỳ tăng trọng lượng nhanh nhất trong cuộc
đời trẻ, nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể được hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống thần
kinh trung ương và hệ vận động của trẻ. Do vậy, việc đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh
dưỡng cho trẻ trong giai đoạn này là vấn đề hết sức quan trọng và nhu cầu dinh dưỡng
của giai đoạn này cũng là cao nhất [15].
Theo ước tính của WHO, hằng năm trên thế giới hằng năm có khoảng 10,9 triệu
trường hợp tử vong ở trẻ em, trong đó có tới 60% trường hợp bị ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp do SDD [27]. Suy dinh dưỡng là vấn đề sức khỏe trẻ em toàn cầu với tỷ
lệ mắc cao và rất cao ở hầu hết các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam [12]
[39]. Nhờ vào sự phát triển của nền kinh tế xã hội, các bệnh nhiễm trùng ở trẻ em dần
được khống chế, đặc biệt là sự triển khai có hiệu quả của chương trình phòng chống
suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta, tỷ lệ suy dinh dưỡng các thể đã giảm xuống một cách
đáng kể (trung bình mỗi năm giảm 1,5%) [3], cụ thể là năm 2000 tỷ lệ suy dinh dưỡng
thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi là 33.8% thì tới năm 2011 đã giảm chỉ còn 16.8%, ở
suy dinh dưỡng thể thấp còi, năm 2000 là 38.7% tới năm 2010 còn 27.5%. Tuy nhiên,
3
tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao theo phân loại của WHO, vẫn là những thách thức cho
toàn xã hội.


Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em và các
vấn đề liên quan nhằm góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em nước ta. Thực hiện chương trình phòng chống suy dinh dưỡng quốc gia,
hằng năm, các trung tâm y tế dự phòng các cấp từ tuyến tỉnh, huyện và các trạm y tế xã
đều có các số liệu thống kê về tỷ lệ suy dinh dưỡng. Với mục đích xác định, so sánh số
liệu thu thập được với số liệu thực tế tại địa phương, với tỷ lệ suy dinh dưỡng quốc gia
và khu vực, đồng thời xác định được các yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh
dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tình hình suy dinh dưỡng
và một số yếu tố liên quan của trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Trường Lạc, quận Ô môn,
thành phố Cần Thơ năm 2012”. Đề tài được thực hiện với các mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Trường Lạc, quận Ô
môn, thành phố Cần Thơ năm 2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi tại xã Trường Lạc, quận Ô môn, thành phố Cần Thơ năm 2012.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát chung về dinh dưỡng và suy dinh dưỡng
1.1.1. Dinh dưỡng
Dinh dưỡng là tình trạng cơ thể được cung cấp đầy đủ, cân đối các thành phần
dinh dưỡng cho sự phát triển toàn vẹn, tăng trưởng của cơ thể để đảm bảo chức năng
sinh lý và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội.
4
1.1.2. Tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm về chức phận, cấu trúc và hoá
sinh, phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể [13].
Tình trạng dinh dưỡng là kết quả tác động của một hay nhiều yếu tố như: tình
trạng an ninh thực phẩm hộ gia đình, thu nhập thấp, điều kiện vệ sinh môi trường, công
tác chăm sóc trẻ em, gánh nặng công việc lao động của bà mẹ, …
Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ánh sự cân bằng giữa thức ăn ăn vào
và tình trạng sức khoẻ. Khi cơ thể có tình trạng dinh dưỡng không tốt (thiếu

hoặc thừa dinh dưỡng) là thể hiện có vấn đề sức khoẻ hoặc dinh dưỡng hoặc
cả hai [1].
1.1.3. Suy dinh dưỡng
SDD do thiếu protein - năng lượng (thường gọi là SDD) là tình trạng thiếu dinh
dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu hiện của SDD là trẻ chậm lớn và
thường hay mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả
năng học tập, năng suất lao động kém khi trưởng thành. Năm 2000, ở nước ta ước tính
có 2,5 triệu trẻ dưới 5 tuổi bị SDD, chủ yếu là SDD thể nhẹ và vừa. Tuy vậy, các thể
SDD này cũng có ý nghĩa quan trọng vì đứa trẻ dễ mắc bệnh, tăng nguy cơ tử vong và
thường kèm theo thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng. Điều đáng quan tâm là trẻ bị SDD ít
được mẹ và các thành viên khác trong gia đình chú ý đến vì nhìn trẻ vẫn bình thường.
Ở cộng đồng có nhiều trẻ SDD nhưng chúng ta khó nhận biết được vì triệu chứng
nghèo nàn, chỉ có biểu hiện nhẹ cân, thấp bé so với tuổi và gầy. Do đó, SDD trẻ em cần
được sự quan tâm của mọi người nhiều hơn [15].
SDD trẻ em là tình trạng mức cung ứng các chất dinh dưỡng thiếu so với nhu
cầu sinh lý của trẻ. Thông thường trẻ thiếu nhiều chất dinh dưỡng khác nhau, nhưng
điển hình là tình trạng thiếu protein - năng lượng. Đây là tình trạng bệnh lý hay gặp ở
trẻ nhỏ dưới 5 tuổi (nhất là ở trẻ dưới 3 tuổi), biểu hiện ở những mức độ khác nhau
không những gây ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, tâm thần và vận động của trẻ
5
mà còn ảnh hưởng đến sức lao động của xã hội sau này, trường hợp nặng có thể dẫn
đến tử vong [15].
1.1.4. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em
dưới 5 tuổi
Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến SDD trẻ em. Tuy nhiên, ở nước ta thì
những nguyên nhân sau đây hay gặp nhất:
- Bà mẹ bị bệnh hoặc ăn uống không đầy đủ, bị thiếu dinh dưỡng trước và trong khi
mang thai dẫn đến bị SDD, thiếu máu, suy yếu và có thể sinh ra đứa con nhẹ cân,
còi cọc. Đứa trẻ bị SDD bào thai dễ bị SDD sau này. Người mẹ bị SDD, ăn uống
kém trong những tháng đầu sau đẻ dễ bị thiếu sữa hoặc mất sữa, do đó đứa con dễ

bị SDD [14][33].
- Trẻ mới sinh đã mang một dị tật bẩm sinh. Ví dụ: trẻ bị chứng hẹp ruột làm cho trẻ
cứ ăn vào là nôn ói ra, do đó các chất dinh dưỡng không được hấp thu vào cơ thể.
Hoặc trẻ bị một bệnh tim làm cho máu không thể lưu thông bình thường để nuôi
dưỡng cơ thể cho tốt được. Những dị tật đó cuối cùng sẽ dẫn đến trẻ bị SDD [33].
- Trẻ không được nuôi dưỡng một cách hợp vệ sinh nên dễ mắc phải các bệnh nhiễm
khuẩn như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng, … hoặc không
được chích ngừa (tiêm phòng) đầy đủ nên mắc phải lao phổi, ho gà, sởi, … cũng
dẫn đến trẻ bị SDD hoặc làm trầm trọng hơn tình trạng SDD hiện có của trẻ [33].
- Thiếu chăm sóc hay đứa trẻ bị bỏ rơi. Ngoài chăm sóc về ăn uống, sức khỏe, vệ
sinh, đứa trẻ cũng cần được chăm sóc về tâm lý, tình cảm.
- Trẻ nhẹ cân (<2500g), trẻ sinh đôi, sinh ba, gia đình đông con, điều kiện vệ sinh
kém, gia đình không hòa thuận cũng là những yếu tố dẫn đến SDD [14].
- Việc thiếu hiểu biết về phương pháp nuôi dưỡng trẻ sẽ dẫn đến trẻ thiếu ăn, bữa ăn
thiếu số lượng, thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển, đây cũng là
nguyên nhân chủ yếu của SDD ở trẻ dưới 5 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ cần nhu
cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể, để đáp ứng nhu cầu đó, cần cho trẻ ăn
uống đầy đủ theo lứa tuổi. Trẻ dưới 4 tháng tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn. Sữa mẹ
6
là thức ăn lý tưởng của trẻ do sữa mẹ có đủ năng lượng từ các chất dinh dưỡng cần
thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin, muối khoáng với tỷ lệ thích hợp cho sự hấp thu
và phát triển của trẻ, phòng được SDD; sữa mẹ là dịch thể sinh học tự nhiên chứa
nhiều chất kháng khuẩn, tăng cường miễn dịch cho trẻ; sữa mẹ có tác dụng chống
dị ứng; cho con bú bằng sữa mẹ thuận lợi và kinh tế; nuôi con bằng sữa mẹ có điều
kiện gắn bó tình cảm mẹ con; cho con bú cũng góp phần hạn chế sinh đẻ. Từ tháng
thứ 5 trẻ bắt đầu ăn thêm ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi này, thực hành nuôi dưỡng
trẻ có ý nghĩa quan trọng đối với SDD. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ăn bột muối, thức
ăn sam (dặm) thiếu dầu mỡ, thức ăn động vật, rau xanh, hoa quả. Đây là những tập
quán nuôi con chưa hợp lý cần được khắc phục. Mặc khác, để đảm bảo nhu cầu
dinh dưỡng, trẻ cần được ăn nhiều bữa trong ngày vì trẻ nhỏ không thể ăn một lần

với khối lượng lớn như trẻ lớn hoặc người lớn trong khi nhu cầu dinh dưỡng tính
theo trọng lượng cao hơn so với người lớn. Điều này có liên quan đến vấn đề chăm
sóc trẻ. Trẻ từ 6-24 tháng, thời kỳ trẻ có nhu cầu dinh dưỡng cao, thời kỳ thích ứng
với môi trường, thời kỳ nhạy cảm với bệnh tật. Trẻ từ 2-3 tuổi cần đảm bảo cung
cấp cho trẻ đủ 4 nhóm thực phẩm chính. Giai đoạn trẻ được 4 tuổi, các vấn đề dinh
dưỡng cần được đảm bảo về chất và về lượng. Bước sang tuổi thứ 5, tuy rằng sự
phát triển của trẻ có chậm hơn so với khi mới sinh hay ở độ tuổi mẫu giáo, nhưng
trẻ vẫn cần một chế độ dinh dưỡng cao. Dinh dưỡng của trẻ ở độ tuổi này không
những phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu về chất, về lượng mà còn phải phù hợp với
khẩu vị của trẻ, vì vậy việc quan tâm đến bữa ăn chính, bữa ăn phụ của trẻ ở tuổi
này là rất quan trọng [1][4].
1.1.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán
SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi diễn biến khá phức tạp. Những dấu hiệu ban đầu của
SDD thường khó phát hiện, thấy được khi đã muộn. Vì vậy, đánh giá tình trạng dinh
dưỡng cần theo dõi sự phát triển của trẻ thường xuyên và đều đặn. Tình trạng dinh
dưỡng của trẻ thể hiện qua các số đo kích thước cơ thể.
7
1.1.5.1. Phân loại theo F.Gomez (1956):
- Thiếu dinh dưỡng độ I: Đạt 75 - 90 % cân nặng chuẩn.
- Thiếu dinh dưỡng độ II: Đạt 60 - 75% cân nặng chuẩn.
- Thiếu dinh dưỡng độ III: Đạt dưới 60% cân nặng chuẩn.
Cách phân loại này đơn giản, dễ áp dụng, tuy nhiên không phân biệt được thiếu
dinh dưỡng mới xảy ra hay từ lâu.
1.1.5.2. Phân loại theo Waterlow J.C (1976):
Phối hợp 2 chỉ tiêu là chiều cao và cân nặng.
Bảng 1.1. Phân loại theo Waterlow J.C năm 1976
Cân nặng/chiều cao (80% hay - 2SD)
Trên Dưới
Chiều cao/tuổi
(90% hay - 2SD)

Trên Bình thường TDD
Dưới TTDD còi cọc
TTDD nặng kéo dài
(Gầy còm + thấp còi)
Suy dinh dưỡng gầy còm là suy dinh dưỡng cấp tính. Suy dinh dưỡng còi cọc là
biểu hiện suy dinh dưỡng trường diễn và đã chịu suy dinh dưỡng từ lâu.
1.1.5.3. Phân loại theo tổ chức Y tế thế giới (2005)
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em được đánh giá theo quần thể tham chiếu
WHO (2005) với giá trị Z-Score được tính theo công thức sau:
Z - Score =
Trong đó: X: kích thước thực tế đo.
M: số trung bình của quần thể tham chiếu.
SD: độ lệch chuẩn của quần thể.
Bảng 1.2. Phân loại theo tổ chức Y tế thế giới (2005).
Cân nặng/tuổi Chiều cao/tuổi Cân nặng/chiều cao
< - 2SD: Nhẹ cân
< - 3SD: Nhẹ cân trầm
< - 2SD: Thấp còi
< - 3SD: Thấp còi trầm
< - 2SD: Gầy còm
< - 3SD: Gầy còm trầm
8
trọng trọng trọng
Cân nặng/tuổi (CN/T) phản ánh tình trạng nhẹ cân là chỉ số đánh giá tình trạng
dinh dưỡng thông dụng từ năm 1950. Chỉ số này để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của
cá thể hay cộng đồng. Nhẹ cân chỉ là một đặc tính chung của tình trạng thiếu dinh
dưỡng nhưng không cho biết đặc điểm cụ thể đó là loại SDD mới xảy ra hay đã tích lũy
từ lâu. Chỉ số này nhạy và có thể quan sát trong một thời gian ngắn [14].
Chiều cao/tuổi (CC/T) biểu hiện tình trạng SDD trong quá khứ. Thấp còi được
được xem là hậu quả của tình trạng thiếu ăn hoặc mắc các bệnh nhiễm khuẩn tái diễn.

Đồng thời nó cũng phản ánh hậu quả của vệ sinh môi trường kém và SDD sớm. Tuy
nhiên chỉ số này không nhạy vì sự phát triển chiều cao là từ từ, các yếu tố ảnh hưởng
đến sự phát triển chiều cao xảy ra trước khi chiều cao bị ảnh hưởng, như vậy khi thấy
trẻ có chiều cao thấp thì đã muộn. Tỷ lệ trẻ em bị thấp còi được xem là chỉ số đánh giá
tình trạng đói nghèo. Đây là chỉ tiêu tốt để đánh giá sự cải thiện của điều kiện kinh tế,
xã hội. Thông thường ở các nước đang phát triển, tỷ lệ thấp còi tăng nhanh sau 3 tháng
tuổi, đến 3 tuổi tỷ lệ này ổn định sau đó chiều cao trung bình đi song song với chiều
cao tương ứng của quần thể tham khảo [14].
Gầy còm là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại hay nói cách khác nó
biểu hiện tình trạng SDD cấp tính, do vậy cần phải ưu tiên can thiệp [14]. CN/CC thấp
chính là sự thiếu hụt khối cơ thể (khối nạc, mỡ, xương) khi so sánh với đứa trẻ có cùng
chiều cao (hay chiều dài). CN/CC thấp phản ánh cao sự không tăng cân hay mất cân
nếu so sánh với trẻ có cùng chiều cao. Nó còn phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm
khuẩn, là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này. Tỷ lệ CN/CC thấp thường
gặp ở trẻ 12 - 24 tháng tuổi, thời kỳ này trẻ hay mắc bệnh và thiếu ăn do thiếu chăm
sóc. SDD cấp tính tiến triển rất nhanh ở trẻ em bị sụt cân hoặc không tăng cân. Chỉ số
CN/CC có ưu điểm là không biết tuổi của trẻ, vì vậy có thể tránh được một dữ liệu
(tính tuổi) đôi khi rất khó thu thập hoặc không chính xác. Đồng thời chỉ số này còn có
9
một ưu điểm là không phụ thuộc vào yếu tố dân tộc, vì trẻ em dưới 5 tuổi có thể phát
triển như nhau trên toàn cầu [2].
1.2. Tình hình suy dinh dưỡng trên thế giới và trong nước
1.2.1. Tình hình suy dinh dưỡng trên thế giới
Theo WHO năm 2007, tỷ lệ SDD của trẻ em ở các nước đang phát triển là
19.3%, ở các nước Đông Nam Á là 18.3% [34]. Theo số liệu năm 2010 của WHO, trên
toàn cầu có khoảng 171 triệu trẻ em bị còi cọc do không đủ lương thực, chế độ ăn uống
thiếu vitamin và khoáng chất, thiếu chăm sóc y tế còn ỷ lệ trẻ thấp còi cao nhất ở Châu
Phi (38,2%) và Châu Á (27,6%) [37]. Còn ở thể gầy còm (một dạng SDD nặng, hệ quả
của thiếu dinh dưỡng cấp tính và bệnh tật đi kèm) theo ước tính có khoảng 1,5 triệu trẻ
em tử vong do SDD ở thể này [16].

1.2.2. Tình hình suy dinh dưỡng ở Việt Nam
Tại Việt Nam, vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tỷ lệ SDD là trên 50%, năm 1995
là 44.9%. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh Dưỡng từ năm 1999 tới năm 2010, tỷ lệ
SDD trẻ em đã giảm đi một cách rõ rệt (biểu đồ 1.1), tốc độ giảm SDD trong những
năm qua khoảng 1,5% một năm và Việt Nam được coi là một quốc gia duy nhất trong
khu vực đạt tốc độ giảm SDD nhanh theo tiến độ của WHO và UNICEF. Tuy vậy Việt
Nam vẫn còn nằm trong số 36 quốc gia có tỷ lệ SDD thể thấp còi cao trên phạm vi
toàn cầu [25].
Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, đối với nước ta, các bệnh SDD đã làm
giảm khoảng 2,4% mức gia tăng GDP hàng năm nếu chỉ đơn thuần tính đến lý do làm
giảm năng suất lao động. Sự thiệt hại này còn chưa kể đến giảm sút về tri thức do thiếu
dinh dưỡng trong thời kỳ thơ ấu hoặc do chi phí cho chăm sóc nuôi nấng. Những thiệt
hại về kinh tế do SDD chủ yếu là vì năng suất lao động kém ở người trưởng thành do
đã bị SDD [24].
10
Biểu đồ 1.1. Diễn biến SDD trẻ em < 5 tuổi trên toàn quốc (1999-2011) [31]
Nhìn chung, tỷ lệ SDD ở trẻ dưới 5 tuổi từ năm 1999 đến năm 2011 ở Việt Nam
có xu hướng giảm. Tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân giảm từ 36.7% năm 1999 xuống còn
16.8% năm 2011. Tỷ lệ trẻ SDD thể thấp còi năm 1999 là 38.7% tới năm 2011 còn
27.5%. Điều đó cho thấy chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em đã được ngành y tế triển khai
đồng bộ với các hoạt động chữa bệnh kết hợp với phòng bệnh, các chỉ tiêu giảm SDD
trẻ em luôn được ghi nhận trong các chỉ tiêu phát triển xã hội của nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc, chỉ tiêu của Quốc hội và nhận được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ của
chính quyền các cấp. Từ năm 1994, Chương trình Phòng chống SDD đã bắt đầu được
triển khai dưới chỉ đạo của Bộ Y Tế [30]. Chương trình này cũng nhận được nhiều sự
hỗ trợ và phối hợp của các tổ chức quốc tế như quỹ cứu trợ Nhi đồng Liên hợp quốc đã
hỗ trợ gần 100 triệu viên nang Vitamin A cho chương trình, các hỗ trợ về kỹ thuật cũng
được đẩy mạnh, đồng thời có những phối hợp trong việc xây dựng một số mô hình
điểm tại các vùng khó khăn của Việt Nam trong 10 năm trở lại đây. Chính phủ Nhật
Bản thông qua quỹ giảm nghèo và ngân hàng phát triển châu Á cũng có những tài trợ

cho 18 tỉnh khó khăn để mở rộng đối tượng trẻ em được uống Vitamin A theo phác đồ
11
của WHO, đồng thời tẩy giun miễn phí cho trẻ em 24-60 tháng tuổi tại 18 tỉnh khó
khăn từ năm 2007 đến nay. Chính phủ Hà Lan, Cộng đồng Châu Âu cùng với các tổ
chức như Quỹ cứu trợ Nhi đồng Anh (SCUK), Quỹ cứu trợ Nhi đồng Mỹ (SCUS), Tổ
chức PLAN International và các tổ chức khác cũng đã tiến hành nhiều can thiệp nhằm
hỗ trợ các vùng nghèo nâng cao các hoạt động dinh dưỡng tại cộng đồng [29].
Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ SDD ở các vùng trên toàn quốc năm 2010 (%) [28]
Tỷ lệ SDD các thể ở trẻ dưới 5 tuổi năm 2010 còn cao và có sự khác nhau giữa
các vùng trong cả nước. Ở SDD thể nhẹ cân, Tây Nguyên là khu vực có tỷ lệ cao nhất
(24.7%), khu vực Đông Bắc Bộ có tỷ lệ thấp nhất (10.7%), trong khi đó, tỷ lệ SDD ở
thể này trong cả nước là 17.5%. Ở SDD thể thấp còi, Trung du và miền núi phía Bắc là
khu vực có tỷ lệ thấp nhất (19.2%), khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ cao nhất, và tỷ lệ này
của cả nước là 29.3%. Khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tỷ lệ cao nhất
(11.1%), Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ thấp nhất (6.1%), cả nước là 7.1% ở
trẻ SDD thể còi cọc. Nhìn chung ta thấy tỷ lệ SDD ở các thể có sự chênh lệch lớn về tỷ
lệ giữa ở khu vực cao nhất và thấp nhất so với cả nước, điều đó có thể là do sự quan
tâm về vấn đề y tế của các cơ quan ban ngành không đồng đều giữa các vùng hay do có
sự khác biệt vị trí địa lý, phong tục, tập quán, thói quen ăn uống, sinh hoạt, …
12
1.2.3. Tình hình suy dinh dưỡng ở đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ
Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD các tỉnh ĐBSCL năm 2010 của Viện dinh dưỡng [28]
Khu vực
SDD cân/tuổi
(%)
SDD cao/tuổi
(%)
SDD cân/cao
(%)
Toàn quốc 17.5 29.3 7.1

ĐBSCL 16.8 28.2 11.1
Cần Thơ 13.9 26.4 6.2
Long An 14.4 24.5 6.6
Tiền Giang 15.6 28.1 9.5
Bến Tre 16.3 26.9 6.4
Trà Vinh 19.3 28.9 7.6
Vĩnh Long 18.8 28.9 7.2
Đồng Tháp 17.3 29.8 7.5
An Giang 17.0 28.7 7.1
Kiên Giang 17.3 26.9 6.5
Hậu Giang 16.4 31.0 7.4
Sóc Trăng 18.3 29.9 9.1
Bạc Liêu 17.0 28.8 7.5
Cà Mau 17.2 28.6 7.8
Nhìn chung, tỷ lệ SDD của trẻ dưới 5 ở ĐBSCL vào năm 2010 còn cao, so với
cả nước thì tỷ lệ trẻ nhẹ cân thấp hơn 0.7%, tỷ lệ trẻ thấp còi thấp hơn 1.1% nhưng tỷ lệ
trẻ SDD thể còi cọc cao hơn cả nước 4%, đây là một con số đáng báo động nên các cơ
quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể cần phải có một cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề
này để cải thiện tình trạng dinh dưỡng ở ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung.
Tỷ lệ trẻ SDD của các tỉnh/thành trong khu vực ĐBSCL có sự khác nhau. Ở
SDD thể nhẹ cân, Trà Vinh (19.3%) là tỉnh có tỷ lệ cao nhất, Cần Thơ (13.9%) có tỷ lệ
thấp nhất. Ở SDD thể thấp còi, Hậu Giang (31%), Sóc Trăng (29.9%), Đồng Tháp
(29.8%) là các tỉnh có tỷ lệ cao nhất, Long An (24.5%) là tỉnh có tỷ lệ thấp nhất. Còn ở
SDD thể còi cọc, tỉnh Sóc Trăng (9.1%) có tỷ lệ cao nhất, Cần Thơ (6.2%) là tỉnh có tỷ
lệ thấp nhất.
13
Tỷ lệ SDD các thể của trẻ em dưới 5 tuổi ở thành phố Cần Thơ so với cả nước
và ĐBSCL đều thấp hơn. Điều đó có thể do Cần Thơ là thành phố duy nhất ở ĐBSCL
là thành phố trực thuộc Trung ương nên có nhiều điều kiện hơn để phát triển kinh tế và
hệ thống y tế, người dân sẽ tiếp cận với dịch vụ chăm sóc y tế tốt hơn, thuận lợi hơn, dễ

dàng hơn. Ở SDD thể nhẹ cân, Cần Thơ là tỉnh có tỷ lệ thấp nhất (13.9%) trong các
tỉnh thuộc khu vực, thấp hơn tỷ lệ cả nước là 17.5%, đồng bằng sông Cửu Long là
16.8%. Ở SDD thể thấp còi, Cần Thơ là tỉnh có tỷ lệ thấp thứ 2 trong khu vực (26.4%)
sau tỉnh Long An, thấp hơn so với khu vực (28.2%) và cả nước (29.3%). Cần Thơ cũng
là tỉnh có tỷ lệ thấp nhất (6.2%) trong khu vực, thấp hơn so với tỷ lệ của khu vực
(11.1%) và cả nước (7.1%) ở SDD thể còi cọc.
1.2.4. Tổng hợp một số nghiên cứu về tình trạng suy dinh dưỡng và các yếu tố liên
quan đã được thực hiện
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Cẩm Tú thực hiện tại xã Mỹ An, huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp năm 2009 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi là 26.3%.
Những người mẹ có trình độ học vấn dưới cấp II làm tăng nguy cơ SDD trẻ em gấp 4.6
lần so với những bà mẹ có học vấn từ cấp II trở lên (p = 0.001). Có 52.2% trẻ SDD ở
những gia đình được địa phương xếp vào hộ nghèo nhưng chỉ có 24.2% trẻ SDD ở
những hộ không nghèo (p = 0.003). Ở những gia đình có 5 thành viên, tỷ lệ SDD trẻ
em chiếm cao nhất 39.7%, còn ở những gia đình 4 người tỷ lệ SDD thấp nhất 17.1% (p
= 0.004). Trẻ bú mẹ không đúng làm tăng nguy cơ SDD cao gấp 5 lần so với trẻ bú mẹ
đúng (OR = 5, 95% CI = 2.8-9.0). Ở trẻ có cân nặng lúc sinh dưới 2500 gr làm tăng
nguy cơ SDD trẻ em gấp 3.8 lần so với trẻ có cân nặng lúc sinh từ 2500 gr trở lên (OR
= 3.8, 95% CI = 1.3-11.7). Những trẻ đã bị bệnh tiêu chảy có nguy cơ bị SDD cao hơn
trẻ chưa bị bệnh tiêu chảy 4.6 lần (OR = 4.6, 95% CI = 2.5-8.5). Những trẻ bị tiêu chảy
trong tháng qua có nguy cơ bị SDD cao hơn trẻ không bị tiêu chảy trong tháng qua là
4.3 lần (OR = 4.3, 95% CI = 2.3-7.9). Những trẻ đã từng bị bệnh nhiễm khuẩn hô hấp
có nguy cơ bị SDD cao hơn trẻ chưa bị bệnh nhiễm khuẩn hô hấp 1.9 lần (OR = 1.9,
14
95% CI = 1.0-3.4). Những trẻ bị bệnh nhiễm khuẩn hô hấp trong tháng qua có nguy cơ
bị SDD cao hơn trẻ không bị bệnh nhiễm khuẩn hô hấp trong tháng qua là 2.1 lần (OR
= 2.1, 95% CI = 1.2-3.7) [21].
Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Văn Chiến năm 2011 tại huyện Vũng Liêm, tỉnh
Vĩnh Long cho thấy tỷ lệ SDD khu vực nghiên cứu tương đối cao so với tỷ lệ SDD
chung toàn quốc, cụ thể là 19.5% (CN/T), 32.8% (CC/T), 11.6% (CN/CC). Nghiên cứu

cũng cho thấy so với trẻ bình thường nguy cơ bị SDD của trẻ bị SDD bào thai cao gấp
4.23 lần (OR = 4.23, 95% CI = 1.89-9.37) ; của trẻ bị tiêu chảy cao gấp 2.73 lần (OR =
2.73, 95% CI = 1.82-4.07); của trẻ bị ho gấp 2.35 lần (OR = 2.35, 95% CI = 1.58-3.05).
Liên quan giữa đặc điểm mẹ với tình trạng SDD của trẻ: con của các bà mẹ ≥ 30 tuổi
có nguy cơ bị SDD cao hơn con của các bà mẹ có tuổi dưới 30 là 1.64 lần (OR = 1.64,
95% CI = 1.09-2.49); trình độ học vấn ≤ THCS gấp 3.65 lần (OR = 3.65, 95% CI =
1.95-7.47); của hộ nghèo gấp 1.65 lần (OR = 1.65, 95% CI = 1.00-2.67). Liên quan
giữa thực hành về chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ với tình trạng SDD của trẻ: con của các
bà mẹ không đúng khi mang thai có nguy cơ bị SDD cao hơn con của các bà mẹ đi ăn
uống đúng khi mang thai gấp 0.75 lần (OR = 0.75, 95% CI = 0.45-1.21); của bú sau
sinh không đúng gấp 1.12 lần (OR = 1.12, 95% CI = 0.77-1.67) [5].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức Độ tại thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cho
thấy cho thấy tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi tại địa bàn nghiên cứu là 12.9 % (CN/T), 17.1%
(CC/T), 4.6% (CN/CC). Một số yếu tố liên quan tới tình trạng SDD (p < 0,05) tại đây
là (Bảng 1.2.) [6]:
Bảng 1.4. Các yếu tố liên quan đến SDD trẻ theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Độ
năm 2011 [6].
Yếu tố liên quan tới tình trạng SDD
trẻ
OR SDD
CN/T
OR SDD
CC/T
OR SDD
CN/CC
Trẻ gái có nguy cơ SDD cao hơn
trẻ trai
1.52
(1.33-1.70)
1.63

(1.48-1.79)
1.64
(1.30-1.98)
15
Trẻ ở độ tuổi từ 24-<60 tháng
có nguy cơ SDD cao hơn trẻ từ
1-<24 tháng
2.74
(2.28-3.21)
2.12
(1.11-1.38)
3.18
(2.40-3.97
Trẻ được cho ăn dặm trước 6 tháng
tuổi có nguy cơ SDD cao hơn trẻ ăn
dặm sau 6 tháng
1.52
(1.33-1.70)
1.34
(1.17-1.51)
1.18
(0.91-1.45)
Trẻ được ăn 1-2 nhóm thực phẩm có
nguy cơ SDD cao hơn trẻ được ăn 3-4
nhóm thực phẩm
2.77
(2.57-2.98)
2.56
(2.34-2.78)
2.73

(2.41-3.04)
Bà mẹ mù chữ và cấp I có nguy cơ
SDD cao hơn bà mẹ có học vấn cấp II
trở lên
2.26
(1.93-2.59)
2.56
(2.31-2.82)
2.36
(1.74-2.98)
Bà mẹ từ 40 trở lên sinh, trẻ có nguy
cơ SDD cao hơn bà mẹ dưới 40
tuổi sinh
1.68
(1.46-1.90)
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Trường Lạc, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Người được phỏng vấn là mẹ hoặc người chăm sóc chính của những trẻ
được chọn.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
• Trẻ:
Có ngày sinh từ ngày 01/10/2007 đến ngày 30/09/2012 có mặt tại địa bàn trong
thời điểm nghiên cứu.
Nếu bà mẹ có nhiều con dưới 5 thì chọn tất cả và tăng cỡ mẫu dự kiến bằng với
số trẻ đã chọn thêm.
• Mẹ hoặc người chăm sóc chính của trẻ:
16
Mẹ hoặc người chăm sóc chính của các trẻ được lựa chọn.

Thường trú tại địa phương 1 năm trở lên.
Không bị tâm thần, không bị rối loạn trí nhớ, câm, điếc.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Trẻ không rõ ngày, tháng, năm sinh.
Đối tượng phỏng vấn không hợp tác, từ chối phỏng vấn hoặc không cho cân,
đo trẻ.
Đến nhà 3 lần nhưng không gặp ai.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.
2.2.2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính toán cho một nghiên cứu mô tả cắt ngang và kiểm định một
tỷ lệ của dân số theo công thức sau:
n = z
2
1 - α/2
.
Trong đó:
n = Mẫu nghiên cứu
p = Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử
dụng p = 12.80% (theo báo cáo tỷ lệ SDD của trẻ dưới 5 tuổi của trạm Y tế xã Trường
Lạc, quận Ô môn, thành phố Cần Thơ 10 tháng đầu năm 2012) [20].
z
1 - α/2
= 1,96 là ước lượng khoảng tin cậy dùng trong nghiên cứu, mức tin
cậy chúng ta luôn mong muốn là 95% với mức ý nghĩa thống kê α = 0,05.
d : là sai số cho phép, chọn d = 0,05.
Thay vào công thức ta có:
n = 1,96
2

.
n = 171,51
17
Như vậy, cỡ mẫu trong nghiên cứu là 172 trẻ. Đồng thời để dự phòng
hao hụt chúng tôi lấy thêm 20% trẻ, do vậy tổng số trẻ trong nghiên cứu này là 207 trẻ.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống, thực hiện qua 3 bước:
- Bước 1: Lập danh sách đối tượng phù hợp tiêu chuẩn phỏng vấn (N) theo từng
khu vực từ khu vực 1 đến khu vực 12.
- Bước 2: Tính hệ số k = N/n.
- Bước 3: Chọn ngẫu nhiên 1 trẻ trong khoảng từ 1 đến k, sau đó chọn các đối
tượng nghiên cứu tiếp theo với khoảng cách k đến khi đủ cở mẫu.
2.2.4. Phương pháp đo lường các biến số
Các chỉ số nghiên cứu được thu thập theo sơ đồ sau:
18
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ nghiên cứu
2.2.4.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi
SDD của trẻ là biến số không liên tục với 2 giá trị: có và không. Đề tài này sử
dụng số đo nhân trắc để đánh giá tình trạng SDD trẻ em, không sử dụng các chỉ số xét
nghiệm sinh hóa hay các dấu hiệu lâm sàng để đánh giá. Theo khuyến nghị của Tổ
chức Y tế thế giới đề tài đã sử dụng các chỉ số thường dùng là cân nặng theo tuổi, chiều
cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao. Tuy nhiên chỉ tập trung nghiên cứu vào tỷ lệ
SDD thể nhẹ cân vì tỷ lệ này nhạy và có thể quan sát trong một thời gian ngắn ở cộng
đồng . SDD đươc ghi nhận khi các chỉ số nói trên thấp hơn 2 độ lệch chuẩn (< - 2SD).
Thang phân loại như sau:
Cân nặng theo tuổi: (xác định mức độ SDD thể nhẹ cân)
- Độ I: từ dưới - 2SD đến - 3SD.
- Độ II: từ dưới - 3SD đến - 4SD.
- Độ III: từ dưới - 4SD.
Chiều cao theo tuổi: (xác định mức độ SDD thể thấp còi)

- Độ I: từ dưới - 2SD đến - 3SD.
- Độ II: từ dưới - 3SD.
Cân nặng theo chiều cao: (xác định mức độ SDD thể gầy còm)
- Từ dưới - 2SD là SDD.
Khi cả 2 tiêu chí cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi đều thấp hơn
ngưỡng đề nghị, đứa trẻ bị SDD thể phối hợp, vừa gầy còm, vừa thấp còi.
2.2.4.2. Các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ:
Thông tin chung của mẹ và trẻ:
- Tuổi mẹ được tính theo tuổi dân số (tròn năm) chia thành 4 nhóm:
+ Dưới 25 tuổi.
+ Từ 25 đến dưới 35 tuổi.
+ Trên 35 tuổi.
- Dân tộc là biến số định tính gồm các giá trị:
+ Kinh.
19
+ Hoa.
+ Khơme.
+ Dân tộc khác.
Đối tượng có thể chọn một trong những lựa chọn trên hoặc ghi rõ dân tộc khác
nếu có.
- Trình độ học vấn của mẹ (là cấp học cao nhất đã hoàn thành) là biến số định
tính gồm các giá trị:
+ Mù chữ.
+ Cấp I.
+ Cấp II.
+ Cấp III.
+ Trên cấp III (Trung học, cao đẳng, đại học, trên đại học).
Đối tượng có thể chọn một trong những lựa chọn trên.
- Nghề nghiệp của mẹ (nghề mang lại thu nhập chính):
+ Làm ruộng, làm vườn, chăn nuôi.

+ Công nhân.
+ Công nhân viên chức.
+ Buôn bán.
+ Làm thuê.
+ Nội trợ.
+ Khác: ngoài các nghề nghiệp kể trên (ghi rõ).
Đối tượng có thể chọn một trong những lựa chọn trên và ghi rõ lựa chọn khác
nếu có
- Kinh tế gia đình (xếp theo loại của địa phương dựa vào quyết định số
09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của thủ tướng chính phủ về việc ban hành
chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015) là biến số định
tính gồm các giá trị [18]:
+ Hộ nghèo.
+ Hộ cận nghèo.
+ Hộ không nghèo.
20
Đối tượng có thể chọn một trong những lựa chọn trên.
- Số con trong gia đình (số trẻ sinh ra hiện còn sống trong gia đình) là biến số nhị
giá gồm 2 giá trị:
+ Từ 1 đến 2 con.
+ Trên 2 con.
Đối tượng có thể chọn một trong những lựa chọn trên.
- Thứ tự con là biến số nhị giá gồm:
+ Con đầu.
+ Con thứ.
Đối tượng có thể chọn một trong những lựa chọn trên.
- Giới tính của trẻ là biến số nhị giá gồm:
+ Nam.
+ Nữ.
Đối tượng có thể thuộc một trong những lựa chọn trên.

- Cân nặng lúc sinh của trẻ là biến số định lượng, sau khi thu thập số liệu được
chia thành 2 nhóm:
+ Dưới 2.500 g.
+ Từ 2.500 g trở lên.
Đối tượng có thể thuộc một trong những nhóm trên.
- Tuổi của trẻ là biến số định, sau khi thu thập số liệu và tính tuổi trẻ bằng phần
mềm WHO Anthro thì được chia làm 5 nhóm:
+ ≤ 12 tháng.
+ Từ 13 đến 24 tháng.
+ Từ 25 đến 36 tháng.
+ Từ 37 đến 48 tháng.
+ Từ 49 đến 60 tháng.
Đối tượng có thể thuộc một trong những nhóm trên.
Thực hành chăm sóc thai của mẹ:
Thực hành đúng: khi bà mẹ trả lời có những câu hỏi dưới đây:
- Khám thai: có đi khám thai ≥ 3 lần/thai kỳ và do cán bộ y tế khám.
- Chế độ ăn trong thời gian mang thai: ăn nhiều hơn trước khi mang thai.
21
- Mức độ làm việc trong thời gian mang thai của bà mẹ: tùy theo sức khỏe cơ thể.
- Việc uống bổ sung viên sắt trong thời gian mang thai của bà mẹ: có uống viên
sắt loại 60 mg mỗi ngày để đề phòng bệnh thiếu máu khi mang thai.
- Cân nặng tăng trong thời gian mang thai trẻ của mẹ: tăng từ 10 đến
dưới 12 kg.
Thực hành không đúng: khi bà mẹ trả lời không những câu hỏi trên.
Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung:
Thực hành đúng: khi bà mẹ trả lời có những câu hỏi dưới đây:
- Thời gian trẻ bắt đầu được bú mẹ sau sinh: trong 1 giờ đầu sau sinh.
- Thời gian được bú sữa mẹ hoàn toàn: 6 tháng sau sinh.
- Thời gian cai sữa cho trẻ: ít nhất 18 tháng tuổi.
- Số bữa ăn dặm: cho ăn ít nhất 3-4 bữa mỗi ngày.

- Thực phẩm nuôi trẻ: đủ 4 nhóm thực phẩm (vd: gạo bột, thịt, cá, trứng, dầu mỡ,
rau quả).
- Chủng ngừa đúng, đủ các loại vacxin trong chương trình mở rộng (theo tháng
tuổi): xem sổ tiêm chủng.
- Uống vitamin A phòng mù lòa, tăng sức đề kháng cho trẻ: cho trẻ từ 6 - 36
tháng tuổi uống vitamin A 2 đợt mỗi năm.
Thực hành không đúng: khi bà mẹ trả lời không những câu hỏi trên.
Thực hành chăm sóc khi trẻ bị bệnh:
Thực hành đúng: khi bà mẹ trả lời có những câu hỏi dưới đây:
- Việc làm của mẹ khi trẻ bị bệnh: đưa trẻ đến trạm y tế.
- Cách điều trị khi trẻ bị tiêu chảy: cho trẻ uống Oresol khi trẻ bị tiêu chảy.
- Cho trẻ bú mẹ, ăn, uống nước khi trẻ bị tiêu chảy: nhiều hơn bình thường.
- Thời gian mẹ tìm cách hoặc tìm người chữa trị ho cho trẻ: ngay
trong ngày.
- Uống thuốc tẩy giun: cho trẻ uống thuốc tẩy giun phòng SDD khi trẻ được 24
tháng tuổi.
Thực hành không đúng: khi bà mẹ trả lời không những câu hỏi trên.
22
2.2.5. Phương pháp thu thập thông tin
2.2.5.1. Đo các chỉ số nhân trắc của các trẻ dưới 5 tuổi đã được lựa chọn
• Đo chiều dài trẻ [23]:
- Dụng cụ: Thước đo do Viện dinh dưỡng cấp. Dùng thước đo chiều dài nằm cho
trẻ dưới 2 tuổi (đặt trên mặt phẳng nằm ngang) và thước đo chiều cao đứng cho
trẻ trên 2 tuổi (đặt vuông góc với mặt phẳng nằm ngang) với độ chia tối thiểu
0,1 cm.
- Thao tác đo (2 điều tra viên hỗ trợ nhau):
+ Bỏ tất cả giầy, dép, mũ, … của trẻ.
+ Đối với trẻ dưới 2 tuổi, để trẻ nằm ngửa trên thước đo, đầu chạm sát một
cạnh của thước đo. Một người giữ đầu trẻ thẳng, mắt nhìn lên trần nhà, một
người giữ 2 đầu gối trẻ thẳng và đưa êke di động áp sát vào 2 gót bàn chân,

bàn chân thẳng đứng.
+ Đối với trẻ trên 2 tuổi, để trẻ đứng thẳng, quay lưng vào tường; đầu, 2 vai,
mông, bắp chân, gót chân áp sát vào tường. Mắt nhìn thẳng ra phía trước, 2
tay xuôi theo thân mình. Dùng êke di động áp sát đỉnh đầu và vuông góc với
thước đo.
+ Đọc kết quả theo đơn vị là cm, lấy tới một số thập phân.
• Cân trẻ [23]:
- Dụng cụ cân: sử dụng cân Nhơn Hòa của chương trình Dinh dưỡng Quốc gia
(độ chính xác 100g).
- Vị trí đặt cân: nơi bằng phẳng, thuận tiện để cân.
- Chỉnh cân: chỉnh cân về số 0 trước khi cân, kiểm tra độ nhạy của cân. Thường
xuyên kiểm tra độ chính xác của cân sau 10 lượt cân.
- Kỹ thuật cân:
+ Đối tượng mặc quần áo tối thiểu, bỏ dày dép, mũ nón và các vật nặng khác
trên người.
+ Trẻ đứng, ngồi hoặc nằm giữa cân, không cử động.
+ Người cân trẻ ngồi đối diện chính giữa mặt cân, khi cân thăng bằng đọc kết
quả theo đơn vị kg với 1 số thập phân.
23
2.2.5.2. Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ là mẹ của các trẻ đã được lựa chọn bằng bộ
phiếu phỏng vấn để thu thập các thông tin về đặc điểm chung của đối tượng nghiên
cứu và các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Bộ câu hỏi được điều tra thử trên 30 đối tượng nghiên cứu để kiểm tra độ tin cậy
và tính rõ ràng, nhất quán về nội dung bộ câu hỏi.
2.2.6. Phương pháp kiểm soát sai lệch
2.2.6.1. Sai lệch thông tin do điều tra viên và người được phỏng vấn
Tập huấn chi tiết thật kỹ lưỡng, thống nhất về nội dung điều tra, kỹ thuật chọn
mẫu, phương pháp cân, đo, kỹ năng phỏng vấn sâu.
Tổ chức điều tra thử 30 hộ để rút kinh nghiệm cân đo và phỏng vấn sau khi tập
huấn. Sau khi điều tra thử sẽ hiệu chỉnh lại bộ câu hỏi trước khi in chính thức.

Chỉ chọn và phỏng vấn từ đầu đến cuối 1 người trong hộ.
Bố trí các giám sát viên kiểm tra 50% hoạt động của các điều tra viên trong quá
trình điều tra tại các khu vực.
Kiểm tra tính hoàn tất của từng bộ câu hỏi sau khi phỏng vấn.
Chất lượng thông tin được kiểm soát bởi các giám sát viên.
2.2.6.2. Sai lệch thông tin do chọn mẫu
Định nghĩa rõ ràng đối tượng căn cứ vào tiêu chuẩn chọn và tiêu chuẩn loại trừ.
Tất cả đối tượng nghiên cứu đều được phỏng vấn, đối tượng nào vắng mặt lúc
phỏng vấn sẽ được hẹn để phỏng vấn ngày hôm sau.
2.2.6.3. Sai lệch hệ thống do đo lường
Chuẩn hóa dụng cụ: dùng quả cân chuẩn để kiểm tra cân (dùng quả cân 500g)
cứ cân 10 trẻ điều chỉnh cân bằng quả cân 1 lần.
2.2.7. Xử lý và phân tích số liệu
Mỗi phiếu điều tra sau khi phỏng vấn sẽ được kiểm tra ngay về tính hoàn tất và
tính phù hợp. Những phiếu không hoàn tất hoặc không phù hợp sẽ được phỏng vấn lại.
24
Nếu cần thiết, sẽ loại bỏ các phiếu có nhiều thông tin bị mất. Trong trường hợp này sẽ
tiến hành phỏng vấn thêm để đạt cỡ mẫu.
Nhập và xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 16.0.
Thống kê mô tả: tính tần số, tỷ lệ nếu là biến liên tục, các biến số (tuổi giới, cân
nặng lúc sinh, thời gian bú mẹ, bệnh tật, chủng ngừa, …)
Thống kê phân tích: dùng phép kiểm định χ
2
để kiểm định mối liên quan giữa
các yếu tố là trình trạng SDD trẻ em ở ngưỡng α = 0.05. Tính chỉ suất chênh OR với
khoảng tin cậy 95%.
Lập các bảng, biểu đồ để trình bày kết quả nghiên cứu.
2.3. Vấn đề y đức trong nghiên cứu
Đề tài được tiến hành với chủ thể đối tượng là trẻ em dưới 5 tuổi và mẹ của
những trẻ đã được chọn đang sống tại xã Trường Lạc, quận Ô môn, thành phố Cần Thơ

năm 2012. Tất cả những người tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện, đối tượng
điều tra có quyền từ chối trả lời phỏng vấn.
Trên cơ sở tiến hành đề tài để thu thập những dữ liệu cần thiết và để đảm bảo
vấn đề y đức chúng tôi chỉ đưa ra những câu hỏi mang tính chất nghiệp vụ và không
làm ảnh hưởng hoặc tác hại đến đối tượng được phỏng vấn. Toàn bộ dữ liệu thu thập
được giữ kín nhằm bảo vệ cho đối tượng được phỏng vấn, kể cả những hộ từ chối
không tham gia quá trình điều tra.
Nghiên cứu này không có bất cứ ảnh hưởng nào tới phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa, sức khỏe của địa phương.
Nghiên cứu này được thông báo cho chính quyền địa phương về quy mô và thời
gian tiến hành.
Đề cương nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng khoa học của trường, có xét
duyệt khía cạnh y đức, đảm bảo không vi phạm các yêu cầu về y đức trước khi tiến
hành nghiên cứu.
25
Chương 3
KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng phỏng vấn
Bảng 3.1. Đặc điểm dân số học của mẹ.
Đặc điểm của mẹ (n = 222) Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi < 25 tuổi 49 22,1
Từ 25 đến dưới 35 tuổi 134 60,4
≥ 35 tuổi 39 17,6
Số con Từ 1 đến 2 con 205 92,3
Trên 2 con 17 7,7
Dân tộc Kinh 212 95,5
Khơme 10 4,5
Trình độ học vấn Mù chữ 10 4,5
Cấp I 67 30,2
Cấp II 112 50,5

Cấp III 28 12,6
Trên cấp III 5 2,3
Nghề nghiệp Làm ruộng 48 21,6
Công nhân 52 23,4
Công nhân viên 16 7,2
Buôn bán 17 7,7
Làm thuê 18 8,1
Nội trợ 71 32,0
Kinh tế gia đình Hộ nghèo 40 18,0
Hộ cận nghèo 22 9,9
Hộ không nghèo 160 72,1
Đa số bà mẹ được khảo sát có độ tuổi từ 25 đến dưới 35 tuổi (60,4%).
Số con trong mỗi gia đình hiện nay chủ yếu từ 1 đến 2 con (92,3%).
Dân tộc kinh chiếm đa số 95,5%, còn lại là dân tộc Khome 4,5%.
Những bà mẹ có trình độ học vấn ở cấp II chiếm cao nhất 50,2% và chỉ có 2,3%
bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp III.

×