Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn giáo dục biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe cho học sinh qua bộ môn sinh học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.16 KB, 22 trang )

GIÁO DỤC BIỆN PHÁP GIỮ GÌN VỆ SINH VÀ RÈN LUYỆN SỨC
KHỎE CHO HỌC SINH QUA BỘ MÔN SINH HỌC 8

A. MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
Học sinh THCS ở độ tuổi từ 11 đến 15, đây là thời kì các em bước vào tuổi
dậy thì. Cơ thể có những biến đổi nhanh chống về vóc dáng, cơ quan sinh
dục, các đặc điểm giới tính khác,… Các em rất cần được sự quan tâm của
cha mẹ, thầy cô giáo dục các biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức
khỏe để đảm bảo cho cơ thể phát triển khỏe mạnh có thể tham gia vào các
hoạt động giáo dục khác đạt hiệu quả.
Tuy nhiên trong cuộc sống với nhiều bận bịu lo toan không phải cha mẹ
nào cũng có thể quan tâm chăm sóc tốt cho con mình và khơng phải đứa trẻ
nào cũng có thể mạnh dạn chia sẻ những khó khăn gặp phải trong cuộc sống
với cha mẹ chúng nhất là những vấn đề gặp phải ở tuổi dậy thì. Phần lớn trẻ
trải qua tuổi dậy thì trong nhà trường chính vì thế vai trị của nhà trường rất
quan trọng trong việc giáo dục biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức
khỏe cho trẻ .
Trong chương trình giáo dục THCS, bộ mơn sinh học 8 là mơn học rất
quan trọng. Mục đích chung của môn “Cơ thể người và vệ sinh” là cung cấp
những hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động sống của
con người. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể,
bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất, hiệu quả trong học tập,
góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo những con người lao động linh hoạt,
năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong thực tiễn giảng dạy, việc giáo dục biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn
luyện sức khỏe được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy
nhiên, hiệu quả giáo dục chưa cao do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một
trong những nguyên nhân đó là giáo viên chưa đánh giá đúng tầm quan
trọng của các tiết “ vệ sinh” và sử dụng các phương pháp giảng dạy chưa
hợp lí .


Từ những lí do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Giáo dục biện pháp giữ gìn vệ
sinh và rèn luyện sức khỏe cho học sinh qua bộ môn sinh học 8” làm đề tài
nghiên cứu của mình với mong muốn trang bị cho học sinh một số biện pháp
giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
này.
Trang 1


2. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp giáo dục giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe cho học
sinh qua môn sinh học 8.
- Học sinh khối lớp 8
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Vì thời gian và khả năng có hạn nên trong đề tài này chỉ tập trung nghiên
cứu các bài ‘ vệ sinh” của từng chương trong chương trình sinh học 8 .
- Các kiến thức về vệ sinh dựa trên những hiểu biết về cấu tạo, sinh lí, đặc
điểm tuổi dậy thì…
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Nghiên cứu tài liệu:
- Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn Sinh
học.
- Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Sinh học Trung học
cơ sở.
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 8 môn Sinh học
- Sách giáo khoa, sách giáo viên Sinh học 8.
- Sách cơ bản và nâng cao Sinh học 8
b. Điều tra (dự giờ, thực nghiệm, đàm thoại, kiểm tra, đối chiếu )
- Từ thực tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp.
- Nguyên nhân giáo dục các biện pháp vệ sinh và rèn luyện sức khỏe đạt
kết quả chưa cao.

- So sánh kết quả giáo dục với các phương pháp khác nhau, rút kinh
nghiệm tìm ra phương pháp dẫn đến kết quả tốt nhất.
B. Nội dung :
1. Cơ sở lí luận:
Chỉ thị số 48-TTG/VG ngày 02 tháng 06 năm 1969 của Thủ tướng Chính
phủ về việc giữ gìn và nâng cao sức khỏe của học sinh nêu rõ: “Giữ gìn và
nâng cao sức khỏe của học sinh là một vấn đề lớn, phải có phương hướng và
kế hoạch giải quyết toàn diện, và trong một thời gian lâu dài, trên cơ sở tìm
hiểu đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm sinh hoạt và phải căn cứ vào khả năng thực
tế của nền kinh tế nước ta.”
Quả thực đúng như vậy, giữ gìn và nâng cao sức khỏe của học sinh là một
vấn đề lớn, xã hội chúng ta đang ngày càng phát triển thì nhiệm vụ giữ gìn

Trang 2


và nâng cao sức khỏe cho học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng, đòi hỏi
sự chung tay của nhà trường gia đình và xã hội.
Hơn ai hết, cán bộ giáo viên, những người làm công tác trong ngành giáo
dục, phải ln phấn đấu tìm ra những giải pháp tốt nhất nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện cho học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay công tác giữ gìn vệ sinh và chăm sóc sức khỏe học sinh trong
trường học rất được quan tâm, đạt nhiều hiệu quả như: Nhà trường thường
xuyên liên hệ với cán bộ y tế xã, phường, tổ chức khám sức khỏe định kì cho
học sinh; tổ chức tuyên truyền về các chủ đề giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức
khỏe. Trang bị nhà vệ sinh sạch sẽ, công tác thể dục thể thao rèn luyện sức
khỏe được chú trọng…
Tuy nhiên, so với yêu cầu về chất lượng giáo dục, việc giữ gìn vệ sinh và
rèn luyện sức khỏe của học sinh cịn có nhiều tồn tại: tình trạng bệnh, tật học

đường đang báo động. Đặc biệt là tật cận thị học đường ngày càng gia tăng.
Theo thống kê ở các thành phố lớn hiện nay tỉ lệ học sinh mắc tật cận thị
chiếm tỉ lệ 25-30%. Ngồi ra cịn các bệnh, tật khác: cong vẹo cột sống,
bệnh răng miệng, giun sán… Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của xã hội,
giới trẻ trong đó có khơng ít là học sinh, sinh viên có lối sống thực dụng, yêu
đương sớm, sống thử và đặc biệt tình trạng nạo phá thai ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cũng đã xảy ra ở học sinh THCS và học sinh THPT phổ
thông.
Bệnh, tật học đường hồn tồn có thể phịng tránh nếu được quan tâm
giáo dục các biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe cho học sinh.
Ở lứa tuổi này học sinh cần được định hướng một cách đúng đắn giúp các
em không bị chệch hướng, ảnh hưởng đến sự phát triển sau này.
Học sinh lớp 8 ở độ tuổi 13-14, tuổi đang bước vào giai đoạn dậy thì, giai
đoạn chuyển từ tuổi thiếu niên sang thanh niên. Cơ thể phát triển mạnh về
kích thước và thể lực, đồng thời có những chuyển biến mạnh về sinh lí.
Chính những thay đổi đó ở các em là những vấn đề kích thích nhu cầu tìm
hiểu về bản thân mình. Đồng thời sự phát triển cơ bắp khiến các em ham
Trang 3


thích được hoạt động, tính năng động cao. Tuy nhiên mức độ phát triển của
hệ thần kinh chưa đạt đến hồn thiện, do đó các em nhanh chống mệt mỏi,
dễ hưng phấn xong cũng dễ chuyển sang trạng thái ức chế. Do đó việc vận
dụng kiến thức sinh học vào việc giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe là
một điều rất cần thiết.
Môn sinh học trong nhà trường THCS có nhiều đóng góp rõ rệt và hiệu
quả trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh về các kĩ năng giữ gìn vệ sinh
cơ thể, phịng chống bệnh tật, sơ cấp cứu đặc biệt là giáo dục giới tính, giáo
dục sức khỏe sinh sản vị thành niên và tình dục an tồn.
3. Nội dung vấn đề :

3.1 Vấn đề đặt ra:
Cấu trúc chương trình sinh học 8 thể hiện tính logic, khoa học cao. Sau khi
nêu qua ý nghĩa, tầm quan trọng của từng hệ cơ quan trong hoạt động sống
chung của cơ thể, sẽ tiếp tục đi vào nghiên cứu cấu tạo và hoạt động sinh lí
của các cơ quan trong hệ cơ quan. Cuối cùng, nêu lên các vấn đề vệ sinh dựa
trên những hiểu biết về cấu tạo và chức năng của cơ quan trong hệ cơ quan
hoặc ứng dụng vào đời sống, học tập và lao động. Các biện pháp giữ gìn vệ
sinh sẽ khơng có cơ sở khoa học vững chắc nếu thiếu sự hiểu biết về giải
phẩu, sinh lí.
Thơng qua từng bài học của từng chương, giáo viên lồng ghép giáo dục
biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe đối với từng cơ quan, hệ cơ
quan của cơ thể. Từ đó, giúp các em đề ra các biện pháp giữ gìn vệ sinh, bảo
vệ sức khỏe, phịng chống các loại bệnh tật học đường tương ứng.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu đề tài tơi nhận thấy :
- Về phía giáo viên:
+ Chưa nghiên cứu sâu khi dạy các bài vệ sinh.
+ Đa số giáo viên lựa chọn phương pháp vấn đáp thông thường khi dạy
các bài vệ sinh. Ví dụ như:
 Em hãy kể tên các bệnh về …….mà em biết ?
 Em hãy cho biết các tác nhân chủ yếu gây hại cho hệ ……….
 Em hãy nêu các biện pháp phòng chống bệnh cho hệ …………
Trang 4


Với các câu hỏi như thế học sinh có thể trả lời theo sách giáo khoa, chưa
phát huy được tính tích cực nên chưa khắc sâu kiến thức cho học sinh.
+ Phần “Câu hỏi và bài tập củng cố”, hay phần “Hướng dẫn học sinh tự
học” chưa giao bài tập rèn luyện vệ sinh.
+ Giáo viên truyền thụ kiến thức một chiều, thiếu sự kiểm tra, động viên,
uốn nắn thường xuyên, nên chưa giúp học tạo thành các thói quen, tập quán,

lối sống tốt.
- Về phía học sinh:
+ Chưa vận dụng đúng các biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện sức
khỏe đã được học vào thực tiễn cuộc sống.
+ Thiếu rèn luyện thường xuyên các biện pháp giữ gìn vệ sinh và rèn luyện
sức khỏe để tạo thành những thói quen, tập quán tốt.
Như vậy, để đạt được hiệu quả tốt trong công tác giáo dục biện pháp giữ
gìn vệ sinh và rèn luyện sức khỏe qua mơn sinh học 8 thì trong các bài dạy
giáo viên cần phải:
- Cập nhật các kiến thức về bệnh, tật học đường. Đặc biệt chú ý các bệnh,
tật có thể xảy ra ở học sinh THCS để liên hệ giáo dục trong quá trình giảng
dạy.
- Giảng dạy bằng phương pháp trực quan kết hợp vấn đáp. Chuẩn bị tư
liệu, tranh ảnh, vận dụng công nghệ thông tin thiết kế các tiết học về vệ sinh.
- Tăng cường phương pháp luyện tập, kiểm tra, đánh giá.
3.2. Giải pháp chứng minh vấn đề được giải quyết:
a. Cập nhật các kiến thức về bệnh, tật học đường có liên quan:
Trong q trình giảng dạy các kiến thức về vệ sinh, giáo viên phải xác
định được tầm quan trọng của các bài vệ sinh. Thông qua các bài học này
học sinh được trang bị rất nhiều kiến thức về các biện pháp giữ gìn vệ sinh
và rèn luyện sức khỏe. Vì thế trong phần thiết kế tiết dạy giáo viên phải
nghiên cứu kĩ thông tin, cập nhất các kiến thức về bệnh, tật học đường có
liên quan từ tài liệu, sách báo, các trang web. Qua đó giáo viên sưu tầm
tranh ảnh, tư liệu phục vụ cho tiết học sinh động hơn.

Trang 5


Bệnh, tật học đường là những bệnh, tật mà học sinh mắc phải có liên quan
đến các yếu tố vệ sinh học đường. Các nhà khoa học xếp cận thị, cong vẹo

cột sống, rối nhiễu tâm lí vào những bệnh tật này.
Nguyên nhân làm cho số lượng học sinh mắc bệnh, tật học đường gia tăng
là do chế độ học tập căng thẳng, quá tải, yếu tố vệ sinh trong học tập chưa
thật sự được cải thiện, hoạt động chăm sóc sức khoẻ và dự phịng bệnh tật
trong nhà trường vẫn cịn nhiều hạn chế.
Do áp lực của chương trình trong các nhà trường và kỳ vọng của gia đình,
học sinh phải dành phần lớn thời gian trong ngày cho học tập: Học chính
khố, ngoại khố ở trường, học thêm ở các địa điểm tổ chức dạy thêm, học
và làm bài tập ở nhà.
Thời gian học tập kéo dài kết hợp với những hoạt động vui chơi giải trí ít
vận động như xem tivi, chơi trò chơi điện tử, đọc truyện, sách... khiến cho
học sinh khơng cịn nhiều thời gian cho nghỉ ngơi, hoạt động rèn luyện thể
lực, hoạt động giao tiếp, thư giãn tinh thần. Điều đó đã gây căng thẳng cho
hệ thống thị giác, cho hệ cơ xương, hệ thần kinh của trẻ. Song song với gánh
nặng học tập, điều kiện học tập của học sinh ở trường, ở nhà cịn có nhiều
bất cập. Chiếu sáng khơng đảm bảo, bàn ghế không phù hợp... càng làm tăng
thêm gánh nặng đối với cơ thể non yếu của các em.
* Khi dạy chương II. Vận động: chúng ta phải tìm hiểu kiến thức vệ sinh
về bệnh cong vẹo cột sống và phải trang bị cho học sinh các biện pháp
phòng chống các bệnh về cong vẹo cột sống và rèn luyện sức khỏe để hệ cơ
xương phát triển khỏe mạnh.
- Nguyên nhân: thường là do tư thế ngồi học không đúng, ngồi lệch
nghiêng một bên hoặc do xách cặp quá nặng lúc đi học. Một nguyên nhân
nữa là do bàn ghế học khơng đúng kích thước, độ chênh lệch giữa bàn ghế
quá nhiều khiến trẻ phải cúi khom người khi ngồi một thời gian dài, dẫn đến
gù, vẹo cột sống.
- Hậu quả: Trẻ bị vẹo cột sống sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể, chậm
phát triển về chiều cao, về lâu dài có thể gây biến dạng khung ngực, khung
chậu, ảnh hưởng đến tim - phổi.
- Cách điều trị: Cần nhiều thời gian và phối hợp nhiều phương pháp: vật

lý trị liệu kết hợp thể dục liệu pháp (bơi lội, đu xà) và tùy theo mức độ nặng
nhẹ của độ cong vẹo cột sống mà có thể dùng áo nẹp cột sống để hỗ trợ hay
phải can thiệp phẫu thuật chỉnh hình.
- Biện pháp phịng ngừa: Giáo viên hướng dẫn ngồi học ngay ngắn, đúng
tư thế (ngồi thẳng lưng, 2 bàn chân đặt xuống sàn, hai khuỷu tay đặt thoải
Trang 6


mái trên mặt bàn, không rụt cổ, không để vở chéo 25 độ khi viết). Không
cho trẻ mang cặp quá nặng.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến cong vẹo cột sống.

Ảnh chụp X- quang nạn nhân bị cong vẹo cột sống

Khơng cịn lo bị cong vẹo cột sống

Kiến thức về bệnh học đường chúng ta có thể tìm kiếm trên các trang web
“Bệnh, tật học đường”, “ Y học - sức khỏe”…
* Đối với bài “Vệ sinh mắt”: chúng ta phải tìm hiểu các kiến thức về tật
cận thị học đường nhằm trang bị cho học sinh các kiến thức về phòng chống
tật cận thị .
Theo thống kê, tỷ lệ cận thị trong học sinh ở những thành phố lớn khoảng
25 - 30%. Cận thị xuất hiện nhiều nhất so với các tật khúc xạ khác (viễn thị,
loạn thị). Cho đến nay, chưa có số liệu thống kê tình hình bệnh tật của học
sinh trên phạm vi toàn quốc.Nhưng qua kết quả nghiên cứu của các đề tài

Trang 7



khoa học tiến hành ở các địa phương, tỷ lệ mắc tật cận thị ở học sinh Việt
Nam tăng lên ở mức báo động.
- Ngun nhân: Mơi trường có ảnh hưởng đến tật khúc xạ mắc phải như
sau:
+ Ở trường, học sinh học nhiều trong môi trường thiếu ánh sáng, đọc sách
với cự ly gần trong thời gian dài, bàn ghế học sinh không phù hợp với chiều
cao học sinh. Bảng sơn màu không tương phản với màu phấn viết, hoặc bị
chói sáng...
+ Ở nhà, các em thường đọc sách hoặc truyện trong tư thế nằm ngửa, đọc
ở những nơi khơng đủ ánh sáng, đọc những sách truyện có cỡ chữ nhỏ, giấy
mờ hoặc giấy quá bóng. Xem ti vi, chơi vi tính nhiều giờ liên tục hoặc với
cự ly gần...
- Biện pháp phòng tránh: khi học hoặc làm việc cần phải trong mơi trường
có ánh sáng đầy đủ và phân bố đều, tư thế tự nhiên thoải mái, bàn học phải
hơi dốc sao cho mặt sách hay vở tạo với trục thị giác một góc vng, khoảng
cách giữa mắt với bàn khoảng 30 cm, giấy khơng được q bóng láng. Trẻ
tiếp xúc với máy vi tính thì nên giữ khoảng cách giữa mắt và máy khoảng 50
đến 70 cm và nên đặt máy dưới tầm mắt khoảng 10 đến 20 cm...
* Khi dạy chương XI. Sinh sản: Chúng ta phải trang bị cho học sinh
những kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên, đây là
những vấn đề hết sức nóng bỏng hiện nay. Tình trạng nạo phá thai ở lứa tuối
học đường gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho sức khỏe và
tương lai của các em.
Thông qua bài “Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai” bên cạnh
việc trang bị kiến thức, giáo viên hết sức quan tâm đến việc giúp học sinh
vận dụng các kiến thức đã học vào đới sống hình thành các kĩ năng sống cho
bản thân như:
 Kĩ năng ra quyết định: Tự xác định cho mình một biện pháp tránh
thai.
 Kĩ năng từ chối: từ chối những lời rủ rê quan hệ tình dục sớm dẫn đến

mang thai ngoài ý muốn.
Trang 8


 Kĩ năng ứng phó với các tình huống ép buộc, dụ dỗ, lừa gạt quan hệ
tình dục.
Về mặt sinh học, hệ sinh dục của các em đang trên đà phát triển mạnh và
bắt đầu có khả năng sinh sản, những ham muốn về tình dục nảy sinh là điều
bình thường. Nhiều em bắt đầu khám phá khả năng tình dục của mình bằng
nhiều cách.
- Nguyên nhân: Hiện nay do tác động của nhiều yếu tố, trong đó có văn
hóa và dinh dưỡng, tuổi phát dục của con người ngày càng thấp. Nhiều em
bước vào đời sống tình dục khi cịn rất trẻ. Lí do các em đưa ra để biện minh
cho hành vi quan hệ tình dục khi cịn rất trẻ của mình là: tị mị muốn khám
phá, thử nghiệm những điều mới lạ, do áp lực từ phía bạn trai/gái, bạn bè lôi
kéo, ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh,..
- Những hệ quả của việc quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên:
 Nguy cơ mang thai ngồi ý muốn
 Lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, mặc cảm vì mất trinh tiết…
là những gì vị thành niên, nhất là các bạn gái có thể gặp phải.
 Khi đã mang thai ngoài ý muốn, các em gái sẽ phải đứng trước hai sự
lựa chọn, hoặc là phải cưới ngay, hoặc là phải phá thai. Nếu giữ thai
lại và cưới, các “ bà mẹ trẻ” có thể gặp nguy cơ: nhiễm độ thai nghén,
tổn thương tử cung, âm hộ do sinh con khi cơ thể mẹ phát triển chưa
toàn diện; suy nhược toàn thân sau khi sinh, nguy cơ tử vong ở các mẹ
và con, và nhất là những tổn thương về mặt tinh thần thì khó mà khắc
phục được.
 Nếu các em phải phá thai, những nguy cơ khơng kém phần nguy hiểm
có thể xẩy đến là chảy máu, nhiễm trùng, thủng tử cung, rong huyết,
vô sinh biến cố bất thường trong lần sinh sau này… Ngồi ra, có

Trang 9


những tổn thương về mặt tinh thần gây ra bởi dư luận xã hội, sự dằn
vặt của gia đình có thể khiến bạn trẻ cảm thấy mặc cảm, mất tự tin
vào bản thân và khó hịa nhập trở lại cộng đồng.
b. Sử dụng phương pháp trực quan kết hợp vấn đáp khi giảng dạy
các kiến thức về vệ sinh:
Sự thành công của việc dạy học phụ thuộc rất nhiều phương pháp dạy học
được giáo viên lựa chọn sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào phương pháp sử dụng trong dạy
học kết quả sẽ khác nhau về mức độ lĩnh hội các tri thức, về sự phát triển trí
tuệ cùng các kỹ năng tư duy, về giáo dục đạo đức, về sự chuyển biến thái độ
hành vi.
Phương pháp đặc thù của bộ môn sinh học là phương pháp trực quan và
thực hành . Đối với việc vận dụng kiến thức sinh học vào việc giữ vệ sinh và
rèn luyện sức khỏe phương pháp này sẽ giúp học sinh phát huy được tính tự
giác, tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo, học sinh tự giành kiến thức
dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên. Bên cạnh đó trong quá trình sử
dụng phương pháp trực quan nếu giáo viên kết hợp linh hoạt với phương
pháp vấn đáp sẽ tăng hiệu quả lĩnh hội kiến thức lên rất nhiều lần. Kiến thức
thu nhận sẽ trở thành tài sản riêng của các em. Vì các em được tri giác sâu
hơn nên giúp các em hiểu bài hơn, nắm vững kiến thức hơn từ đó vận dụng
vào cuộc sống dễ dàng hơn.
Đặc biệt hơn, trong khi vận dụng phương pháp trực quan kết hợp với vấn
đáp trong phần dạy kiến thức về vệ sinh sẽ giúp chúng ta giải quyết việc sử
dụng phương pháp vấn đáp đơn thuần bằng việc lặp lại nhiều lần các câu hỏi

Trang 10



quen thuộc gây nhàm chán. Từ đó khắc sâu kiến thức cho học sinh, cũng
như rèn được kĩ năng ra quyết định vận dụng các biện pháp vệ sinh vào cuộc
sống giúp học sinh hình thành các thói quen, tập quán nếp sống tốt, có lợi
cho bản thân.
Để có thể cung cấp tranh ảnh, tư liệu cho học sinh quan sát, chúng ta phải
sưu tầm hoặc chụp hình, quay phim tạo tranh ảnh, tư liệu về các chủ đề có
liên quan đến nội dung các bài, các chương đang giảng dạy.
* Ví dụ khi dạy về bài “ Vệ sinh mắt”:
- Giáo viên chi u tranh ảnh hoặc treo tranh ảnh về tình trạng cận thị học đườngnh hoặc treo tranh ảnh về tình trạng cận thị học đườngc treo tranh ảnh hoặc treo tranh ảnh về tình trạng cận thị học đườngnh về tình trạng cận thị học đường tình trạng cận thị học đườngng cận thị học đườngn th ị học đường h ọc đườngc đ ườngng
hiện nay:n nay:

- Giáo viên hỏi học sinh: Em hãy nêu nhận định gì về tình trạng cận thị
học đường hiện nay ?
- Chiếu hoặc treo tranh các hình ảnh về nguyên nhân có thể dẫn đến cận
thị :

Trang 11


- Từ nguồn tranh giáo viên cung cấp học sinh có thể dễ dàng nêu được
các nguyên nhân chủ yếu hiện nay gây tật cận thị ở học sinh. Khi xác
định được nguyên nhân, thì cứ nguyên nhân nào ứng với biện pháp ấy,
giáo viên hình thành cho học sinh các kĩ năng xây dựng các biện pháp
phòng chống tật cận thị học đường.
* Đối với bài “ Vệ sinh hệ vận động”: Giáo viên cung cấp cho học
sinh các tranh ảnh về bệnh cong vẹo cột sống, phong trào tập thể dục thể
thao ở trường học, công viên, gia đình… tăng động cơ ham thích luyện
tập thể dục thể thao của học sinh.


Trang 12


* Đối với bài “Vệ sinh da”: giáo viên cần cung cấp tranh ảnh cho học
sinh các bệnh về da, tranh ảnh tai nạn do bị bỏng do điện, nước sơi… giúp
học sinh có kĩ năng chăm sóc da, cẩn thận phịng tránh các tai nạn có thể gây
ra bỏng…
* Đối với bài “Vệ sinh tiêu hóa”: Giáo viên sưu tầm các tranh ảnh về
hướng dẫn cách vệ sinh răng miệng; các bước rữa tay đúng cách; tranh ảnh
các loại giun sán sống kí sinh trong cơ thể người; phim đĩa CD minh họa các
tác nhân gây hại và các biện pháp bảo vệ hệ tiêu hóa. Qua quan sát tranh ảnh
kết hợp với câu hỏi khai thác nhận thức của học sinh giáo viên dễ dàng hình
thành những biện pháp giúp học sinh bảo vệ hệ tiêu hóa. Và vì hiệu quả
mang lại từ nội dung tranh ảnh giúp học sinh hình thành các thói quen ăn
uống, vệ sinh khoa học tránh các tác nhân gây hại cho hệ tiêu hóa.
* Đối với chương XI. Sinh sản: Để đạt được hiệu quả cao, trước hết người
giáo viên phải nhận thức được : Chúng ta phải mạnh dạn dạy cho học sinh,
không né tránh, trang bị cho học sinh các kiến thức chính xác, khoa học để
tránh các em hiểu lệch lạc dẫn đến hành động sai lầm. Tuy nhiên do tính
nhạy bén của bài học, giáo viên cần khéo léo, linh hoạt sử dụng từ ngữ nhằm
làm giảm tính căng thẳng của vấn đề, đồng thời tạo tính cởi mở cho học sinh
nghiêm túc học tập. Hơn ai hết học sinh cần được trang bị kiến thức và sự
chia sẽ từ giáo viên. ( Vì rất ít trẻ vị thành niên chia sẽ vấn đề sức khỏe sinh
sản với cha mẹ mình và ngược lại các ơng bố bà mẹ cũng rất ngại trong việc
chia sẽ với con ) Chính vì thế trong q trình thiết kế tiết dạy giáo viên cần
chuẩn bị một số dụng cụ tránh thai phổ biến hoặc tranh ảnh : bao cao su,
viên thuốc tránh thai ( vỉ), vịng tránh thai... vì đa số học sinh các em chưa
hề biết về các biện pháp đó, nếu chúng ta chị nói sng thì hiệu quả sẽ
không cao.
Sau khi đã đề ra các nguyên tắc tránh thai. Giáo viên sử dụng phương pháp

trực quan: Giới thiệu với học sinh các dụng cụ hoặc phương tiện tránh thai

Trang 13


qua dụng cụ thực tế hoặc tranh ảnh:

Thuốc viên tránh thai

Dụng cụ tử cung

Trang 14


Bao cao su

Viên thuốc tránh thai khẩn cấp

Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập trên phiếu, tổ chức sửa sai, hồn
chỉnh theo mẫu sau:
Cách ngăn
có thai

Ngăn khơng
cho trứng
chín và rụng

Ngăn trứng

Phương tiện

Ưu điểm
Nhược điểm
sử dụng
1. Thuốc viên - Hiệu quả tránh thai cao - Hằng ngày phải
tránh thai
từ 92-99%
nhớ uống thuốc
- Dễ dùng
vào giờ nhất định.
- Có thể gây một
số tác dụng phụ...
2. Viên thuốc Có tác dụng trong vịng Thuốc có một số
tránh
thai 72 giờ, ngay sau khi phản ứng phụ,
khẩn cấp
quan hệ tình dục
khơng được dùng
q 4 viên trong
một tháng.
1.Bao cao su
Hiệu quả tránh thai cao Giảm cảm hứng,
từ 80-95%, Dễ mua, bất tiện, bao có
khơng gây tác dụng phụ, thể hỏng.
còn tránh được các bệnh
lây lan qua đường tình

Trang 15


thụ tinh


dục.
2.Triệt
sản Hiệu quả tránh thai cao,
nam, nữ
Không gây tác dụng phụ,
khơng ảnh hưởng đến
quan hệ tình dục
Ngăn sự làm Dụng cụ tử - Hiệu quả tránh thai cao
tổ của trứng cung (vòng khoảng 95%, lâu dài ( 4tránh thai)
6 năm)
- Tiện lợi, đặt vịng tháo
vịng dễ dàng

Chi phí ban đầu
cao, phục hồi sinh
đẻ hết sức khó
khăn chi phí cao.
- Có thể gây đau
bụng, chảy máu
và rơi vịng.
- Chỉ tránh được
chửa trong tử
cung.

Giáo viên nêu câu hỏi: Là học sinh, em cần phải làm gì để tránh mang thai
ngồi ý muốn hoặc tránh phải nạo phá thai ?
Học sinh thông qua thảo luận phải hình thành được các kĩ năng từ chối, kĩ
năng ứng phó bằng các dự kiến hành động về cách sống, cách quan hệ tình
dục:

 Tránh quan hệ tình dục ở lứa tuổi học sinh, giữ gìn tình bạn trong
sáng lành mạnh để khơng ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản, học tập
và hạnh phúc gia đình tương lai.
 Khơng đến những nơi khơng an tồn, vắng vẻ. Kịp thời báo lại cho
gia đình, thầy cơ về những vấn đề các em gặp phải như: có người có ý
định dụ dỗ, cưỡng bức...
 Hoặc phải bảo đảm an tồn tình dục bằng sử dụng bao cao su.
c. Phương pháp giao cho học sinh các bài tập thực hành ở nhà và tăng
cường kiểm tra đánh giá.
Các bài tập giúp cho học sinh vận dụng các kiến thức vào thực tiễn. Vì
vậy, hình thành cho học sinh các kĩ năng vận dụng biện pháp vệ sinh rèn
luyện sức khỏe trong đời sống, hình thành thói quen, tập qn lối sống tốt.
Để thực hiện tốt phương pháp này, giáo viên phải chuẩn bị kỹ nội dung
kiến thức cần luyện tập, các bài tập và phương án giải quyết các tình huống
có thể xảy ra.

Trang 16


Các bài tập cần chọn lọc đa dạng có thể là bài tập vận dụng các biện pháp
đã học vào đời sống hằng ngày như giữ gìn vệ sinh các hệ cơ quan, bài tập
thể dục thể thao rèn luyện cơ thể…
- Hệ vận động: Hãy lựa chọn một môn thể thao luyện tập ngày làm tăng
cường sự phát triển cơ bắp, chiều cao…
- Hệ tim mạch: Thực hành ăn uống hằng ngày với khẩu phần ăn hợp lí,
tập thể dục thường xuyên, đều đặn, vừa sức kết hợp với xoa bóp ngồi da để
phịng chống được các bệnh về tim mạch.
- Hệ hô hấp: Không hút thuốc lá, tập hít thở sâu nhiều lần vào buổi sáng
sớm, sử dụng khẩu trang hằng ngày, trồng nhiều cây xanh quanh nhà, trang
trí cây xanh trong lớp học, bỏ rác đúng nơi quy định tạo bầu khơng khí trong

lành thống mát.
- Hệ tiêu hóa: Vận dụng các biện pháp vệ sinh ăn uống vào cuộc sống
hằng ngày: Đảm bảo vệ sinh khi chế biến và bảo quản thức ăn, ăn chậm nhai
kĩ, ăn đúng giờ, nghỉ ngơi sau khi ăn, tạo bầu khơng khí vui vẻ khi ăn uống...
- Hệ bài tiết: Uống đủ nước, đi tiểu đúng lúc, không nhịn tiểu lâu, vệ
sinh cơ quan bài tiết nước tiểu hằng ngày, không ăn quá mặn, quá chua...
- Da: Tắm giặt hằng ngày; rửa mặt, tay, chân thường xuyên với xà phòng
đúng quy trình rửa tay. Để bảo vệ da nên tránh ăn nhiều chất béo, đường, các
loại gia vị như tiêu, ớt; tránh tiếp xúc với nước bẩn, hóa chất, ánh nắng trực
tiếp; tránh rượu bia, thuốc lá; tránh ngâm nước lâu, tránh mất ngủ kéo dài...
- Hệ thần kinh: Luôn giữ cho tinh thần sản khoái, vui vẻ, tự kiềm chế sự
tức giận của bản thân mình, khơng sử dụng các chất kích thích như chè đặc,
cà phê, rượu bia.......; các chất gây nghiện như thuốc lá, ma túy, heroin ...
Khi dạy bài “ Vệ sinh hệ thần kinh” giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng
ứng phó với tình huống bằng cách giao bài tập về nhà như sau:
 Em có biết người ta thường dùng những cách nào để dụ dỗ trẻ em
tiêm chích ma túy hay khơng ?
 Nếu có người có ý định dụ dỗ em sử dụng ma túy, em sẽ xử lí tình
huống đó như thế nào ?
- Hệ sinh sản: Vệ sinh cơ quan sinh dục sạch sẽ, giữ gìn tình bạn trong
sáng, có lối sống lành mạnh, tích cực học tập, tham gia thể dục thể thao hằng
ngày đều đặn.
Để giáo dục có hiệu quả các biện pháp vệ sinh và rèn luyện sức khỏe thì
bên cạnh việc trang bị các biện pháp cho học sinh giáo viên cần phải thường
xuyên kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ, kịp thời động viên nhắc nhở thường
xuyên nhằm giúp học sinh hình thành đươc các thói quen tốt.

Trang 17



Kiểm tra đánh giá không phải là một vấn đề mới nhưng đa số giáo viên
khi dạy học phần kiến thức về vệ sinh chưa thực sự quan tâm tới vấn đề này.
Việc kiểm tra đánh giá cịn mang tính chiếu lệ, hời hợt khơng kích thích khả
năng thường xun luyện tập, vận dụng các biện pháp vệ sinh vào cuộc
sống. Đặc biệt trong quá trình dạy học các kiến thức về vệ sinh nếu chúng ta
có trang bị kiến thức về các biện pháp vệ sinh đầy đủ, khoa học đến đâu mà
học sinh không vận dụng vào thực tiễn hay không thường xuyên rèn luyện
theo các biện pháp đã đề ra thì hiệu quả giáo dục xem như khơng đạt được
gì. Đó cũng là một trongg những lí do mà lâu nay chúng ta vẫn truyền đạt
kiến thức đầy đủ theo chuẩn kiến thức và kĩ năng nhưng hiện tại học sinh
không vận dụng được nhiều, các em vẫn cịn nhiều thói quen xấu trong vệ
sinh, sinh hoạt ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe.
Quả đúng như vậy “ Học phải đi đôi với hành’ học sinh sau khi được học
các kiến thức về vệ sinh bằng nhiều phương pháp trực quan, vấn đáp…thì
yêu cầu các em phải vận dụng các kiền thức ấy qua bài tập về nhà. Giáo viên
có nhiều cách để kiểm tra đánh giá:
- Kiểm tra qua các biểu hiện bề ngoài: Vệ sinh cơ thể hằng ngày, móng
tay, móng chân có sạch sẽ hay khơng? trang phục có gọn gàng hay khơng ?
thể lực có phát triển hay khơng ? tập thể dục giữa giờ có đúng động tác hay
khơng ? Ăn q bánh có đảm bảo chất lượng hay khơng ?
- Kiểm tra tổng quan lớp học: Vệ sinh lớp hằng ngày có sạch sẽ hay
khơng? Có bỏ rác đúng nơi quy định hay khơng? Lớp có trang trí cây xanh,
trồng cây xanh cho bầu khơng khí được trong lành hay khơng ?
- Kiểm tra qua trò chuyện trao đổi trực tiếp với các em:
 Hiện nay việc tập thể dục thể thao vào mỗi buổi sáng của em được
tiến hành như thế nào ? có gì khó khăn khơng ?
 Vào những ngày giáp tết, thời tiết lạnh các em có cịn duy trì nếp
tập thể dục buổi sáng hay khơng ?
- Kiểm tra tư thế ngồi học của các em: Sau khi đã trang bị cho học sinh các
biện pháp phòng chống cong vẹo cột sống, giáo viên cần phải kiểm tra

thường xuyên, uốn nắn nhắc nhở các em kịp thời khi các em vận dụng chưa
đúng. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tơi nhận thấy hiện nay có rất nhiều
học sinh ngồi học không đúng tư thế : có em đặt cằm lên bàn và viết bài, có
em luôn ngồi với tư thế quay ra bàn sau 90 độ, bên cạnh đó có em khơng tự
tin với chiều cao do sự phát triển ở tuổi dậy thì hoặc vì cao quá mà ngồi ở
các bàn trên sợ các bạn nhìn bảng khơng thấy nên tự ‘hạ độ cao” bằng cách
ngồi cong lưng lại. Quả thật ngồi không đúng tư thế lâu ngày vơ tình các em
Trang 18


đã mắc phải tật cong vẹo cột sống. Chính vì thế để hạn chế tình trạng cong
vẹo cột sống hiện nay của học sinh mỗi giáo viên cần có sự quan tâm từng
tiết dạy, kịp thời nhắc nhở sửa sai cho các em.
Để kiểm tra đánh giá về hiệu quả giảng dạy chương “Sinh sản” thật khó
khăn vì đây là vấn đề hết sức tế nhị, là giáo viên dạy bộ môn sinh học cần
quan tâm nhiều hơn đền sự phát triển tâm sinh lí, lối sống của các em. Nếu
phát hiện có gì bất thường, lệch lạc để kịp thời giúp đỡ các em. Hãy tạo
niềm tin, để các em thật sự an tâm chia sẽ khi các em cần thiết. Giáo viên có
thể cho bài tập về nhà:
 Em hãy trình bày suy nghĩ của mình về quan hệ tình dục và lối sống
thử của giới trẻ hiện nay ?
 Bản thân em phải làm gì để để đảm bảo sức khỏe sinh sản vị thành
niên ?
Hiệu quả giáo dục đối với chương “ Sinh sản” không chỉ dừng lại ở các bài
học trong chương trình mà cần phải có sự kết hợp với Ban hoạt động ngồi
giờ lên lớp mở các buổi ngoại khóa trao đổi nói chuyện chuyên đề về sức
khỏe sinh sản, nhằm nâng cao nhận thức của các em về vấn đề nhạy cảm
này.
3.3. Kết quả so sánh:
Các bước thực hiện

Chưa áp dụng
Áp dụng –hiệu quả
1. Cập nhật các kiến
Kiến thức hạn chế, Cung cấp kiến thức
thức về bệnh và tật học không nắm được tình phong phú hơn, cập
đường có liên quan .
hình thực tế, gị bó theo nhật kịp thời các bệnh
thơng tin từ sgk.
tật học đường có liên
quan từng chương.
Giảng dạy chủ yếu Học sinh ham thích học
2. Sử dụng phương
pháp trực quan kết hợp bằng phương pháp vấn tập, khắc sâu kiến thức
vấn đáp khi giảng dạy đáp, nhiều học sinh lơ hiểu rõ nguyên nhân, cơ
các kiến thức về vệ sinh là chưa chú ý học tập, sở khoa học của các
đa số thụ động. chưa biện pháp vệ sinh.
vận dụng nhiều vào
Trang 19


3. Phương pháp giao
cho học sinh các bài tập
thực hành ở nhà và tăng
cường kiểm tra đánh
giá.

cuộc sống, hiệu quả
giáo dục không cao.
Học sinh chưa vận
dụng tốt các biện pháp

vệ sinh vào cuộc sống,
chưa có nhiều thói quen
tốt.

Đa số học sinh vận
dụng được các biện
pháp xây dựng cho từng
chương. Hình thành
được nhiều thói quen, kĩ
năng sống tốt cho học
sinh.

* Số liệu cụ thể :
Lớp áp dụng giải pháp mới
Điểm TBM từ 5
điểm trở lên
37/37

Tỉ lệ
100%

Lớp không áp dụng giải pháp mới
( Do giáo viên khác dạy)
Điểm TBM từ 5
Tỉ lệ
điểm trở lên
28/37
75,7%

C. KẾT LUẬN:

1. Bài học kinh nghiệm:
Để góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo học sinh thành những con người
phát triển toàn diện, người giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề. Đối
với người giáo viên giảng dạy môn sinh học 8 cần phải thực hiện tốt các
bước sau đây:
- Khâu chuẩn bị: Đọc bài, nghiên cứu tài liệu có liên quan từ các sách
chun mơn và báo chí, các trang web...
- Cập nhật thơng tin mới có liên quan, sưu tầm những hình ảnh số liệu có
thể cung cấp cho học sinh cho bài học thêm sinh động, hấp dẫn đối với học
sinh.
- Thiết kế tiết dạy: Nếu có thể các tiết học về các bài vệ sinh nên sử dụng
công nghệ thông tin để soạn giảng.
- Phải luôn chú ý ưu tiên sử dụng phương trực quan, thực hành đồng thời
kết hợp với phương pháp vấn đáp.

Trang 20



×