Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

VIỆC làm THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN bền VỮNG ở HUYỆN KINH môn TỈNH hải DƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.95 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN THỊ GƯƠNG
VIỆC LÀM THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ở HUYỆN KINH MÔN TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY
Ngành: Kinh tế chính trị
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội - 2014
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính toàn cầu, là mối
quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của bất cứ một quốc gia nào, đặc
biệt các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri
thức, hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa với xuất phát điểm là
nước nông nghiệp có tới 70% dân số sống ở nông thôn, gần một nửa lao động
đang làm việc ở nhóm ngành Nông - Lâm - Thủy sản thì việc ưu tiên hàng
đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người, vấn đề
việc làm và giải quyết việc làm, tạo thu nhập, nâng cao đời sống người lao
động cũng chính là nhiệm vụ xuyên suốt trong chương trình phát triển kinh tế
- xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Giải quyết việc làm
là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh
tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức
xúc của nhân dân”.
Kinh Môn có diện tích: 163 km2 là huyện có diện tích đứng thứ 4 toàn
tỉnh, với dân số: 163.256 người, mật độ dân số cao, so với mật độ bình quân
của các huyện miền núi cả nước (1.003 người/km2), là nơi đất chật người
đông, huyện có 25 đơn vị hành chính: 22 xã và 3 thị trấn. Huyện Kinh Môn
có vị trí khá đặc biệt phía Bắc giáp huyện Đông Triều - Quảng Ninh, phía
Nam và Đông Nam giáp huyện Kim Thành - Hải Dương và huyện An Dương


- Hải Phòng, phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Thủy Nguyên - Hải Phòng,
phía Tây và Tây Nam giáp huyện Nam Sách - Hải Dương, phía Tây và Tây
Bắc giáp thị xã Chí Linh - Hải Dương. Là một huyện của tỉnh Hải Dương
thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách Hà Nội khoảng 80 km giáp 2
cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang
1
tính liên vùng. Chính vì vậy, Kinh Môn vừa đóng vai trò là một trong những
động lực phát triển của tỉnh, trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp,
du lịch thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn
với định hướng phát triển Kinh Môn phấn đấu trở thành thị xã trước năm
2015.
Nghiên cứu vấn đề việc làm và tìm ra những giải pháp tạo việc làm ổn
định cho người lao động ở huyện Kinh Môn là vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả
về lý luận và thực tiễn, có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội
không chỉ của tỉnh mà còn của chính địa phương; giúp người lao động có một
cuộc sống ổn định, giàu có, hạnh phúc, một nông thôn mới hiện đại, hướng tới
xây dựng huyện Kinh Môn trở thành một thị xã công nghiệp với sự phát triển
kinh tế - xã hội một cách bền vững. Do đó tác giả luận văn đã chọn đề tài:
“Việc làm theo hướng phát triển bền vững ở huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương
hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giải quyết việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia
đặc biệt ở Việt Nam, vì vậy vấn đề này đã được chú ý nghiên cứu từ nhiều
năm nay. Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía
cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong đó có một số tác giả nghiên cứu
vấn đề chủ yếu theo các hướng sau:
Nghiên cứu giải quyết vấn đề việc làm theo hướng giải quyết việc làm
trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả đã làm rõ
thực trạng vấn đề việc làm trong quá trình toàn cầu hóa, đề xuất những chính
sách việc làm cụ thể:

- TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS. Trần Hữu Trung (chủ biên): “Về Chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.
Các tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp
2
cận chính sách việc làm, làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện
nay. Từ đó kiến nghị, định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong
công cuộc CNH, HĐH.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), “Toàn cầu
hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam”, Nxb Lao động - Xã
hội, Hà Nội 2002.
Các tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao
động và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của
nguồn nhân lực, lao động và việc làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu
hoá kinh tế; phân tích những cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp đối với lao
động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
- Các bài viết “Lao động việc làm thời kỳ 1991- 2000 và phương hướng
giai đoạn 2001- 2010” của TS. Lê Duy Đồng, Tạp chí Lao động và Xã hội,
số III- 2001; “WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động” của TS. Đinh
Trọng Thịnh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2005.
- “Việc làm và thu nhập của nông dân vùng Đông Nam Bộ dưới tác
động của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa” (Đề tài cấp Bộ năm 2010
của Học viện Chính trị - Hành chính khu vục II, do TS. Hoàng Thị Ngọc Loan
làm chủ nhiệm đề tài). Đề tài phân tích, đánh giá những tác động của quá
trình CNH, ĐTH tới phát triển KT-XH nói chung và tới việc làm, thu nhập
của người nông dân vùng Đông Nam bộ nói riêng; làm rõ vai trò của Nhà
nước, các chủ thể tạo việc làm và người lao động trong giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn của vùng Đông Nam bộ; phân tích tác động của một
số chính sách liên quan đến tạo việc làm cho nông dân. Từ đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm và tăng thu nhập nhằm hạn

3
chế những khó khăn, nâng cao đời sống kinh tế của người dân nông thôn
trong quá trình đẩy mạnh CNH, ĐTH và hội nhập kinh tế quốc tế ở vùng này.
Một số tác giả nghiên cứu vấn đề việc làm theo hướng phân theo khu
vực, các tác giả đã căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương để nghiên cứu
thực trạng việc làm và đưa ra chính sách giải quyết việc làm cụ thể cho các
địa phương như:
- “Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay”, Thạc
sỹ Bùi Thanh Thủy (Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội năm 2005).
- “Giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội” Công trình
nghiên cứu cấp Bộ của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia, Khu vực 1, 2010.
- Giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình CNH,
HĐH ở vùng trọng điểm kinh tế miền Trung (Qua khảo sát ở Quảng Nam và
Đã Nẵng), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2010.
- “Việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh
Hóa” Thạc sỹ Tạ Hữu Quang (Luận văn thực sỹ kinh tế, Học viện Báo chí và
tuyên truyền, Hà Nội năm 2012);
- “Việc làm cho nông dân nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa,
Đô thị hóa ở tỉnh Hà Tĩnh”, Thạc sỹ Phạm Khánh Hòa (Luận văn Thạc sỹ
kinh tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội năm 2012);
Một số tác giả nghiên cứu giải quyết vấn đề việc làm theo hướng căn
cứ vào chất lượng lao động, các tác giả cũng căn cứ vào điều kiện thực tế,
thực trạng việc làm của Việt Nam nói chung để phân tích tích hình việc làm
và đưa ra định hướng phát triển việc làm:
- Thạc sỹ Nguyễn Thị Lan Hương: “Thị trường lao động Việt Nam:
Định hướng và phát triển”, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi
từ việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ
4

đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam
giai đoạn 2001- 2010.
- “Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam
hiện nay”, Thạc sỹ Đinh Đặng Định (chủ biên), Nxb Lao động, Hà Nội, 2004.
- “Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay” GS.TS
Phạm Đức Thành, PGS.TS Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp (Tạp chí
Lao động và công đoàn, số 298 - 12/2003)
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Lê Thị Ngân.
Trong đó các tác giả đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề như: Kết quả
giải quyết việc làm, những mặt yếu kém và bất cập, phương hướng giải quyết
việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Tuy nhiên, cho đến nay dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị chưa có
đề tài dưới dạng luận văn khoa học nào đi sâu nghiên cứu vấn đề việc làm
theo hướng bền vững, đặc biệt ở Kinh Môn để tìm ra những giải pháp đồng
bộ, hữu hiệu. Việc nghiên cứu đề tài “ Giải quyết việc làm theo hướng bền
vững ở huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương hiện nay” dưới góc độ khoa học
kinh tế chính trị là cần thiết, có ý nghĩa khoa học cả về lý luận và thực tiễn do
Kinh Môn là huyện bán sơn địa nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Hải Dương,
một huyện tương đối đặc biệt so với các huyện khác của tỉnh vốn được mệnh
danh là huyện nông nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích:
Luận văn phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm ở huyện
Kinh Môn, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
việc làm theo hướng bền vững ở huyện Kinh Môn trong thời gian tới.
+ Nhiệm vụ:
5
- Hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan tới vấn đề việc làm
và giải quyết việc làm theo hướng bền vững.

- Phân tích kinh nghiệm giải quyết việc làm tại một số địa phương điển
hình tại Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm theo hướng bền
vững tại Kinh Môn thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường giải quyết việc làm theo hướng
bền vững ở huyện Kinh Môn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Giải quyết việc làm theo hướng phát triển bền vững tại huyện Kinh
Môn - Hải Dương
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn đề cập tới vấn đề tạo việc làm cho toàn bộ lực lượng lao
động nói chung do Trung ương, Tỉnh cũng như do Huyện quản lý đang sinh
sống và làm việc trên địa bàn huyện Kinh Môn. Tuy nhiên, có chú trọng bàn
đến nhiều hơn vấn đề tạo việc làm cho lao động do Huyện trực tiếp quản lý.
- Thực tiễn chính mà luận văn khai thác là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương thời kỳ đổi mới, cụ thể là từ 2005 đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam;
những chủ trương, chính sách của Nhà nước về việc làm được thể hiện qua
các Văn kiện Đại Hội Đảng và Hội Nghị Ban chấp hành TW Đảng khóa VI,
VII, X, XI có liên quan đến vấn đề Việc làm và giải quyết việc làm. Đồng
6
thời, luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học
đã được công bố có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp truyền thống: sử dụng phương pháp
của của nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đó là phương pháp phân

tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp kết hợp logic với lịch sử, phương pháp
trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học trên cơ sở lập phiếu điều tra về vấn đề cơ cấu
lao động chia theo thành phần kinh tế, số liệu điều tra lao động việc làm ở
một số địa phương trong huyện với mỗi nội dung có số lượng khoảng 180
mẫu trong khoảng thời gian 1 tháng, đối tượng là lao động tại các ngành công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ở mộ số xã như Hiệp Sơn, Thị trấn Minh Tân,
TT Phú Thứ, TT Kinh Môn, Quang Trung, Thất Hùng.
Nguồn số liệu: Chi cục thống kê cung cấp các số liệu liên quan tới vấn
đề việc làm, UBND huyện cung cấp báo cáo về tình hình kinh tế xã hội của
huyện, Phòng Lao động - Thương binh xã hội cung cấp các số liệu về việc
làm, các văn bản về các chính sách, chương trình giải quyết việc làm
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn tổng hợp một số vấn đề lý luận chung về việc làm và giải
quyết việc làm theo hướng phát triển bền vững.
- Phân tích, đánh giá đúng thực tiễn giải quyết việc làm ở huyện Kinh
Môn, trên cơ sở đó đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm tạo việc làm, thu hút
lao động theo hướng phát triển bền vững ở Kinh Môn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về
việc làm và giải quyết việc làm theo hướng bền vững.
7
- Về thực tiễn: đề xuất giải pháp giải quyết việc làm tại Kinh Môn, từ
đó có chính sách tổng thể của tỉnh Hải Dương cũng như địa phương giải quyết
việc làm theo hướng bền vững.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết

việc làm theo hướng phát triển bền vững.
Chương 2: Thực tiễn việc làm và giải quyết việc làm ở huyện Kinh
Môn tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm theo hướng
phát triển bền vững ở huyện Kinh Môn.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm theo
hướng phát triển bền vững
1.1.1. Một số vấn đề về việc làm
1.1.1.1. Khái niệm
- Lao động: Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống con người. Do đó
nó là hoạt động cơ bản nhất của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động
của con người với hoạt động theo bản năng của con vật. Lao động không những
tạo ra của cải mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về mặt
thể lực và trí lực. Các Mác khẳng định: Lao động trước hết là quá trình diễn ra
sự tác động giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên, một
quá trình trong đó, bằng sự hoạt động của chính mình, con người làm trung gian
điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào
tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con
người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó [1, tr. 230].
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống
xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động không giống nhau, nhưng
có liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người
với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao

động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội
về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế,
9
việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa
yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Việc Làm: Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng
quốc gia, việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm
về việc làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính
trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của mỗi quốc
gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng
chính trị của một quốc gia thay đổi, quan niệm việc làm cũng biến đổi. John
Maynad Keynes (1883 - 1946) nhà kinh tế học nổi tiếng của nước Anh - đã
viết: “Một nền kinh tế tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy về thực chất là nền kinh tế
trong đó những quan điểm luôn thay đổi về tương lai, có khả năng ảnh hưởng
tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm mà thôi”.
Theo Ghi- Hân- Tơ nhà kinh tế thuộc Viện Hải quan Luân Đôn thì:
Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội
nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của con người, kể cả
quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình
kinh tế.
Theo quan niệm này, tất cả các hoạt động, hành vi mang lại nguồn thu
nhập để đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều gọi là việc làm. Như vậy đã
đồng nhất việc làm hợp pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay không thể chấp nhận được quan niệm này, bởi khi các quan
hệ thị trường ngày càng phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều
nguồn thu nhập không chính đáng đang làm gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm
hãm sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Sônhin và phó tiến sỹ Grin- xốp người Nga quan niệm: Việc
làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội
có ích trong công việc nội trợ, hay trong kinh tế phụ của các nông trang viên.

10
Quan niệm này cho rằng tất cả những người có công việc ổn định trong
guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội, kể cả những người làm công việc nội
trợ, làm kinh tế phụ của nông trang viên, người đi học đều gọi là có việc làm.
Quan niệm này có ưu điểm là xác định lao động của người nội trợ và người
làm kinh tế phụ đều là việc làm, vì nó góp phần tạo ra thu nhập để trực tiếp
hoặc gián tiếp nuôi sống bản thân. Nhưng quan niệm này chưa chính xác khi
cho rằng những người đi học là có việc làm. Bởi vì những người đi học, ngay
cả học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp đều chưa có khả năng tạo ra
thu nhập để nuôi sống bản thân, các khoản chi tiêu của họ đều phụ thuộc vào
thu nhập của người khác, của xã hội. Đa số những người đi học trong độ tuổi
lao động nhưng không thuộc lực lượng lao động (học sinh phổ thông trung
học, học sinh các trường chuyên nghiệp). Sở dĩ có quan niệm như trên vì
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung của mô hình CNXH trước đây, học sinh,
sinh viên, các trường chuyên nghiệp đều được coi là người có việc làm vì sau
khi ra trường họ đều được phân công công tác, không có thất nghiệp.
Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của văn phòng lao động quốc tế lại
cho rằng: Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự
trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính chất
cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
Quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai quan niệm trên. Tuy
nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật mới
được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng
lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền
công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động
mà chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập từ các thành viên trong
gia đình. Họ không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu nhập trực tiếp, họ nhận
được thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập từ các thành viên trong
11
gia đình có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội. Vậy, họ là những người

có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng máy chỉ đạo xã hội - nghề
nội trợ.
Trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là
hợp pháp, chính đáng song cũng có việc làm tạo ra thu nhập nhưng lại được
coi là bất chính. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của
mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm
về việc làm hợp pháp phải là việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con
người - nghề hợp pháp - tương ứng với pháp luật của mỗi nước cho phép.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: “Người có việc làm
là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc
được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận
được tiền công hay hiện vật” [39, Tr.47]. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù
hợp với nền kinh tế thị trường, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do
đó, khái niệm này đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm của người lao động thường do nhà
nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc làm
được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp của nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với
quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hội
không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không
đầy đủ. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao động khi
họ cần việc làm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, quan niệm trên
về việc làm đã thay đổi. Quan điểm mới về việc làm được thể hiện ở Luật lao
12
động của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2002. Điều 13,
chương 2 (việc làm) của Luật qui định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ”. [4, Tr.163]

Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm đã xoá bỏ được
quan niệm cứng nhắc trước đây là chỉ những người “trong biên chế nhà
nước”mới là người có việc làm. Việc làm không chỉ trong biên chế, mà tất cả
những ai đang làm việc trong các thành phần kinh tế, trong các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại gia đình (kể cả nội
trợ) đều được coi là có việc làm.
Từ định nghĩa trên tác giả có thể đưa ra khái niệm về việc làm: Việc làm là
những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện KT - XH
ở Việt Nam hiện nay nó đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc
làm, mở ra một thị trường việc làm phong phú và đa dạng, thực hiện mục tiêu
giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, địa
phương và trong một thời kỳ nhất định người ta còn quan tâm đến các vấn đề
việc làm đầy đủ và thiếu việc làm…
- Một số khái niệm có liên quan
+ Dân số trong độ tuổi lao động: Là những người ở độ tuổi lao động
theo quy định của luật pháp. Ở Việt Nam hiện nay, theo Bộ luật Lao động quy
định độ tuổi lao động là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (với nam) và đủ 15
tuổi đến 55 tuổi (với nữ).
+ Người có việc làm: là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn
quy định cho người có việc làm là làm việc ít nhất 16 giờ trong một tuần.
13
+ Thất nghiệp:
Đối lập với việc làm, thất nghiệp là một tình trạng có tính quy luật của
các nền kinh tế thị trường. Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp.
Theo quan niệm của ILO: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người
trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm

ở mức tiền công đang thịnh hành”. Giải quyết thất nghiệp là một trong những
vấn đề bức xúc trong chính sách việc làm của mỗi quốc gia.
+ Thiếu việc làm: Thiếu việc làm vô hình là sự phân bổ không hợp lý
giữa sức lao động và các yếu tố khác của sản xuất. Công việc chưa phát huy
hết khả năng của người lao động. Trong trường hợp này, người lao động vẫn
có việc làm nhưng anh ta phải làm những việc ở những nơi mà năng suất lao
động thấp hơn mức trung bình, thu nhập từ việc làm mang lại thấp hơn mức
trung bình.
Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng người lao động không có đủ khối
lượng việc làm trong ngày công lao động và phải đi tìm việc khác hay nhận
việc làm bổ sung. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở nông thôn nhất là trong
những ngày tháng nông nhàn.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là người
trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho
người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
Ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu
việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 công) trong tuần lễ tham khảo hoặc trong
tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước
đó làm việc dưới 160 giờ (20 công) và có nhu cầu làm thêm.
Mục tiêu của giải quyết việc làm không chỉ dừng lại ở tạo công việc
đầy đủ cho mọi người lao động mà phải không ngừng nâng cao chất lượng
việc làm, tạo ra những công việc có giá trị cao, việc làm được tự do lựa chọn
14
và việc làm mang tính nhân văn để lao động không chỉ là phương tiện để sinh
sống mà còn là nhu cầu đầu tiên trong hoàn thiện nhân cách của mỗi người.
- Quan niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm cho người lao động gắn với sự phát triển của thị
trường lao động, có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn
góp phần giải quyết một vấn đề cấp thiết và cơ bản là chuyển đổi cơ cấu lao
động đáp ứng yêu cầu trong quá trình đổi mới. Ở nước ta, quá trình CNH,

ĐTH đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến việc làm và chính
sách giải quyết việc làm.
Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc
làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của
người lao động, nhằm đạt được việc làm phù hợp và có hiệu quả. Chính vì
vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người
lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản
thân và gia đình.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Cả số lượng và
chất lượng tư liệu sản xuất đều phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học,
kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng hiệu quả các tư
liệu sản xuất đó.
Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao
động phụ thuộc vào quy mô, tốc độ gia tăng dân số, các qui định về độ tuổi
lao động, sự di chuyển lao động; chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát
triển của giáo dục, y tế, thể dục thể thao và chất lượng chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng.
15
Ba là, thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc làm, từ
việc duy trì sự ổn định, đạt hiệu quả cao của việc làm, đến các giải pháp về
quản lý thị trường Giải quyết việc làm cần phải được xem xét cả ở phía
người lao động, người sử dụng lao động và cả vai trò của nhà nước.
Vì vậy, giải quyết việc làm là đưa ra, thực hiện triệt để tổng thể các
biện pháp, chính sách KT - XH từ vi mô đến vĩ mô để người lao động có thể
có việc làm.
1.1.1.2. Các tiêu chí về việc làm
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai

điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình.
Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và
đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo
ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại
dâm, Không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là
hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm - chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính
gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo, Nhưng nếu người phụ nữ
đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì
hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công.
1.1.1.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tạo việc làm
Thứ nhất là, điều kiện tự nhiên.
Những yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh
thái… có ảnh hướng rất lớn đến quá trình sinh sống, hoạt động và phát triển
của con người.
16
Điều kiện tự nhiên góp phần thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh. Thực
tiễn cho thấy nơi nào có điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ thu hút được vốn đầu
tư và tạo việc làm cho người lao động. Quá trình phát triển KT - XH phải gắn
với việc tăng trưởng và phát triển bền vững của đất nước.
Thứ hai là dân số và cơ cấu dân số.
Số lượng, tốc độ gia tăng và cơ cấu dân số có ảnh hướng lớn tới nguồn
lao động và giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Dân số, lao động và việc
làm là những vẫn đề có liên quan mật thiết lẫn nhau. Dân số tăng nhanh cũng
là một sức ép lớn trong quá trình tạo việc làm cho người lao động.
Dân số tăng nhanh dẫn tới việc phân bố dân cư không hợp lý, không
gắn kết được lao động với các nguồn lực khác. Đồng thời sẽ làm giảm ngân

sách cho đầu tư phát triển KT - XH, làm tăng chi tiêu cho tiêu dùng. Vì vậy,
đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng nguồn lao động,
giải quyết việc làm sẽ gặp nhiều khó khăn. Đây là bài toán khó nhưng bắt
buộc các địa phương phải cùng tìm ra hướng giải quyết hiệu quả để đưa đất
nước phát triển vững mạnh.
Thứ ba là trình độ tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang làm thay đổi
tính chất và nội dung nghề nghiệp của người lao động. Cách mạng công nghệ
đã dẫn đến việc sử dụng công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp nên lao động
trí óc dần dần đã thay thế lao động chân tay. Nếu trình độ học vấn, mặt bằng
dân trí được nâng cao thì năng lực làm việc của con người sẽ được mở rộng.
Tuy nhiên, theo C.Mác thì khi ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại thường dẫn đến tăng kết cấu hữu cơ tư bản và tăng năng xuất lao
động, mà: “Sự tăng năng xuất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lượng
lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt
động, hay là thể hiện ra ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá
trình lao động so với nhân tố khách quan của quá trình đó” [2, tr.877].
17
Ở nước ta hiện nay, trình độ công nghệ sử dụng trong các ngành kinh tế
lạc hậu so với trình độ trung bình tiên tiến trên thế giới từ 2 đến 3 thế hệ kỹ
thuật (không kể một số lĩnh vực mới như: dầu khí, viễn thông). Một số ngành
công nghiệp then chốt như cơ khí, chế tạo động cơ có trình độ công nghệ lạc
hậu 30-50 năm so với các nước phát triển trung bình. Vì vậy, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế mở và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm rút
ngắn khoảng cách lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước là con đường
tất yếu để phát triển nhanh nền kinh tế nước ta.
Nhưng hiện nay, việc đổi mới công nghệ lại mâu thuẫn với tiềm năng
nguồn lực về vốn ít và lực lượng lao động dồi dào. Quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đang đặt ra một vấn đề: lựa chọn công nghệ cần đổi mới
trong từng thời kỳ, từng giai đoạn như thế nào cho phù hợp. Ngành nào, khâu

nào, lĩnh vực nào cần lựa chọn trình độ công nghệ ra sao để vừa đáp ứng yêu
cầu hiện đại hoá sản xuất, vừa tận dụng được tiềm năng lao động để tăng việc
làm trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp đang là bài toán đặt ra trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư là cơ cấu kinh tế
Quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa cùng với việc thực hiện phân
công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan phải xây
dựng một cơ cấu kinh tế mới.
Sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường làm cho mâu thuẫn
giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt. Việc tổ chức lại lao động trên
phạm vi toàn xã hội, điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội cho phù hợp với cơ
cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tất sẽ dẫn đến
dư thừa lao động. Theo V.I. Lênin, thì sự phát triển kinh tế hàng hóa khiến
một bộ phậm ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân
khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống,
18
V.I.Lênin nhắc lại luận điểm của C.Mác: “Do bản chất của nó phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa không ngừng giảm bớt nhân khẩu nông nghiệp so
với nhân khẩu phi nông nghiệp, bởi vì trong công nghiệp (theo nghĩa hẹp của
danh từ này) việc tư bản bất biến tăng lên làm giảm tư bản khả biến thường
liên quan với sự tăng thêm tuyệt đối (dù là giảm bớt tương đối) của tư bản
khả biến, còn trong nông nghiệp thì ngược lại, tư bản khả biến cần thiết để
kinh doanh một khoảnh đất nhất định lại giảm bớt một cách tuyệt đối; do đó
tư bản khả biến chỉ có thể tăng thêm khi có những đất mới được canh tác, mà
điều này lại đòi hỏi rằng nhân khẩu phi nông nghiệp phải tăng lên nhiều hơn
nữa” [43, tr. 25].
Tạo việc làm cho người lao động phải lấy mục tiêu của sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế để xác định hướng phát triển. Để có một đội ngũ lao động đáp
ứng những việc làm đa dạng phù hợp với cơ cấu kinh tế mới, ngay từ khâu
đào tạo, bồi dưỡng, hướng nghiệp đến tổ chức nơi làm việc, cần phải nắm bắt

các cơ hội, đi tắt, đón đầu, hình thành những ngành kỹ thuật mũi nhọn, phát
triển theo trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Tạo việc làm tập
trung vào những khâu cần thiết và có thể thực hiện có hiệu quả các công nghệ
tiên tiến, đồng thời cải tiến công nghệ truyền thống nhằm tạo đà cho nền kinh
tế phát triển nhanh chóng ở những thập kỷ sau.
Thứ năm là thị trường sức lao động (gọi tắt là thị trường lao động)
Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong
lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất
như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội,
tranh chấp lao động ) ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là
người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động [18, tr.112].
Giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường về thực chất là giải quyết
mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường lao động. Cung về
19
lao động biểu hiện khối lượng lao động (số lượng, chất lượng và cơ cấu của
lực lượng lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất
định. Cầu về lao động là khả năng thuê lao động trên thị trường lao động.
Trên thị trường lao động, mức cung - cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp tới mức
tiền lương và ngược lại, sự thay đổi mức tiền lương cũng làm thay đổi cung - cầu
lao động, điều chỉnh quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường.
Khi cung lớn hơn cầu sẽ dẫn đến dư thừa lao động, làm gia tăng số
người không có việc làm và ngược lại. Trên thị trường lao động, cung cầu lao
động thường xuyên biến động và chịu sự tác động của nhiều yếu tố, tạo ra mâu
thuẫn giữa cung và cầu. Đối với nước ta hiện nay, trình độ phát triển kinh tế
còn thấp, khả năng mở rộng sản xuất có hạn trong khi nguồn lao động dồi dào,
tỷ lệ tăng cung lao động cao, cung lao động luôn lớn hơn cầu, dẫn đến sức ép
rất lớn về việc làm, đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp nhằm giải
quyết việc làm, giảm thất nghiệp để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ sáu là các chính sách vĩ mô của Nhà nước.
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo việc

làm, đồng thời điều chỉnh việc làm phù hợp với mục tiêu, trình độ phát triển
của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động.
Khi các chính sách vĩ mô của Nhà nước đúng đắn và thích hợp sẽ tạo ra
nhân tố, môi trường, động lực khuyến khích các chủ doanh nghiệp, chủ sử
dụng lao động mở rộng đầu tư nhằm thu lợi nhuận, tạo việc làm, khai thác tối
ưu mọi nguồn lực vào mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh và ngược lại.
Vì vậy, số lượng, chất lượng việc làm, khả năng tạo việc làm chính là một
trong những thước đo quan trọng biểu hiện trình độ hoạch định và tính khả
thi của hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước trong quản lý, điều hành
kinh tế - xã hội.
20
Ở nước ta, phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm cho người lao động
là chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách xã
hội của Đảng và Nhà nước ta. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng ta, vấn đề giải quyết việc làm được đặt biệt nhấn mạnh:
Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn thể nhân dân ra
sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế - xã
hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều
được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ
việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng
dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh - quốc phòng. Mở
rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ
lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn [5, tr.114 - 115].
Với quan điểm nhất quán về giải quyết việc làm, trong văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Giải quyết
việc làm là một chính sách xã hội cơ bản”, với các phương hướng: Bằng nhiều
giải pháp tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử
dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang

các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động.
Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng
chống thiên tai và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển
các làng nghề. Tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động và bảo vệ
quyền lợi của người lao động ở nước ngoài. Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo
hiểm xã hội và an sinh xã hội, xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối
với người lao động thất nghiệp [6, tr. 104 - 105].
Từ quan điểm và định hướng trên đây, Nhà nước ta đã có các chính
sách kinh tế xã hội chủ yếu tác động tới phát triển nguồn nhân lực và giải
21
quyết việc làm như: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; chính
sách khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu; chính sách tín dụng ưu đãi để
các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu
1.1.1.5. Vai trò của giải quyết việc làm đối với nền kinh tế
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình phát triển KT - XH. Khi nghiên cứu vai trò của sản xuất xã hội và
các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngen đã khẳng định:
sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội loài người và là hoạt
động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người.
Thực tiễn lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, muốn tiến
hành các hoạt động khác, trước tiên con người phải có của cải vật chất để nuôi
sống bản thân mỗi người. Vì vậy, đảm bảo nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và ổn định việc làm, phát huy nhân tố con người là một nhu cầu thiết yếu
trong quá trình CNH, ĐTH đất nước.
Giải quyết việc làm là cơ sở để phát triển KT - XH, góp phần thực hiện
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, ĐTH. Vì vậy, giải
quyết việc làm trách nhiệm của các cơ quan ban ngành, các tổ chức, doanh
nghiệp và bản thân người lao động. Điều đó có vai trò và ý nghĩa to lớn.
Một là, nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Hiện nay ở nước ta vẫn còn nhiều hộ nghèo đói, khó khăn, có thu nhập thấp

do thiếu việc làm, trình độ sản xuất kém. Do đó phải không ngừng tạo việc
làm, đưa khoa học công nghệ vào trong sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động, cải thiện cuộc sống cho người lao động. Giải quyết việc làm một cách
triệt để cho người lao động sẽ không những ổn định đời sống cho người nông
dân mà còn góp phần ổn định trật tự xã hội.
22
Hai là, giải quyết việc làm giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta xác định, để thực
hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải tạo ra sự thay đổi về nhu cầu cơ cấu ngành nghề ở nông
thôn và miền núi, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng
nghành nông - lâm nghiệp, tăng tỉ trọng ở các ngành công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ. Bởi lẽ, công nghiệp và xây dựng tăng nhanh sẽ tạo đà cho việc chuyển
dịch lao động ở ngành nông - lâm nghiệp sang các ngành khác ở địa phương.
Ba là, góp phần xây dựng nông thôn mới. Theo 19 tiêu chỉ để xây dựng
mô hình nông thôn mới được Chính phủ ban hành theo Quyết định số
491/QĐ-TTg, vấn đề giải quyết việc làm, đảm bảo ổn định đời sống cho
người dân là một trong những nội dung hết sức quan trọng. Nông thôn kiểu
mới là nơi có nhiều việc làm, có những điều kiện về kết cấu hạ tầng vật chất
và hạ tầng xã hội ngày càng đảm bảo. Giải quyết việc làm còn là điều kiện để
phát triển nâng cao trình độ văn hóa, góp phần bảo tồn những ngành nghề
truyền thống.
Bốn là, đảm bảo vững chắc an ninh quốc phòng. Trong bối cảnh thế
giới có nhiều biến động như hiện nay, các thế lực thù địch, phản động có
những âm mưu chiến lược tinh vi nhằm thực hiện “Diễn biến hòa bình”, việc
xây dựng, tham gia bảo vệ tổ quốc là một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tổ quốc thì việc giải quyết
việc làm, phát huy nguồn nhân lực sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển kinh
tế xã hội.
1.1.2. Tổng quan về phát triển bền vững

Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia
xuất hiện biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng
trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn
23
kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi
trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự
trả thù của thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển
xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng
kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng
trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng
kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn
cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội
và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia.
Vậy nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế
với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức
thiết đối với toàn thế giới.
1.1.2.1. Khái niệm Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát
triển về mọi mặt trong hiện tại mà vần đảm bảo sự tiếp tục phát triển trong
tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc
gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, chính trị, văn
hóa…riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời
sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong
cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của
bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất
ổn trong xã hội. Chính vì thế, từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước khi
tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được tốc độ khá cao,

người ta đã bắt đầu có những lo nghĩ đến ảnh hưởng tiêu cực của sự tặ trưởng
24

×