Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Đề cương ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác Leenin có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.71 KB, 33 trang )

Đề cương ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác Leenin có đáp án
Câu 1: Trình bày quan niệm về đối tượng KTCT học trong các trường phái kinh
tế. Đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác - Lênin.
Đối tượng KTCT học trong các trường phái kinh tế :
Kinh tế chính trị trở thành môn khoa học độc lập vào thời kỳ xã hội phong kiến suy
đồi, hình thành PTSX TBCN, hình thành thị trường dân tộc ở các nước Tây Âu.
Lần đầu thuật ngữ kinh tế học chính trị được nhà kinh tế học pháp là A.Đ
monntchretien đề cập năm 1815 để trình bày toàn bộ các nghành kinh tế và các chính sách
kinh tế của nước Pháp từ đó nó có cơ sở dể nghiên cứu và trở thành một môn khoa học.
* Có nhiều quan niệm khác nhau vềj đối tương kinh tế chính trị học:
- Quan điểm chủ nghĩa trọng thương từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII kinh tế học chính
trị là môn khoa học nghiên cứu về của cải thương nghiệp.
- Quan niệm của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đầu thế kỷ XVIII: KTCT là môn
khoa học khảo sát về bản chất và nguyên nhân sự giàu có và của cải của A. Đam Smith.
(Thuyết bàn tay vô hình)
- Quan niệm của trường phái Keynes đầu thế kỷ XX cho rằng: kinh tế chính trị là khoa
học nghiên cứu phân tích sự vận động và mối quan hệ của những tổng lượng lớn trong toàn
bộ nền kinh tế làm cơ sở đề ra các chính sách kinh tế (thuyết bàn tay hữu hình).
- Quan điểm của kinh tế học trường phái chính hiện đại giữa thế kỷ XX cho rằng: kinh
tế chính trị học là khoa học nghiên cứu các vấn đề về con người và xã hội, lựa chọn như thế
nào để sử dụng những nguồn tài nguyên khan hiếm bắng nhiều cách khác nhau để sản xuất
đáp ứng nhu cầu xã hội.
Đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác – Lênin:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: kinh tế chính trị học là môn khoa học xã hội
nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung của đời sống xã hội, tức là nghiên cứu quan hệ sản
xuất (những quan hệ giữa người với người hình thành trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội) nhằm vạch rõ bản chất và xu hướng vận động của quan hệ sản xuất ở những giai
đoạn phát triển nhất định của loài người
* Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác Lê nin:
- Theo nghĩa hẹp: KTCT nghiên cứu qhsx của 1 ptsx nhất định nhằm vạch rõ bản chất
và xu hướng vận động của ptsx.


- Theo nghĩa rộng: KTCT nghiên cứu qhsx của các ptsx nhằm vạch rõ các quy luật chi
phối tới sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của cải xã hội trong xã hội loài người. Gồm 3
nội dung sau:
+ KTCT nghiên cứu QHSX một cách không biệt lập, tách rời mà nằm trong mối quan
hệ biện chứng với LLSX và kiến trúc thượng tầng.
+ Kinh tế chính trị nghiên cứu 3 mặt của QHSX thể hiện trong cả 4 khâu của quá trình
sản xuất, tái sản xuất xã hội.
+ Kinh tế chính trị nghiên cứu về quan hệ sản xuất không dừng ở việc mô tả vẻ bề
ngoài mà đi sâu nghiên cứu các mối quan hệ bản chất bền vững và xu hướng vận động của
quan hệ sản xuất tức là nghiên cứu các quy luật kinh tế và cơ chế vận hành của nền kinh tế.
1
Câu 2 : Trình bày phương pháp nghiên cứu của KTCT học Mác - Lenin. Phân tích
phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học chính trị Mác Lênin: Kinh tế học chính trị
MLN sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong nghiên cứu các hiện tượng và quá trình
kinh tế. Cụ thể các phương cơ bản gồm:
- Phương pháp biện chứng duy vật: Phương pháp này đòi hỏi xem xét các hiện tượng, sự
vật kinh tế trong mỗi quan hệ chung và tác động lẫn nhau trong sự vận động không ngừng,
trong đó sự tích lũy về lượng sẽ đẫn đến sự biến đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi
nguồn gốc của sự pháp triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
- Phương pháp nghiên cứu phổ biến: Quan sát, thống kê, thực nghiệm, phân tích - tổng
hợp, diễn dịch và quy nạp, mô hình toán học, hệ thống – cấu trúc… Các phương pháp này có
ưu điểm riêng trong từng ngành khoa học nhất định. Tuy thuộc vào đối tượng nghiên cứu,
mục đích đạt tới của từng nghiên cứu, các phương pháp này được tận dụng một cách hợp lý
theo từng mức độ sử dụng khác nhau.
- Phương pháp trìu tượng hóa khoa học: Là gạt bỏ đi khỏi đối tượng nghiên cứu là
những cái ngẫu nhiên, không bền vững và tạm thời để tìm ra những cái cốt lõi, ổn định, điển
hình lặp đi lặp lại, trên cơ sở đó nắm được bản chất, hiện tượng, quá trình kinh tế tiến tới
khái quát và xây dựng phạm trù, quy luật phản ánh bản chất đó. Một số yêu cầu cần quán
triệt của phương pháp này là: quan điểm hệ thống toàn diện trong nhận thức và ứng xử đối

với hiện tượng, quá trình kinh tế; thống nhất giữa cái chung và cái riêng; thống nhất giữa
lôgic và lịch sử; từ cụ thể tới trừu tượng phải được bổ sung bằng quá trình ngược lại từ trừu
tượng tới cụ thể.
2
Câu 3: Hai thuộc tính của hàng hóa? Vì sao hàng hóa có hai thuộc tính?
* Khái niệm Hàng hóa: Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu
nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản
xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính:
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là ích dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người. Ví dụ, công dụng của một cái kéo là để cắt nên giá trị sử dụng của nó là để cắt;
công dụng của bút để viết nên giá trị sử dụng của nó là để viết. Một hàng hóa có thể có một
công dụng hay nhiều công dụng nên nó có thể có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
- Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Ví dụ: Cả quần áo và thóc lúa đều là sản phẩm của quá trình sản xuất thông qua
lao động, là sản phẩm của lao động, có lao động kết tinh vào trong đó. Có sự chi phí về thời
gian, sức lực và trí tuệ của con người khi sản xuất chúng.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong đó, giá
trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá
trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao
động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi
lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện
quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền
với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính
xã hội của hàng hoá.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng là
sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng,
nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử
dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan
tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử

dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử
dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện
được giá trị sử dụng.
* Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính vì lao động sản xuất có tính chất hai mặt: Lao động
cụ thể và lao động trừu tượng.
- Lao động cụ thể: Là sự hao phí sức lao động giữa một ngành nghề chuyên môn nhất
định. Lao động này tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá
- Lao động trừu tượng: Là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hoá không
kể đến các hình thức cụ thể của nó. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
3
Câu 4: Những biểu hiện chính của CNTB độc quyền Nhà nước? Xu hướng vận
động của CNTB hiện nay?
- Khái niệm: CNTBĐQNN là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nó thể hiện mức độ phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản độc quyền. CNTBĐQ bắt
nguồn tự sự xã hội hóa ở mức cao hơn về lực lượng sản xuất dẫn tới sự thay thế hình thức sở
hữu độc quyền tư nhân tư bản bằng hình thức sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân và nhà nước tư
sản.
- Những biểu hiện chính của CNTBNN:
1. Sự dung hợp giữa các tổ chức độc quyền nhà nước tư sản:
Sự dung hợp diễn ra ở hai phương diện: Nhân sự và chính sách: Đây là quan hệ nhân
quả trong việc hợp nhất sức mạnh kinh tế của tổ chức độc quyền với quyền lực chính trị và vị
thế của nhà nước tư bản trong việc bảo đảm lợi ích chung.
Cài cắm nhân sự đan xen chéo nhau trong các bộ máy của tổ chức độc quyền và nhà
nước tư sản và nhà nước tư sản và hiện tượng đáng chú ý trong CNTBĐQNN. Sự kết hợp hai
chiều: Thứ nhất, Các tổ chức độc quyền cũng tìm mội cách để cài cắm nhân sự của mình vào
bộ máy nhà nước, bằng nhiều cách ( tranh cử, tài trợ, mua chuộc…). Thứ hai, nhà nước tư
sản cũng cử người nắm giữ các chức vụ trong tổ chức độc quyền (tranh cử, vận động hành
lang, .)
2. Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế
Là tổng thể những thiết chế , công cụ và chính sách kinh tế nhà nước, Hệ thống công cụ,

chính sách gồm 4 nhóm chính:
- Một là, hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi pháp luật (Luật đầu tư, thuế, thương
mại, luật lao động luật cạnh tranh ).
- Hai là, kế hoạch hóa nền kinh tế, đảm bảo kinh tế phát triển theo kế hoạch, chiến lược,
mục tiêu đề ra
- Ba là, hệ thống công cụ, chính sách kinh tế (chính sách tài chính, chính sách tiền tệ,
thuế, công nghiệp, công nghiệp …
- Bốn là, nguồn lực kinh tế nhà nước. Nhà nước sở hữu nhiều nguồn lực KT như: tài
nguyên thiên nhiên, ngân sách, nguồn dự trữ quốc gia…
3. Hình thành và phát triển khu vực kinh tế nhà nước.
Là kết quả tất yếu của sự can thiệp sâu của nhà nước vào các quá trình kinh tế của nền
kinh tế quốc dân. Một mặt nhà nước cần có thực lực kinh tế đủ đủ mạnh để thâu tóm nguồn
KT, Mặt khác khu vực kinh tế thực sự cần thiết để cung cấp các dịch vụ công mà khu vực tư
nhân không thể cung cấp hoặc không muốn cung cấp hoặc cung cấp không đủ…(thành lập
mới hoặc mở rộng các cơ sở KT bằng vốn, NS nhà nước; hình thành trên cơ sở quốc hữu
hóa, mua cổ phiếu khống chế trong các công ty cổ phần).
Lý do phát triển sở hữu nhà nước:
- Nhà nước điều tiết trực tiếp vào hoạt động KT thông qua khu vực công bằng các biện
pháp cụ thể (điều tiết sản lượng, giá cả của Cty nhà nước.
- Là thực lực để nhà nước nắm giữ toàn bộ nền KT, qua đó nhà nước định hướng phát
triển cụ thể, khắc phục những khuyết tật của thị trường.
4
- Giải quyết vấn đề xã hội, công ăn, việc làm …
4. Chủ nghĩa độc quyền nhà nước trên phạm vi quốc tế.
Tập đoàn KT lớn hiện đại vươn tầm ảnh hưởng và mở rộng lợi ích của mình trong mọi
ngành, lĩnh vực xâm nhập vào các quốc gia trên các châu lục của TG. Đứng sau các tập đoàn
có sự hậu thuẫn của nhà nước tư bản (như ngoại giao, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ KT )
Trong bối cảnh hiện đại, “quyền lực mềm”, “biên giới mềm” thể hiện rõ sức mạnh
chính trị và KT của các thế lực tài phiệt và bộ máy nhà nước tư bản trong việc thôn tính và
chiếm đoạt lợi ích bên ngoài lãnh thổ của mình, có nhiều quan hệ KT ràng buộc và lệ thuộc

thông qua hợp tác, liên kết, chuyển giao KH-CN…
Nền kinh tế tri thức, ứng dụng khoa học gần như xóa bỏ khoảng cách không gian và
thời gian giữa các quốc gia.
Chính phủ điện tử là một phương thức giao dịch hiện đại trong quản trị nhà nước, trao
đổi thông tin, tham vấn giữa các chính phủ và thế lực bên ngoài (hình thành các mô hình
“Siêu quốc gia, như EU, …)
=> Xu thế vận động: xu hướng vận động toàn cầu.
* Xu hướng vận động và biểu hiện mới của CNTB hiện đại:
+ Xu hướng vận động: Các nền kinh tế tư bản đang chuyển dần sang nền kinh tế tri
thức, với đặc trưng phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Điều này mở ra triển vọng cho
sự thúc đẩy tiểm năng kinh tế và con người lên tới mức độ cao hơn nữa, tạo cơ sở vật chất -
kỹ thuật đầy đủ hơn cho sự ra đời của xã hội cao hơn sau CNTB.
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa
cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất
ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở
nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản
ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối, và ở một
chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm giảm bớt tính gay gắt của mâu
thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu. Theo sự phân tích của
Mác và Lênin, đến một chừng mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị
phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới - sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được
xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thúc sản xuất mới -
phương thúc sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và phủ định phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, phải nhận thức rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không tự tiêu
vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải
được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh

đạo cuộc cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân
+ Khả năng điều chỉnh: Các nhà nước tư bản tích cực chủ động điều tiết kinh tế nhằm
hạn chế những mâu thuẫn nội tại trong xã hội và ổn định nền kinh tế vĩ mô. CNTB luôn điều
chỉnh QHSX thích ứng thích ứng với sự phát triển ngày càng cao của LLSX trên quy mô
quốc tế. Thực hiện cơ chế điều chỉnh kinh tế toàn cầu, đó là phối hợp tối ưu của ba cơ chế:
thị trường quốc tế, độc quyền xuyên quốc gia và sự phối hợp của liên nhà nước.
5
Câu 5: Nêu nội dung cơ bản của sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam. Trình bày cơ cấu của sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.
* Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải trong một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định, gắn liền với một tổ chức xã hội nhất định.
* Nội hàm quan hệ sở hữu:
- Chủ sở hữu: Là yếu tố quan trọng của quan hệ sở hữu, vì đó chính là người sở hữu, là
nhân tố tích cực, chủ động trong quan quan hệ sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường phát
triển, chủ sở hữu có thể là: Các cá nhân, tập thể, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội,
nhà nước, toàn dân vai trò của người sở hữu cũng thay đổi, vận động phát triển cùng với sự
phát triển của sản xuất xã hội.
- Đối tượng sở hữu: Là “vật trung gian” trong quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất. Đó chính là của cải xã hội, trong đó cơ bản và quyết định nhất là tư liệu sản
xuất. Đói tượng sở hữu luôn vận động và biến đổi theo sự phát triển của LLSX và kinh tế thị
trường. Trong điều kiện khoa học, công nghệ đã trở thành LLSX trực tiếp thì đối tượng sở
hữu cũng như cơ cấu đối tượng sở hữu ngày càng mở rộng, đa dạng, phong phú. Ngoài tư
liệu sản xuất cơ bản còn có vốn; đặc biệt ngày nay còn xuất hiện đối tượng sở hữu mới, đó là
sở hứu trí tuệ.
- Nội dung pháp lý của sở hữu: Quan hệ sở hữu một khi được thể chế hóa, tức là được
thể hiện dưới những hình thức nhất định có tính chất pháp lý gọi là chế đọ sở hữu. Chế độ sở
hữu được xác định dưới dạng quyền năng: quyền sở hữu, quyền quản lý, quyền kinh doanh
(quyền sử dụng), quyền định đoạt, quyền thực hiện hưởng lợi từ các quyền năng trên.
- Nội dung kinh tế của sở hữu: Thể hiện ở chỗ nó là cơ sở, là điều kiện sản xuất. Mặt
khác nói đến sở hữu là nói đến quan hệ chiếm hữu các điều kiện sản xuất và kết quả sản xuất.

Do đó nội dung kinh tế của sở hữu còn biểu hiện ở những lợi ích kinh tế, quyền lợi kinh tế
mà chủ sở hữu được hưởng từ những cái mà họ sở hữu.
* Nội dung cơ bản của quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
1. Sở hữu nhà nước (hay sở hữu toàn dân):
Đây là hình thức sở hữu mà nhà nước là chủ thể hoặc đại diện cho nhân dân sở hữu.
Đối tượng sở hữu toàn dân gồm: đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên trong lòng
đất, các công trình công cộng, nguồn vốn nhà nước đầu tư Nhà nước ta với tư cách là cơ
quan quyền lực, đại biểu cho lợi ích của nhân, đóng vai trò người chủ sở hữu đối tượng sở
hứu toàn dân. Nhà nước có quyền và trách nhiệm tổ chức quản lý, giao cho cho các chủ thể
khác sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo tồn và phát triển các nguồn tài sản đó
Căn cứ vào đặc điểm của đối tượng sở hữu, có thể phân biệt tài sản quốc gia bao gồm:
tư liệu sản xuất, vốn do NN đầu tư trong các doanh nghiệp, ngân sách, dự trữ quốc gia
thuộc sở hữu NN. NN với tư cách là người chủ sở hữu thực hiện quyền chiếm hữu, định đoạt,
chi phối phần tài sản đó thông qua cơ chế, chính sách pháp luật và những biện pháp thích
hợp. (đọc thêm Tr 137)
2. Sở hữu tập thể: Là sở hữu của mọt tâp thể người lao động. Đối tượng của nó là phần
tài sản do quá trình tích lũy chung tạo nên, hoặc phần tài sản được cho, biếu, tặng. Những tài
sản này có thể tồn tại dưới hình thức hiện vật hoặc giá trị.
Ở đây cần chú rằng, phần vốn của từng thành viên đóng góp vào tập thể không phải sở
hữu tập thể. Đó là sở hữu cá nhân – thành viên trong tập thể đó trao quyền sử dụng cho tập
thể.
6
Loại hình sở hữu này có thể được hình thành trong mọi tập thể lao động, không chỉ
trong các dơn vị kinh tế tập thể như hợp tác xã, mà cả trong doanh nghiệp của các tổ chức
kinh tế, chính trị, xã hội. Quyền sở hữu tài sản trong hình thức sở hữu tập thể thuộc về toàn
thể các thành viên trong tập thể đó, họ có thể ủy nhiệm việc thực hiện quyền này cho những
người được chính họ cử ra hoặc suy tôn làm thủ lĩnh, không một cá nhân nào được quyền
thực hiện quyền sở hữu tài sản chung của tập thể.
3. Sở hữu tư nhân: Đây là hình thức sưở hữu của từng cá nhân đối với tài sản, vốn, tư

liệu sản xuất mà họ có quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và quyền thực hiện lợi
ích kinh tế Ở nước ta hiện nay sở hữu tư nhân gồm: Sở hữu tư nhân TBCN và sở hữu tư
nhân nhỏ, cá thể.
Sở hữu tư nhân nhỏ, cá thể là sở hữu về lư liệu sản xuất của bản thân người lao động.
Chủ sở hứu này là nông dân cá thể, thợ thủ công, tiểu thương; họ vừa là chủ sở hữu và là
người lao động.
Sở hữu TBCN là hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của các nhà tư bản (trong và ngoài
nước) đầu tư vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Loại này có thể
tồn tại với những quy mô khác nhau, bao gồm cả quy mô nhỏ, vừa và lớn. Chủ sở hữu có thể
trực tiếp thực hiện quyền sở hữu và điều hành quá trình kinh doanh hoặc ủy quyền cho người
khác thực hiện các công việc này dưới hình thức hợp đồng thuê quản lý điều hành.
4. Sở hữu hõn hợp: Là hình thức kết hợp, đan xen giữa loại hình sở hữu (công hữu và tư
hữu) làm xuất hiện trong đời sống thực tiễn hình thức sở hữu hỗn hợp, kết hợp trong nó các
yếu tố của hai loại hình sở hữu trên. Hình thức sở hữu này là cơ sở hình thành các tổ chức
kinh tế đa dạng của nền kinh tế. Đó cũng là thể hiện đặc thù của nền kinh tế của thời ký quá
độ lên CNXH.
7
Câu 6: Trình bày quá trình hình thành và phát triển của KTTT. Nêu khái quát các
đặc điểm của nó?
1. Khái niệm kinh tế thị trường (KTTT): Là sự phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó mọi yếu tố đàu vào và đầu ra của nền kinh tế đều được thực hiện thông qua các quy
luật kinh tế thị trường.
2. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường:
Xét về mặt lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, kinh tế thị trường phát triển theo
các nấc thang phát triển của sản xuất hàng hóa, của sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội. Có thể thấy những tiến trình khách quan của sự hình thành và phát triển của kinh tế thị
trường như sau:
- Tiến trình thứ nhất: Trên cơ sở phân công lao động xã hội và trao đổi, thông qua quan
hệ hàng hóa tiền tệ, phá vỡ cơ cấu của nền kinh tế hiện vật, thực hiện tự do hóa kinh tế (cạnh
tranh, tự do kinh doanh và tự chủ);

- Tiến trình thứ hai: Lấy sự phân công lao động máy móc làm cơ sở kỹ thuật, thông qua
công nghiệp hóa để thúc đẩy quá trình chuyển hóa các yếu tố đầu vào của sản xuất thành hàn
hóa trên thị trường (kể cả đất đai và sức lao động);
- Tiến trình thứ ba: Phát triển phân công lao động và hợp tác lao động trên phạm vi quốc
tế (toàn cầu hóa, khu vực hóa đời sống kinh tế); sự tác động của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ hiện đại.
Như vậy, trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường có liên quan mật
thiết với các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Tương ứng với các tiến trình phát
triển của lực lượng sản xuất là 3 nấc thang phát triển của nền sản xuất xã hội từ kinh tế hàng
hóa đơn giản sang KTTT tự do (cổ điển) và KTTT hiện đại (hỗn hợp).
3. Khái quát đặc điểm của kinh tế thị trường hiện đại
KTTT được phát triển ở các loại hình khác nhau phát triển, nhưng phổ biến nhất là nền
KTTT hỗn hợp và hiện nay có nhiều quốc gia trên thế giới phát triển theo loại hình này.
KTTT hỗn hợp là nền kinh tế vừa vận hành theo CCTT, vừa chịu sự điều tiết của NN. Nền
KTTT có những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, nền KTTT có sự điều tiết của NN, là nền kinh tế đa chủ thể. Các chủ thể
kinh tế dựa trên các chế độ sở hữu khác nhau và tham gia hoạt động trong nền kinh tế được
tự chủ sản xuất kinh doanh, hoạt động theo pháp luật.
- Thứ hai, trong nền KTTT có sự điều tiết của NN thị trường vừa là căn cứ vừa là đối
tượng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh; tức là hoạt động sản xuất kinh doanh phải
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và hướng tới phục vụ thị trường.
- Thứ ba, CCTT và giá cả là công cụ quan trọng phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế
quốc dân.
- Thứ tư, vai trò điều tiết của NN trong nền KTTT. Nền KTTT vận hành theo cơ chế thị
trường và cơ chế thị trường có tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự
điều tiết của NN đối với nền kinh tế để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
CCTT.
8
Câu 7: Trình bày tính tất yếu của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay, điều kiện cơ bản để phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam?

1. Nêu, phân tích khái niệm KTTT định hướng XHCN.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một khái niệm kinh tế
chính trị học mới mẻ, trước đây chưa từng có, nó sinh ra từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Nội hàm của khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bao
gồm hai dấu hiệu chính: 1) Kinh tế thị trường, 2) Định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường (quy luật giá
trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cạnh tranh ). Còn nội hàm của định hướng xã hội chủ
nghĩa có những dấu hiệu, như hợp tác, nhân đạo; lợi nhuận chỉ là phương tiện để đạt được
mục đích vì con người. Nền sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải:
Một là, khuyến khích làm giàu chính đáng, đồng thời tích cực xóa đói, giảm nghèo (vì
nghèo thì không phải là chủ nghĩa xã hội);
Hai là, phát triển kinh tế song song với thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội, bảo
đảm công bằng và an sinh xã hội, chú trọng phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm cho
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng gần lại;
Ba là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo có một trong những chức năng là điều tiết,
định hướng nền kinh tế, chủ yếu ở tầm vĩ mô, ví dụ như ở các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, ngân
hàng, các nguồn lực,
Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là quá trình phát triển phải nhắm tới một đích (dù
xa và cho dù thời gian khá dài) là xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Khái quát đặc điểm của kinh tế thị trường hiện đại
KTTT được phát triển ở các loại hình khác nhau phát triển, nhưng phổ biến nhất là nền
KTTT hỗn hợp và hiện nay có nhiều quốc gia trên thế giới phát triển theo loại hình này.
KTTT hỗn hợp là nền kinh tế vừa vận hành theo CCTT, vừa chịu sự điều tiết của NN. Nền
KTTT có những đặc trưng sau:
+ Thứ nhất, nền KTTT có sự điều tiết của NN, là nền kinh tế đa chủ thể. Các chủ thể
kinh tế dựa trên các chế độ sở hữu khác nhau và tham gia hoạt động trong nền kinh tế được
tự chủ sản xuất kinh doanh, hoạt động theo pháp luật.
+ Thứ hai, trong nền KTTT có sự điều tiết của NN thị trường vừa là căn cứ vừa là đối
tượng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh; tức là hoạt động sản xuất kinh doanh phải

xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và hướng tới phục vụ thị trường.
+ Thứ ba, CCTT và giá cả là công cụ quan trọng phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế
quốc dân.
+ Thứ tư, vai trò điều tiết của NN trong nền KTTT. Nền KTTT vận hành theo cơ chế thị
trường và cơ chế thị trường có tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự
điều tiết của NN đối với nền kinh tế để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
CCTT.
* Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước
ta:
- Sự tồn tại khách quan của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ:
+ Phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều sâu;
9
+Tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên cơ sở một số hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất;
+ KTTT còn là sự cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế giữa VN với các nước trên
thế giới, nhất là trong điều kiện ngày nay – điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,
yêu cầu VN phải quan hệ giao dịch với tất cả các nền kinh tế thị trường trên thế giới, tuân thủ
luật chơi quốc tế và thực hiện các cam kết.
- Tác dụng của nền kinh tế thị trường:
+ Chuyền đổi tư duy kinh tế TN sang tư duy kinh tế hàng hóa, KTTT;
+ Khai thác, huy động mọi tiềm năng nguồn lực các thành phần kinh tế;
+ Thúc đẩy và tạo điều kiện ứng dụng những thành tựu KH-KT và công nghệ tiên tiến,
làm cho LLSX phát triển, năng suất lao động tăng lên nhanh chóng;
+ Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sự phân công lao động xã
hội phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Kích
thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
+ Tạo ra những điều kiện vật chất thuận lợi để thực hiện mở rộng giao lưu kinh tế, văn
hóa giữa các ngành, các vùng trong nước, giữa nước ta với các nước trên thế giới, từ đó
phát triển kinh tế đối ngoại;

+ Góp phần đắc lực trong việc ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; từng bước thiết
lập các cân đối lớn của nền kinh tế Trên cơ sở đó làm cho nền kinh tế phát triển một cách
ổn định và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững;
* Những điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở VN
- Nguồn lực lao động dồi dào, có ý chí sáng tạo vươn lên;
- Cơ sở vật chất – kỹ thuật và trình độ công nghệ mặc dù chưa lớn, chưa đồng bộ, chưa
hiện đại, nhưng với nhứng gì mà chúng ta đã có, nếu biết tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu
quả hơn thì chắc chẵn đây là một khả năng hết sức to lớn để phát triển kinh tế thị trường;
- Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới là
điều kiện tốt để ta có thể tiếp thu và ứng dụng, nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta phát
triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;thuôc
- Các tiềm năng về khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý khá thuận lợi, dồi dào phong phú;
- Nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư để phát triển kinh tế nói chung và phát triển
KTTT nói riêng đang tăng lên với tốc độ khá nhanh và quy mô lớn;
- Thị trường trong nước giầu tiềm năng, thị trường ngoài nước ngày càng được mở rộng
cùng với xu thuế quốc tế hóa, khu vực hóa và tự do thương mại trên thế giới;
- Việt Nam là nước thuộc khu vực chấu Á – Thái Bình dương một khu vực mà kinh tế
phát triển năng động, với tốc độ nhanh trong thập kỷ qua và có đầy đủ triển vọng tiếp tục
phát triển vào đầu thế kỷ này;
- Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta đã và đang đi vào cuộc sống.
10
Câu 8: Nêu các mô hình CNH đặc trưng trên thế giới? Bài học kinh nghiệm cho
quá trình CNH ở Việt Nam
Khái niệm CNH, HĐH:
CNH chính là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, tức là quá trình tạo lập nền
tảng vật chất - kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của phương thức sản xuất mới.
CNH không đơn thuần chỉ là quá trình chuyển biến kỹ thuật mà còn là quá trình cải
biến thể chế và cấu trúc của nền kinh tế. CNH cũng chính là quá trình cải biến hệ thống thể
chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế hiện vật - khép kín, tự túc sang nền kinh tế thị trường
dựa trên sự phân công lao động xã hội phát triển mạnh mẽ.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
– công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCH TW
khóa VII, Nxb CTQG 1994,tr4)
Đặc trưng mô hình cổ điển (tuần tự)
 Đây là mô hình CNH đầu tiên trong lịch sử, diễn ra vào giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ
19 tại các nước Tây Âu, bắt đầu ở Anh, Pháp sau đó lan tỏa sang Đức, Nga, Mỹ
 Nhờ CNH, cơ cấu kinh tế chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp
 Những chuyển biến kinh tế và xã hội của thời kỳ phong kiến tan rã và CNTB tạo tiền
đề cho quá trình CNH
 Cách mạng công nghiệp diễn ra một cách tuần từ với thời gian dài.
 Bộ mặt xã hội thay đổi, phong cách và tư duy cũng thay đổi
Đặc trưng: Thứ nhất: Xuất phát từ cuộc cách mạng trong nông nghiệp, làm tăng năng suất
lao động, tạo tiền đề cho việc giải phóng lao động từ NN sang phi NN, chuyển từ kinh tế
tự nhiên (tự cấp tư túc) sang kinh tế hàng hóa
Thứ hai: CNH diễn ra tuần tự theo tiến trình: CN nhẹ -> CN nặng -> giao thông vận tải
-> nông nghiệp -> dịch vụ và lưu thông
Thứ ba: CNH diễn ra tuần tự, từ từ, chậm chạp với khoảng thời gian hàng trăm năm
Đặc trưng mô hình rút ngắn (Nhảy vọt)
 Điển hình là Nhật Bản và các nước CNH mới (NICs) châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan,
Hông Kông, Singapore…).
 Quá trình CNH đi qua 2 giai đoạn:
 Giai đoạn tạo tiền đề cho CNH: Tạo ra những đột phá trong NN, xây dựng kết cấu hạ
tầng và sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu.
Giai đoạn CNH: Tăng tốc về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế ở
mức cao, tạo thuận lợi cho phát triển CN CNC, gắn CNH với HĐH.
Quá trình CNH được rút ngắn diễn ra trong vòng 30 năm, nhờ:
11

 Tận dụng cơ hội tốt để “đi tắt” thông qua tiếp nhận công nghệ và đi thẳng vào công
nghệ hiện đại;
 Tiến hành những bước đi thích hợp: lúc đầu là nhập công nghệ -> thích nghi và cải
tiến -> xây dựng năng lực KHCN nội sinh -> sáng tạo và xuất khẩu công nghệ
 Thực hiện các chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, đầu tư vào nguồn nhân lực và
hướng vào xuất khẩu.
Đặc trưng mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu):
Diễn ra ở các nước: Nhật Bản, các nước NICs châu Á (từ những năm 1960) và các nước
ASEAN (những năm1970 – TK XX)
 Đề cao nội lực của quốc gia trong phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, không phụ
thuộc vào nước ngoài
 Đề cao phát triển thị trường trong nước
 Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng khép kín trong nội tại nền kinh tế
Đặc trưng mô hình hướng ngoại:
Diễn ra ở các nước: Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan (thập kỷ 70 – TK
XX)
 Tận dụng ngoại lực phục vụ quá trình CNH trong nước
 Phát huy lợi thế so sánh trong mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
 Đổi mới cơ chế vận hành nền kinh tế, phù hợp với thị trường kinh tế
 Cơ cấu chuyển dịch theo hướng mở, tham gia đầy đủ hơn vào thị trường quốc tế
Đặc trưng mô hình hỗn hợp:
Diễn ra ở các nước đang phát triển từ những năm 1970 cho đến nay
 Khai thác yếu tố ưu việt của mô hình khép kín (hướng nội) và mô hình mở (hướng
ngoại)
 Vừa phát triển hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước vừa lấy yêu cầu thị
trường quốc tế làm đích phấn đấu
 Tận dụng lợi thế của các nước đi sau
 Tham gia vào phân công lao động quốc tế
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
- Chiến lược và phương thức tiến hành

- Kết hợp các nguồn lực: bên trong và bên ngoài
- Tận dụng lợi thế đi sau
- Yếu tố văn hóa truyền thống
- Vai trò của Nhà nước
12
Câu 9: Nội dung cơ bản của CNH, HĐH gắn với nền kinh tế tri thức ở Việt Nam?
1. Khái niệm CNH, HĐH:
CNH chính là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, tức là quá trình tạo lập nền
tảng vật chất - kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của phương thức sản xuất mới.
CNH không đơn thuần chỉ là quá trình chuyển biến kỹ thuật mà còn là quá trình cải
biến thể chế và cấu trúc của nền kinh tế. CNH cũng chính là quá trình cải biến hệ thống thể
chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế hiện vật - khép kín, tự túc sang nền kinh tế thị trường
dựa trên sự phân công lao động xã hội phát triển mạnh mẽ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
– công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao
Đặc điểm CNH, HĐH ở Việt Nam:
Thứ nhất: CNH, HĐH được tiến hành trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu,
bình quân ruộng đất thấp
Thứ hai: CNH, HĐH diễn ra trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
nhanh chóng
Thứ ba: CNH, HĐH tiến hành trong gắn bó với quá trình chuyển nền kinh tế sang hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
Thứ tư: CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân
Thứ năm: CNH, HĐH diễn ra trong bối cảnh xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế
đang diễn ra mạnh mẽ
Nhóm các yếu tố nguồn lực đảm bảo CNH, HĐH: - Ưu tiên phát triển nguồn lực:
Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố : Vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ cấu kinh
tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước thì mỗi con người là yếu tố quyết định
Nên phải chú trọng phát triển giáo dục – đào tạo phải đủ số lượng, cân đối cơ cấu và
trình độ có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của
thế giới
* Phát triển khoa học, công nghệ: khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của
công nghiệp hóa, HĐH. Khoa học công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế
Nước ta phát triển, khoa học công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc, nhất là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, và công nghệ vật liệu mới
- Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho CNH, HĐH
* Nhóm các yếu tố từ phía quản lý Nhà nước:
- Ổn định chính trị, KT xã hội và làm tốt công tác điều tra cơ bản
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và tăng cường vai trờ của Nhà nước.
13
Phần 6 điểm:
Câu 1: Phân tích nội dung các quy luật kinh tế và cơ chế vận dụng các quy luật
kinh tế trong kinh tế chính trị Mác – Lê nin? Đánh giá cơ chế vận dụng quy luật kinh tế
ở nước ta hiện nay?
* Khái niệm quy luật kinh tế:
Quy luật kinh tế là mỗi quan hệ bản chất, tất yếu, quan hệ nhân quả, vững chắc, lặp đi
lặp lại của các hiện tượng, quá trình kinh tế. Quy luật kinh tế là khách quan và mang tính xã
hội cao, bị chi phối bởi giới hạn lịch sử.
* Nội dung các quy luật kinh tế:
Căn cứ vào điều kiện hình thành và vai trò tác động, hệ thống các quy luật kinh tế có thể
phân chia thành 3 loại sau:
1. Những quy luật kinh tế chung cho tất cả các phương thức sản xuất. Có thể kể đến
như: Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, quy luật tiết kiệm thời gian,
Quy luật nhu cầu tăng lên, quy luật nâng cao năng suất lao động xã hội… Các quy luật này
phát huy tác dụng của chúng trong mọi phương thức sản xuất, trong bất cứ giai đoạn phát

triển kinh tế nào trong lịch sử. Tuy nhiên, hiệu lực tác động và hình thức thể hiện của chúng
trong các phương thức sản xuất hay giai đoạn phát triển kinh tế không hoàn toàn như nhau.
2. Những quy luật kinh tế phổ biến cho một số phương thức sản xuất. Đó là nhóm một
số quy luật phát huy tác động nhất định trong các phương thức sản xuất có những điều kiện
tương đồng. Những quy luật có thể kể tới như quy luật giá trị, cung – cầu và giá cả, lưu thông
tiền tệ, cạnh tranh… Hiệu lực tác động và hình thức thể hiện của chúng trong các phương
thức sản xuất hay giai đoạn phát triển kinh tế tương đối đa dạng trong từng phương thức sản
xuất và điều kiện kinh tế cụ thể.
3. Những quy luật kinh tế đặc thù. Các quy luật này chỉ phát huy tác dụng trong một
phương thức sản xuất nhất định. Ví dụ quy luật sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư
bản, quy luật phân phối theo lao động trong CNXH.
* Cơ chế vận dụng của các quy luật kinh tế:
Là hệ thống những hình thức, phương pháp, công cụ kinh tế phù hợp với yêu cầu, nội
dung của các quy luật kinh tế nhằn phát huy tác động của các quy luật này một các tối đa để
đem lại lơi ích cho con người. Cơ chế vận dụng quy luật kinh tế mang tính chủ quan, bao
gồm:
- Mức độ nhận thức quy luật kinh tế (cảm tính, kinh nghiệm, lý tính);
- Hoạch định các chính sách, giải pháp kinh tế phù hợp;
- Lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp để thực thi các chính sách, giải pháp kinh tế;
- Phương thức tổ chức hoạt động kinh tế và phối hợp của con người với bọ máy thực thi.
Đánh giá cơ chế vận dụng quy luật kinh tế ở nước ta hiện nay?
- Đánh giá theo các nội dung:
14
+ Mức độ nhận thức quy luật kinh tế và đề ra mục tiêu, hoạch định các chính sách, giải
pháp kinh tế phù hợp.
+ Lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp để thực thi các chính sách, giải pháp kinh tế;
phương thức tổ chức hoạt động kinh tế và phối hợp của con người với bộ máy thực thi.
- Đề xuất giải pháp theo nội dung:
+ Mức độ nhận thức quy luật KT và đề ra mục tiêu; hoạch định các chính sách, giải
pháp kinh tế; phương thức tổ chức hoạt động kinh tế và phối hợp của con người với bộ máy

thực thi.
15
Câu 2: Phân tích nội dung (yêu cầu) và tác động của quy luật giá trị? Biểu hiện của
quy luật giá trị trong các giai đoạn khác nhau của CNTB? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
quy luật giá trị với phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay?
* Nội dung qui luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có
sản xuất hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động một các khác quan không phụ thuộc
vào ý muốn con người. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở
giá trị của nó, tức là trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Cụ thể là:
- Trong sản xuất: Quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải căn cứ vào hao phí lao
động xã hội cần thiết, luôn có cách thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ
hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Trong lưu thông: Trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
Cơ chế tác động của Quy luật giá trị đối với nền kinh tế hàng hoá là thông qua sự lên
xuống của giá cả thị trường.
* Tác độngcủa Quy luật giá trị:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá:
+ Điều tiết sản xuất: Là sự điều hòa, phân phối các yếu tố sản xuất vào các ngành kinh
tế khác nhau. Sự điều tiết này diễn ra tự phát theo quy luật cung – cầu hàng hóa. Nếu cung <
cầu (hàng hóa thiếu hụt) giá cả > giá trị, hàng hóa sẽ bán với lãi cao, người sản xuất sẽ tập
trung nguồn lực vào sản xuất, cung sẽ tự được điều hòa và ngược lại. Tác động của quy luật
giá trị là làm thay đổi cơ cấu sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nhưng cũng
gay ra tính mất cân đối trong sản xuất do tính tự phát của nó.
+ Quy luật điều tiết lưu thông hàng hóa thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường. Khi
giá cả cao hơn sẽ thu hút nguồn hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Nó làm cho hàng
hóa tự di chuyển từ nơi thừa đến nới thiếu; nó vừa điều hòa lưu thông hàng hóa, vừa gay ra
xáo trộn bất ổn trên thị trường do tính tự phát vô chính phủ của nó.
- Kích thích cải tiến kỹ, thuật, hợp lý hoá sản xuất tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm (kích thức lực lượng sản xuất phát triển).

Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau. Nhưng trên thị trường
đều phải trao đổi theo mức phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt
của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội thì sẽ có lợi. Vì vậy, mỗi người sản xuất hàng hoá đều
tìm cách giãm giá trị cá biệt hàng hoá hàng hoá của mình xuống dưới mức giá trị xã hội bằng
các cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết
liệt làm cho năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không
ngừng giãm xuống.
- Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân bố những nhà sản xuất hàng hoá người
sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo, làm nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong sản xuất hàng hoá, hàng hoá của nhà sản xuất nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị
xã hội thì người đó có lợi, ngược lại thì bị bất lợi và phá sản. Vì vậy, một số người phát tài, trở
nên giàu có, một số thì trở nên nghèo đói. Từ đó những người giàu trực tiếp mở rộng sản xuất
16
kinh doanh, thuê them công nhân và trở thành tư bản; những người bị phá sản trở thành những
người lao động làm thuê.
* Biểu hiện của quy luật giá trị trong các giai đoạn phát triển khác nhau của chủ
nghĩa tư bản
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật
giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là trên cơ sở
hao phí lao động xã hội cần thiết. Cụ thể là:
+ Trong sản xuất: Quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải căn cứ vào hao phí lao
động xã hội cần thiết, luôn có cách thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ
hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong lưu thông: Trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
Tác dụng của Quy luật giá trị (có 3 tác dụng):
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự lên xuống giá cả, Quy luật giá
trị có tác dụng điều tiết và lưu thông. Điều tiết sản xuất: Người sản xuất bỏ ngành có giá cả
thấp, đổ xô ngành có giá cả sản xuất cao, làm cho qui mô sản xuất của một số ngành được
mở rộng, một số ngành bị thu hẹp; Điều tiết lưu thông: Làm cho hàng hoá lưu chuyển từ nơi
có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Như vậy, Quy luật giá trị cũng tham gia vào phân phối

các nguồn hàng cho hợp lee hơn giữa các vùng.
+ Kích thích cải tiến kỹ, thuật, hợp lý hoá sản xuất tăng năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm (kích thức lực lượng sản xuất phát triển). Các hàng hoá được sản xuất ra trong
những điều kiện khác nhau. Nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo mức phí lao động
xã hội cần thiết. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội thì
sẽ có lợi. Vì vậy, mỗi người sản xuất hàng hoá đều tìm cách giãm giá trị cá biệt hàng hoá
hàng hoá của mình xuống dưới mức giá trị xã hội bằng các cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất để tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt làm cho năng suất lao động xã hội
không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giãm xuống.
+ Phân bố những nhà sản xuất hàng hoá thành giàu, nghèo, làm xuất hiện quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá, hàng hoá của nhà sản xuất nào có giá trị cá
biệt thấp hơn giá trị xã hội thì người đó có lợi, ngược lại thì bị bất lợi và phá sản. Vì vậy, một
số người phát tài, trở nên giàu có, một số thì trở nên nghèo đói. Từ đó những người giàu trực
tiếp mở rộng sản xuất kinh doanh, thuê them công nhân và trở thành tư bản; những người bị
phá sản trở thành những người lao động làm thuê.
- Trong giai đoạn tự do cạnh tranh, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản
xuất. Giá cả sản xuất là giá cả được xác định bằng chi phí tư bản cộng vói lợi nhuận bình
quân.
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật
giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền là giá cả vượt qua giá cả sản xuất. trong giai đoạn này,
các tổ chức độc quyền áp dụng cơ chế giá cả độc quyền khi mua và cao khi bán.
Giá cả độc quyền bằng chi phí tư bản cộng với lợi nhuận độc quyền cao.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích
17
thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa XH thành kẻ giàu người nghèo, tạo
ra sự bất bình đẳng trong XH.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Thấy được
điều đó, đồng thời với việc thúc đẩy SXHH phát triển, Nhà nước cần có những biện pháp để

phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực của nó, đặc biệt là trong đk phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Đối với điều tiết SX và lưu thông hàng hóa: cần đề ra các phương hướng và đặt ra các
chính sách đặc biệt về giá cả, điều tiết cung-cầu phù hợp với thị trường, với nhu cầu của
người tiêu dùng, mở rộng quy mô SX các mặt hàng có sức hút lớn, giá cả cao đem lại nguồn
lợi nhuận lớn cho người SX, cho toàn XH, làm giàu cho đất nước.
- Đối với việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá SX, tăng năng suất LĐ: cần đẩy
mạnh CNH-HDH, áp dụng công nghệ-KH-Kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào SX nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm ngày càng rẻ, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú,
đa dạng về chủng loại, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, Bên cạnh đó cần
đề ra các chính sách về giá cả, khuyến khích phát triển và đầu tư cho khoa học-công nghệ,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp, Các chính sách mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá
nhân, các vùng, các quốc gia không chỉ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa
phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển mà đs v/c, văn hoá, tinh thần của nd cũng
được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
- Đối với sự phân hóa giàu nghèo: Cần thực hiện các chủ trương, chính sách hữu hiệu
hơn nữa như đánh thuế thu nhập cá nhân. Đối với người giàu-thuế càng cao-phù hợp với mức
thu nhập họ kiếm được. Đối với những người nghèo ngoài việc ko thu thế, phải dành cho họ
những ưu tiên, những chính sách đãi ngộ đặc biệt, trợ cấp, khuyến khích họ học tập, phát
triển, nâng cao trình độ dân trí, để có thể tiến kịp trình độ KH-KT hiện đại và hòa nhập với
một đất nước CNH-HDH trong tương lai. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về
v/c và tinh thần, chủ trương tài trợ và khuyến khích phát triển ở những địa phương, những
gia đình, cá nhân gặp nhiều khó khăn, tạo cơ hội cho họ phát triển, giúp họ có công ăn việc
làm ổn định,
18
Câu 3: Bản chất giá trị thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? Biểu
hiện của quy luật giá trị thặng dư trong các giai đoạn phát triển khác nhau của CNTB?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này

* Bản chất giá trị thặng dư:

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà tư bản
dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai
phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
a) Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Là phương pháp nâng cao quy mô và trình độ bóc lột giá trị thặng dư bằng cách kéo dài
tuyệt đối ngày công lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, năng suất lao động và giá
trị sức lao động không đổi
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới
hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động
quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ.
Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới
hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao
động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian
lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố
định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng
thế kỷ.
b) Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Là phương pháp nâng cao quy mô nâng cao quy mô và trình độ bóc lột giá trị thặng dư
bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu, nhờ đó tăng ứng thời gian lao động thặng dư
trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp
giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của
công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng
năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu

sinh hoạt đó.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ
cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày
nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức
mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
19
* Nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối
Giá trị thặng dư tương đối là khoảng tiền lời bình thường (hay quân bình) mà nhà kinh
doanh có được khi bán sản phẩm ra thị trường. Nhưng khi nhà kinh doanh có phương pháp
mới làm giảm giá thành sản phẩm thì số tiền lời được nâng cao hơn mức bình thường đó là
giá trị thặng dư siêu ngạch. Gọi là biến tướng vì đó phải là hiện tượng cá biệt thì mới có sự
chênh lệch này, khi tất cả những nhà sản xuất có thể áp dụng phương pháp mới này thì tiền
lời sẽ trở lại là giá trị thặng dư tương đối. Vì vậy, C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là
hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong các giai đoạn phát triển khác nhau
của CNTB
* Theo Các Mác, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. Làm thế nào để có nhiều giá trị thặng dư mới là mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt
động của mỗi nhà tư bản cũng như toàn bộ xã hội tư bản.
Nội dung quy luật:
- Sản xuất ra giá trị thặng dư đối đa cho nhà tư bản bằng cách tăng số lượng lao động
làm thuê và tăng mức bóc lột họ. Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, nhà tư bản dùng mọi
thủ đoạn để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát
triển kỹ thuật để tăng năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
- Quy luật giá trị thặng dư tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó quyết định sự
phát sinh và phát triển của chủ nghĩa tư bản và là quy luật vận động của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.

+ Nó tạo ra động lực cho sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản
+ Nó làm cho mâu thuẫn cơ bản và nói chung toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản
ngày càng sâu sắc, dẫn đế sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản.
Biểu hiện của quy luật trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa:
- Tích lũy tư bản: quá trình tích lũy tư bản và hậu quả xã hội của tích lũy tư bản
- Sự hình thành lợi nhuận bình quân ở giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh: tỷ suất lợi
nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân; sự hình thành giá cả sản xuất.
- Lợi nhuận độc quyền ở giai đoạn tư bản độc quyền: độc quyền và cạnh tranh; giá cả
độc quyền
* Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề này:
- Thừa nhận các quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa từ đó liên
hệ tới nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Hiểu rõ hơn các phạm trù của học thuyết giá trị thặng dư trong bối cảnh của thế giới
hiện đại
- Vận dụng quy luật giá trị thặng dư trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
20
Câu 4: Phân tích những biểu hiện mới về LLSX, QHSX của CNTB hiện đại?
Nguyên nhân dẫn đến sự điều chỉnh này? Theo đồng chí CNTB ngày nay còn tiềm năng
phát triển không? Vì sao?
* Khái niệm CNTBĐQNN:
CNTB đến ngày nay đã phát triển qua hai giai đoạn là: CNTB tự do cạnh tranh và CNTB
độc quyền (CNĐQ). Giai đoạn độc quyền là giai đoạn kế tục trực tiếp của giai đoạn tự do cạnh
tranh của cùng một phương thức sản xuất TBCN.
CNTB độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển mới của CNTB độc quyền.
CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với
sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của
các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho CNTB.
* Những biểu hiện mới về LLSX:
- Sự thay thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống do cuộc cách mạng công

nghiệp mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên cơ sở thành tựu của các cuộc cách
mạng khoa học công nghệ.
- Sự biến đổi về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động biến đổi theo chiều hướng tiến bộ.
Đội ngũ lao động ở các nước TB phát triển đã đạt đến trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp
vụ cao.
- Về tái sản xuất sức lao động: cùng với sự nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao
động, CNTB đã quan tâm đến các yếu tố cấu thành của giá trị hàng hóa sức lao động, thực
hiện nâng cao chất lượng cuộc sống.
* Những biểu hiện mới về QHSX:
- Sự biến đổi về các hình thức sở hữu: hình thức sở hữu đa dạng: có nhiều chủ thể cùng
sở hữu TLSX trong một doanh nghiệp cổ phần với những tỉ lệ khác nhau. Trong đó có cả các
nhà TB lớn nhỏ và kể cả người lao động cũng đóng góp cổ phần để được hưởng lợi tức từ cổ
phần.
Trong CNTB ngày nay, sở hữu không chỉ giới hạn trong sở hữu TLSX (tức là sở hữu
hiện vật) mà chủ yếu là sở hữu về mặt giá trị (vốn) dưới nhiều hình thức như vốn tự có, vốn
cổ phần, vốn cho vay…
Cùng với đó còn xuất hiện nhiều hình thức sở hữu khác như sở hữu trí tuệ, sở hữu các
công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế… Các hình thức này đã ngày càng trở nên
quan trọng trong nền KTTT hiện đại và mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế.
- Về quan hệ quản lý: Sự biến đổi về tổ chức quản lý trong nền kinh tế của CNTB hiện
đại diễn ra trong cả lĩnh vực vi mô và vĩ mô. Phương thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất
có sự thay đổi. Quản lý từ xa được thực hiện. Hoạt động quản lý cũng mang tính chất quốc tế
hóa, toàn cầu hóa.
- Về quan hệ phân phối: các nhà kinh tế học của CNTB đã chủ trương kích cầu bằng
cách nâng cao tiêu dùng và tăng đầu tư. Việc tăng tiền lương và cải thiện đời sống của công
nhân không những không tổn hại đến lợi nhuận của nhà TB mà nó còn có lợi cho quá trình
21
tái sản xuất mở rộng TBCN, làm dịu mâu thuẫn giữa TB và lao động, thúc đẩy sản xuất có
lợi cho nhà nước TB, giữ môi trường xã hội ổn định, củng cố chính trị.
Tuy nhiên, tương quan giữa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người công nhân

với việc nâng cao khối lượng lợi nhuận của nhà TB là tương quan cùng chiều nhưng không
cùng mức độ.
Nguyên nhân dẫn đến điều chỉnh kinh tế của CNTB HĐ:
- Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của LLSX, dưới tác động
của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ khiến trình độ xã hội hóa tăng lên một cách mạnh
mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi.
- Quá trình quốc tế hóa sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh, sự phân công hợp tác
quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn mới mang tính quốc tế, chỉ có
nhà nước mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối hợp được các hoạt động mang tính quốc
tế.
* Nhận định về tiềm năng phát triển của CNTB ngày nay:
- Sự điều chỉnh: về LLSX, QHSX
Xu hướng vận động của CNTB.
Trong quá trình phát triển, một mặt CNTB đã thúc đẩy lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ, tạo ra cơ sở vật chất -kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Mặt khác, lại làm cho mâu
thuẫn cơ bản của CNTB - mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá ngày càng cao của
lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân của quan hệ sản xuất TBCN ngày càng gay gắt. Mâu
thuẩn cơ bản tiếp tục phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất TBCN dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất bị phá vỡ. Thay vào đó là quan hệ sản
xuất mới dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất được xác lập phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất. Nghĩa là phương thức sản xuất CSCN ra đời thay thế
phương thức sản xuất TBCN.
Ngày nay, CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học công nghệ và thị trường,
đang có khả năng thích nghi và phát triển trong chừng mực nhất định. CNTB cũng đang thực
hiện một số điều chỉnh quan hệ sản xuất trong khuôn khổ của CNTB do vậy còn khả năng
phát triển nhưng cũng không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của nó, không thể
vượt qua giới hạn lịch sử của CNTB.Vì thế, sớm hay muộn CNTB cũng sẽ bị thay thế bởi xã
hội mới cao hơn theo đúng quy luật khách quan của lịch sử, đó là xã hội CSCN mà giai đoạn
đầu là CNXH.
Cũng cần phải thấy rằng, phương thức sản xuất CSCN ra đời thay thế phương thức sản

xuất TBCN phải được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó giai cấp công
nhân thông qua đảng cộng sản có sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng đó.
22
Câu 5: Vì sao trong thời kỳ quá độ ở nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế?
Trình bày các thành phần kinh tế theo văn kiện ĐH Đảng lần thứ XI? Nhận định thế
nào về vai trò của kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
* Khái niệm thành phần kinh tế: Là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên
mọt hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, tồn tại có tính lịch sử cùng với các quan
hệ sản xuất khác hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội của một nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
* Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tất
yếu và có lợi vì:
Bước vào thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng
sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ tư hữu tư liệu sản xuất sẽ có nhiều
hình thức, tức là nền kinh tế có nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt
lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế.
- Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở
nước ta do các nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, do yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất phải phủ hợp với tính chất phát triển của
lực lượng sản xuất;
Hai là, do nhu cầu khách quan của việc phát triển sản xuất hàng hóa trong thời kỳ quá
độ;
Ba là, do tính chất khong thuần nhất của cơ sở hạ tầng của mọi hình thái kinh tế - xã hội;
Bốn là, do thực hiện CM XHCN trong quan hệ sản xuất và đặc điểm nền kinh tế nước ta
khi bước vào thời kỳ quá độ
- Tác dụng của việc việc phát nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.
+ Cho phép thúc đẩy LLSX mọi trình độ;
+ Thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã
hội;
+ Cho phép khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các

thành phần kinh tế trong nước như: Vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý,
khoa học, công nghệ ;
+ Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo
ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển LLSX;
+ Thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế, thực hiện chủ trương kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc tế nhằm tạo điều
kiện cho phát triển đất nước.
Tóm lại: Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần
kinh tế là tất yếu xét cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, từ đại hội lần thứ
VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần. Các thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Đó là đường lối chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN.
* Các thành phần kinh tế trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
23
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định nước ta có 4 thành phần kinh tế,
đó là:
- Kinh tế nhà nước;
- Kinh tế tập thể;
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, TBTN);
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
* Kinh tế nhà nước: Đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về
tư lư liệu sản xuất chủ yếu. Kinh tế nhà bao gồm các doanh nghiệp NN và các tổ chức phi
doanh nghiệp như ngân sách, bảo hiểm NN…v.v Doanh nghiệp NN bao gồm những đơn vị
sản xuất kinh doanh mà toàn bộ số vốn thuộc NN, hoặc vốn của NN chiếm tỷ trọng khống
chế.
Kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vai trò
đó thể hiện như sau:
- Một là, doanh nghiệp NN giữ những vị trí ở những ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn
quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp NN đi đầu trong việc ứng dụng khoa học công
nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành pháp luật;

- Hai là, kinh tế NN là lượng vật chất quan trọng và là công cụ để NN thực hiện chức
năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN, nó mở đường, hướng dẫn
và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN;
- Ba là, kinh tế NN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
* Kinh tế tập thể: Là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao
động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý. Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của
các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất,
kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ, thực hiện phân phối
theo kết quả lao động và theo cổ phần, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ
tập thể hóa tư liệu sản xuất.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích
tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo,
tiến lên làm giầu cho các thành viên. Kinh tế tâp thể cùng với kinh tế NN ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
* Kinh tế tư nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên loại hình sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, dưới hai hình thức sở hữu: Sở hữu tư nhân nhỏ, cá thể và sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ là khu vực kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ, cá
thể về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất – phần lớn dưới hình thức hộ
gia đình. Kinh tế cá thể, tiểu chủ linh hoạt, nhạy bén, phát huy nhanh và có hiệu quả sử dụng
vốn, sức lao động, tay nghề, kinh nghiệm tổ chức quản lý… của từng người lao động và gia
đình.
- Kinh tế tư bản tư nhân: Là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế TBTN bao gồm các đơn vị kinh tế
24
mà phần lớn vốn do một hoặc một số nhà tư bản góp lại để sản xuất kinh doanh. Các loại
hình doanh nghiệp tư nhân gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kinh tế TBTN tuy không giữ vị trí thống trị nhưng nó vẫn

còn có vai quan trọng trong nền kinh tế, vì nó còn chiếm tỷ trọng lớn về vốn, về giá trị, quy
mô và địa bàn hoạt động trong các ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh được pháp luật
quy định.
* Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là thành phần kinh tế bao gồm phần vốn đầu tư
nước ngoài và các cơ sở sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Đây là thành phần kinh tế có quy mô lớn, có
trình độ quản lý và trình độ công nghệ cao. Do đó sử dụng thành phần kinh tế này sẽ góp
phần giải quyết khó khăn về vốn, nâng cao trình độ quản lý và trình độ công nghệ cho nền
kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội…
thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của VN.
* Nhận định về vai trò của kinh tế Nhà nước:
Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nên kinh tế, là lực lượng vật chất quan
trọng và là công cụ để NN định hướng và điều tiết vĩ mô nên kinh tế.
- Kinh tế Nhà nước nắm giữ các vị trí, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế,vì vậy nó chi
phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác và toàn bộ nền kinh tế.
- Kinh tế Nhà nước có nhiệm vụ rất quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm công cộng
cho nền kinh tế như: đường sá, sân bay, bến cảng, điện, nước…đây là sản phẩm thiết yếu cho
sự phát triển 1 nền kinh tế.
- Kinh tế Nhà nước là công cụ vĩ mô điều tiết nền kinh tế thị trường, không chỉ vậy còn
có tác dụng mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
- Vì doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận quan trọng cấu thành nên kinh tế Nhà nước nên
khi nói đến va trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước thì không thể bỏ quên các doanh nghiệp Nhà
nước, một bộ phận đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của nên kinh tế quốc dân.
Được thể hiện ở chổ: doanh nghiệp Nhà nước đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội và chấp hành pháp
luật.
- Kinh tế Nhà nước tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới-chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
25

×