Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Văn hóa sinh thái của người dao quần chẹt tại vườn quốc gia Ba Vì xã Ba Vì huyện Ba Vì thủ đô Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.23 MB, 94 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC

DƯƠNG MẠNH THẮNG
VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ – XÃ BA VÌ
HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2014

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC

DƯƠNG MẠNH THẮNG
VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ – XÃ BA VÌ
HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
Chuyên ngành: Nghiên cứu Văn hóa
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TH.S. NGUYỄN THÀNH NAM
Hà Nội - 2014

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự quan
tâm, giúp đỡ và động viên. Vì vậy tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người đã
dõi theo và sát cánh bên tôi, giúp tôi hoàn thành đề tài của mình.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thạc sĩ Nguyễn
Thành Nam, giảng viên khoa Văn hóa học, trường Đại học Văn hóa Hà Nội.


Thầy là người trực tiếp tư vấn và định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Xin cảm ơn Ban quản lý Vườn quốc gia Ba Vì, xã Tản Lĩnh – huyện Ba
Vì và Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Ba Vì, thị trấn Tây Đằng – Ba Vì –
Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu có liên quan đến đề tài.
Xin cảm ơn gia đình ông Triệu Tiến Thi, thôn Hợp Nhất – xã Ba Vì –
huyện Ba Vì – Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát và thu thập
thông tin cần thiết cho đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Dương Mạnh Thắng

MỤC LỤC



 !"#$%&$%'()"*+&,*-!./0!1)2-3/%!45#6
!45#
789:9;<<=>8>>?<@>?A?
<BCDEA>FG<BCA<H'
IJ<H'>KL<HM>N
N8@>?L7O<<=>8>>?
!45#
?PQ<=>8>>?BCDEA>F
G<BCA<H'IJ<HM>KL<HM>N
?PQ<=>8>>?<;>R
S/-!T%
D4U%&,*V
?PQ<=>8>>?><;>RW

9XYX#' !#-$%-Z [*\#]#^_+`-T#!a#W
!,-!*Z-bc#.#WV
d##4e#'&f!gbc#.#
!45#
N8O>?>hHi<>?>K?
?PQ<=>8>>?BCDEA>F
G<BCA<H
?>?><<=>8>>?BCDEA>FG<BCA
<H'IJ<H'>KL<HM>N
\%\-jk+l#!m.Y#!-!\%n.#4oD.A*"#!p--!q!,#-4-4(#YX#!r.!U +`
-T#!a#V
\%\-jk+l#!m.Y#!-!\%n.#4oD.A*"#!p-m  !"#s1+,'%1-t-T#!a#
-!u!4`#v%!%T%w
W
\%\-jk+l#!m.Y#!-!\%n.#4oD.A*"#!p-m  !"#-!x%)yz !\--jq#0#!
-{'^|!g}
O>?OE~<>?>K??PQ<=>8>>?BCDEA
>FG<BCA<H
1 !\ -• !d.%g#)3##4oD.A*"#!p--t0!*+T%<4o#[*X%..<€
1 !\ -• !d.%\%%• %!d#![*z2#
OE~<>?>K<=>8>>?BCDEA>F>B‚ƒ8„
>?PR<iG<BCA<H'IJ<H'>KL<HM>NV}

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môi trường tự nhiên là điều kiện sống vô cùng quan trọng và không thể
thiếu của con người. Con người là một phần của giới tự nhiên, muốn tồn tại
được con người cần phải thích ứng và hòa hợp với môi trường tự nhiên. Ngày
nay, khi môi trường đã trở thành vấn đề của toàn cầu vẫn tồn tại hai quan
điểm đối lập nhau: một là tuyệt đối hóa việc bảo vệ môi trường đến mức cực

đoan; hai là chỉ quan tâm tới việc tăng trưởng kinh tế mà không cần quan tâm
tới môi trường tự nhiên.
Do ảnh hưởng và tác động của Cách mạng Công nghiệp vào đầu thế kỷ
XVIII, đặc biệt là cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ từ giữa thế kỷ XX
cho đến nay, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã có sự thay đổi sâu sắc cả
về bề rộng lẫn chiều sâu Để thoả mãn nhu cầu vật chất ngày càng tăng của
mình, con người đã tìm mọi biện pháp để thúc đẩy, mở rộng các hoạt động
sản xuất và trong suốt một thời gian dài, tăng trưởng kinh tế trở thành mục
tiêu trung tâm, chiếm vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của
các quốc gia trên thế giới. Theo đó, phạm vi và mức độ tác động của con
người vào giới tự nhiên ngày càng gia tăng. Từ việc khai thác vừa đủ cho nhu
cầu, con người bắt đầu khai thác tài nguyên một cách ồ ạt dẫn đến sự hủy hoại
môi trường tự nhiên. Việc vắt kiệt tài nguyên thiên nhiên khiến cho hàng triệu
hecta rừng trên thế giới bị tàn phá, khai thác khoáng sản làm biến đổi bề mặt
tự nhiên, môi trường sống của con người và sinh vật, phá hủy môi trường sinh
thái hay các khu công nghiệp mọc lên như nấm ở khắp các quốc gia khiến cho
bầu khí quyển bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozôn
hay động đất, sóng thần… ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống được ví như
sự trừng phạt bởi cơn thịnh nộ của tự nhiên giáng xuống nhân loại. Từ một

góc độ nào đó ta có thể thấy sự phát triển về kinh tế đem lại những chuyển
biến cho xã hội, đánh dấu sự thành công trong việc trinh phục tự nhiên của
con người. Tuy nhiên, dưới góc độ sinh thái học chúng ta có thể thấy rằng
những thành công đó đang “chống lại” con người.
Trước những bức bách của vấn đề môi trường sinh thái, sự lo ngại về
triển vọng phát triển của con người trong hiện tại và tương lai, nhận thức về
tự nhiên, về mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người đã có những thay
đổi căn bản. Thay vì coi tự nhiên là nguồn của cải vô tận và chỉ biết khai thác
từ đó những gì có lợi cho mình như trước đây, con người ngày nay đã nhận ra
rằng, tự nhiên là một thể thống nhất và sức chịu đựng của nó trước những tác

động của con người không phải là vô hạn, bên cạnh việc sử dụng, khai thác tự
nhiên, con người còn phải bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, phải
“chung sống hài hòa” với tự nhiên.
Ở Việt Nam hiện nay, sự phát triển kinh tế cũng là một trong những
trọng tâm phát triển đất nước hướng tới sự nghiệp Công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Việc phát triển kinh tế chủ yếu tập trung ở các khu vực trọng điểm và
đều là các thành phố lớn, các khu đô thị. Bên cạnh đó, nhiều khu vực rừng núi
lại gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế. Nhưng cũng chính những
khu vực rừng núi là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số lại có những giá trị
văn hóa sinh thái được hình thành từ lâu đời và đang được lưu giữ, trao truyền
qua nhiều thế hệ. Các giá trị văn hóa sinh thái này đang chịu tác động mạnh từ
nền kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật, hội nhập và đổi mới theo cả hướng
tích cự và tiêu cực. Một vấn đề cấp thiết đặt ra đó là phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống cộng đồng các tộc người thiểu số nhưng vẫn giữ lại các giá trị
văn hóa sinh thái quý giá trở thành bài học giáo dục cho sự phát triển kinh tế
phải gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên.
V
Khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì thuộc xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội
là nơi sinh sống của cộng đồng người Dao Quần Chẹt. Trải qua thời gian dài
sinh sống tại đây, người Dao Quần Chẹt đã hình thành nên những nét văn hóa
sinh thái đặc thù. Những giá trị văn hóa sinh thái này được lưu truyền trong
cồng đồng người Dao Quần Chẹt từ đời này qua đời khác, nó gắn liền với
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của họ. Với phương thức sinh hoạt kinh tế
nông nghiệp nương rẫy và săn bắn hái lượm, cộng đồng người Dao Quần Chẹt
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Đối với họ thiên nhiên là nguồn sống, là yếu
tố quyết định đến sự tồn vong và phát triển của họ. Những giá trị văn hóa sinh
thái đó được xem như văn hóa ứng xử của người Dao Quần Chẹt với môi
trường, văn hóa sinh thái góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi của con
người tác động đến tự nhiên. Người Dao Quần Chẹt tận dụng, khai thác tự
nhiên phục cho cuộc sống của mình, đồng thời họ cũng bảo vệ và cải tạo tự

nhiên theo hướng tích cực. Việc nghiên cứu bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt tại đây không chỉ nhằm phát triển kinh
tế, đời sống mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển bền vững tại khu
vực Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội trong tương lai.
Chính vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt tại Vườn Quốc gia Ba Vì xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà
Nội” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và văn hóa đã được
quan tâm trong nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố như: Cơ sở văn
hóa Việt Nam – Trần Quốc Vương; Cơ sở văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc
Thêm; Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa – Ngô Đức Thịnh (Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993)…. Các công trình nghiên cứu này đề cập đến
vấn đề lý luận chung của văn hóa, tập trung vào việc nghiên cứu các hệ thống
lý thuyết, khái niệm, cấu trúc, đặc trưng của văn hóa. Đây là những công trình
w
cần thiết cung cấp những kiến thức cơ bản về văn hóa nói chung và định hình
văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa khu vực.
Những công trình nghiên cứu về văn hóa của các dân tộc thiểu số cũng
được thực hiện rất nhiều. Nghiên cứu về văn hóa của tộc người Dao ở Việt
Nam có: Người Dao ở Việt Nam – Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng,
Nguyễn Nam Tiến (1971); Xác minh tên gọi và phân nhóm các ngành Dao ở
Tuyên Quang – Phạm Hữu Dật, Hoàng Hoa Toàn (1971); Vấn đề phân loại
các nhóm Dao ở Việt Nam – Nguyễn Khắc Tụng (1995); Nhà cửa của người
Dao xưa và nay – Nguyễn Khắc Tụng (1977); Văn hóa truyền thống của
người Dao ở Hà Giang – Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (1999); Văn
hóa truyền thống các dân tộc ở Hà Giang – Hùng Đình Quý (Nhà xuất bản
Hà Giang, 1994)… Các công trình nghiên cứu trên đã khảo tả lại bức tranh
sinh động về lịch sử, văn hóa, phương thức sinh hoạt, tôn giáo, tín ngưỡng, tri
thức dân gian… của người Dao ở Việt Nam. Qua đó, cung cấp cho chúng ta

những kiến thức cần thiết, sự am hiểu về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể của người Dao. Nhưng những nhóm Dao ở địa phương lại có nhiều bản
sắc riêng. Chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về nhóm Dao Quần Chẹt
ở khu vực Vườn quốc gia Ba Vì – xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội.
Nghiên cứu vấn đề về môi trường và sinh thái ở nước ta ít được đề cập
đến. Vấn đề này chỉ thực sự được quan tâm ở những thập niên cuối của thế kỉ
XX cho đến nay, đó là khi chúng ta nhận thấy được tầm quan trọng của việc
bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái gắn liền với sự tăng trưởng
kinh tế, phát triển bền vững đất nước. Có thể kể đến các công trình như: Môi
trường sinh thái – Vấn đề và giải pháp của Phạm Ngọc Trầm (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hà Nội 1997); Sinh thái học và môi trường của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2002); Sinh thái và môi
trường – Nguyễn Văn Tuyên (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998)… Từ
các công trình này, vấn đề sinh thái học và môi trường được quan tâm, đồng
}
thời các cảnh báo và dự đoán xu hướng cho các vấn đề về môi trường đặc biệt
quan tâm. Đó như là những hồi chuông cảnh tỉnh cho sự lạm dụng khai thác
thiên nhiên một cách không khoa học ở nước ta.
Vấn đề về văn hóa sinh thái chỉ thực sự được quan tâm trong thời gian
gần đây khi liên tiếp những sự việc, những vấn đề về môi trường có liên quan
đến văn hóa xảy ra. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như: Văn hóa
sinh thái – Nhân văn của Trần Lê Bảo chủ biên (Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội, 2001); Một số vấn đề về văn hóa sinh thái ở miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay – Trần Thị Hồng Loan (2002); Vấn đề văn hóa sinh thái
trong sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay – Trần Thị Hồng Loan,
Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học Xã hội, 2012… Nhìn chung các công trình
nghiên cứu trên vấn đề văn hóa sinh thái chỉ được đề cập đến dưới góc độ là
tác động của con người vào tự nhiên, hay mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và bảo vệ môi trường.
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao và văn hóa sinh thái,

nhưng chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu về Văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện
Ba Vì – Hà Nội. Vì vậy luận văn không trùng lặp với bất kì công trình nghiên
cứu nào ở trên. Các tài liệu, công trình nghiên cứu đó chỉ phục vụ mục đích
tham khảo của tác giả.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó là những giá trị văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt bao gồm: Văn hóa sinh thái vật thể và Văn hóa sinh
thái phi vật thể.
Giá trị văn hóa sinh thái vật thể cần xem xét và nghiên cứu về: kiến trúc,
nhà ở, ẩm thực, trang phục, dược liệu, đồ dùng sinh hoạt.

Giá trị văn hóa phi vật thể cần nghiên cứu: đạo đức sinh thái, phong
tục, tập quán ứng xử với tự nhiên, nghệ thuật dân gian, lễ hội và tín ngưỡng
dân gian.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian của đề tài là khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì thuộc
xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội.
Phạm vi về thời gian được xác định khi nghiên cứu các giá trị văn hóa
sinh thái truyền thống là những giá trị được hình thành và ổn định từ trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và hiện nay là những giá trị được hình thành
trong những năm đổi mới có sự tác động, ảnh hưởng bởi các chính sách quản
lý của Nhà nước.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích của đề tài:
Thông qua việc điều tra, nghiên cứu các giá trị văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện
Ba Vì – Hà Nội đề tài nhằm khẳng định những nét đẹp và giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống của tộc người Dao Quần Chẹt. Từ đó góp phần giúp các cán

bộ địa phương có những giải pháp thiết thực, hợp lý nhằm bảo lưu các giá trị
văn hóa sinh thái truyền thống đang dần mai một.
Nhiệm vụ của đề tài:
Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về sinh thái học, văn hóa sinh thái của người
Dao Quần Chẹt ở Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội
nói riêng và văn hóa sinh thái nói chung để đưa ra những nhận định về các giá
trị văn hóa sinh thái.
Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống, đòng thời hướng đến sự phát triển bền vững của người Dao
Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp luận: Là phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử, duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin nhằm phân tích, đánh giá những

giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt và sự tác động của những
giá trị văn hóa sinh thái đó đến đời sống văn hóa tinh thần, sinh hoạt xã hội,
kinh tế… của cộng đồng người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn quốc gia Ba
Vì, xã Ba Vì – Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp nghiên cứu liên
ngành Văn hóa học với Dân tộc học được vận dụng để nghiên cứu về người
Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nôi.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được áp dụng
nhằm hệ thống các thông tin, tư liệu thu thập được thông qua việc nghiên
cứu lý thuyết, thư tịch, tài liệu và phỏng vấn trực tiếp về người Dao Quần
Chẹt ở xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội. Phân tích nhằm làm rõ các vấn
đề từ nhiều góc độ, tổng hợp và khái quát vấn đề giúp tác giả dễ dàng nắm
bắt thông tin.
Phương pháp điền dã: Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng để
thực hiện đề tài. Từ việc nghiên cứu thực địa khu vực Vườn quốc gia Ba

Vì, khu vực sinh sống và sản xuất của người Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì –
huyện Ba Vì – Hà Nội nhằm thu thập các thông tin liên quan, hữu ích cho
đề tài. Các thao tác cụ thể được sử dụng là quay phim, ghi âm, chụp ảnh…
đặc biệt là phương pháp phỏng vấn sâu được áp dụng với các thông tín viên
là người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài bước đầu chỉ ra những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của
người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện – Ba Vì
– Hà Nội. Qua đó chỉ ra những nét đẹp cần lưu giữ, bảo tồn và phát huy
trong thời kỳ đổi mới đất nước trong văn hóa sinh thái của người Dao Quần
Chẹt nơi đây.

Đề tài cung cấp những thông tin chính xác làm tư liệu tham khảo để
các nhà nghiên cứu, các cán bộ văn hóa hay các cán bộ hoạch định chính
sách từ đó đưa ra những phương án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống của người Dao Quần Chẹt, gắn với việc phát triển bền
vững của người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba
Vì – huyện – Ba Vì – Hà Nội.
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu và Tài liệu tham khảo đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa sinh thái và khái quát về người Dao
Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì, xã ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội
Chương 2: Giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của người Dao Quần
Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa sinh thái truyền thống của người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba
Vì, xã Ba Vì – huyện – Ba Vì – Hà Nội
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA SINH THÁI VÀ KHÁI QUÁT
VỀ NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ,

XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA SINH THÁI
1.1.1 Thuyết sinh thái văn hóa và khái niệm văn hóa sinh thá
Thuyết sinh thái văn hóa: (Cultural ecology)
Thuyết sinh thái văn hóa, tức thuyết Tiến hóa đa tuyến hay Tiến hóa đa
hệ (Multilinear evolution) được cho là ra đời vào khoảng năm 1950, tập trung

nghiên cứu mối liên hệ giữa con người – môi trường – văn hóa, gắn liền với
tên tuổi của nhà nhân học người Mỹ Julian Steward (1902 – 1972). Phương
pháp của sinh thái văn hóa có nhiệm vụ làm rõ quan hệ giữa văn hóa với môi
trường tự nhiên từ quan điểm con người là chủ thể tồn tại, thích ứng với môi
trường thông qua văn hóa, còn văn hóa thì chịu ảnh hưởng lớn của các loại tài
nguyên môi trường mà con người sử dụng. Trong những khu vực khác nhau
nhưng có môi trường giống nhau và phương thức khai thác môi trường giống
nhau thì có khả năng có những nền văn hóa giống nhau phát triển song hành.
Chính vì hiện tượng phát triển song hành như vậy của văn hóa mà Julian
Steward còn đặt tên khác cho lý thuyết của mình là thuyết Tiến hóa đa hệ. Khi
sử dụng thuyết Sinh thái văn hóa cần quan tâm đến tương quan giữa văn hóa
và môi trường, coi môi trường là nhân tố quan trọng trong học thuyết. Tiến
hóa đa tuyến đồng nghĩa với việc thích nghi những yếu tố nòng cốt của văn
hóa như tổ chức xã hội, cơ cấu chính trị, tôn giáo… là những yếu tố chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường cụ thể, chứ không xem trọng những yếu tố
văn hóa nghệ thuật mà Steward xem là những yếu tố không nòng cốt, không
chịu ảnh hưởng gì mấy của môi trường.
Con người trải nghiệm cuộc sống của mình và phải thích nghi với các
môi trường tự nhiên thông qua bối cảnh văn hóa. Sinh thái văn hóa là các
dạng thức văn hóa hình thành và phát triển tương ứng với những môi trường
nhất định như sinh thái biển đảo, sinh thái đồng bằng châu thổ, sinh thái cao
nguyên… Ở Việt Nam có rất nhiều loại hình sinh thái tự nhiên tương ứng với
các khu vực cư trú của các tộc người. Những tộc người sinh sống lâu đời tại

một môi trường sinh thái, họ sẽ có những trải nghiệm, thích nghi, sáng tạo,
hình thành những kỹ năng sống và thể hiện sắc thái tâm lý cũng như các dạng
thức văn hóa phù hợp với môi trường sinh thái ấy, đó là văn hóa sinh thái tộc
người. Trong quá trình sinh tồn của mình, con người phụ thuộc rất nhiều vào
tự nhiên. Những thành tựu văn hóa đạt được từ việc thích nghi với môi trường
W
sống, con người hình thành nên những loại hình văn hóa như là những tập
hợp sắc thái văn hóa đặc trưng và tạo nên cốt lõi của nền văn hóa. Ngoài ra
cũng trong chính sự thích nghi với môi trường, con người đã hình thành nên
những hình thức sinh hoạt kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội… Con người
tồn tại bằng tri thức dân gian mà họ tích lũy được để lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Tri thức dân gian của các tộc người ở Việt Nam hết sức đa
dạng và phong phú, phản ánh rõ nét đặc trưng văn hóa của cư dân vốn chịu
ảnh hưởng rất nhiều từ tự nhiên.
Sử dụng khung lý thuyết về Sinh thái học văn hóa của nhà nhân học Mỹ
Julian Steward để nghiên cứu về những giá trị văn hóa sinh thái của người
Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì đáp ứng được những yêu
cầu về lý luận và thực tiễn của đề tài, góp phần làm rõ hơn về văn hóa sinh
thái các tộc người ở Việt Nam.
Khái niệm văn hóa sinh thái:
Văn hóa sinh thái là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời
sống, nhưng để có thể hiểu “văn hóa sinh thái” là gì trước tiên chúng ta cần
phải hiểu rõ về “văn hóa” và “sinh thái”.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều những định nghĩa, quan niệm khác
nhau về văn hóa. Mỗi một định nghĩa, quan niệm về văn hóa đó được các học
giả đưa ra khi xem xét văn hóa gắn liền với một lĩnh vực cụ thể, nhất định.
Chính vì vậy việc đưa ra một định nghĩa chung nhất, khái quát nhất về văn
hóa là vô cùng khó bởi lẽ văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực trong đời sống. Dưới
góc độ triết học: “Văn hóa được xem là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử - xã hội và

tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”.
Ở Việt Nam, trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa, GS.Trần
Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua

quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình”. [12; tr.10]
Văn hóa được xem là những giá trị, bao gồm cả giá trị vật chất hoặc tinh
thần được con người tích lũy và sáng tạo trong hoạt động sống, thích ứng với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Con người vừa là chủ thể, vừa là
khách thể của văn hóa. Những sản phẩm văn hóa được con người tạo ra nhằm
mục đích phục vụ cho chính cuộc sống của con người.
Như vậy, hiểu theo một cách khái quát nhất: “Văn hóa là những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động
sống nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của con người. Các giá trị văn hóa
được lưu giữ và truyền thụ từ đời này qua đời khác”.
Còn “Sinh thái” trong tiếng Hi Lạp là “Oikos” có nghĩa là nhà ở, nơi cư
trú, nơi sinh sống của mọi sinh vật, trog đó có cả con người. Môi trường sinh
thái chính là ngôi nhà của các loài sinh vật, là môi trường sống. Dưới góc độ
sinh thái học, môi trường sinh thái bao gồm các yếu tố: Thổ quyển, thủy
quyển, khí quyển và các loài sinh vật. Đây là những yếu tố quan trọng không
thể thiếu trong một hệ sinh thái.
Từ sự tìm hiểu về “văn hóa” và “sinh thái” có nhiều quan niệm về văn
hóa sinh thái khác nhau được đưa ra:
Một cách khái quát có thể hiểu: “Văn hóa sinh thái là tất cả những giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và
cải biến tự nhiên nhằm tạo ra một môi trường sống tốt hơn”.
Theo TS. Trần Thị Hồng Loan: “Văn hóa sinh thái là toàn bộ những
phương thức và những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo,
tích lũy và phát triển trong quá trình ứng xử với các loài sinh vật khác, nhằm

tác động và cải biến tự nhiên vì sự tồn tại của cả con người và giới tự nhiên ở
cả hiện tại và tương lai. Nó được thể hiện thông qua trình độ nhận thức của
con người về môi trường tự nhiên, tình yêu sâu đậm cũng như qua những

hành vi của họ đối với tự nhiên trong hoạt động thực tiễn của chính bản thân
con người”. [14; tr.50]
Trước hết, văn hóa sinh thái được hiểu là những sản phẩm vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến tự
nhiên. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử phát triển của tự nhiên, con người
cũng giống như vô vàn các loài sinh vật khác trên trái đất mối tồn tại và phát
triển thì không thể không có mối liên hệ nào với tự nhiên. Những nhu cầu cơ
bản nhất của con người như được ăn, uống cũng cần có sự tác động đến tự
nhiên. Cùng với sự phát triển của con người, đã có giai đoạn con người quan
niệm rằng mình là bá chủ của muôn loài, là kẻ thống trị giới tự nhiên bằng
những hoạt động, những tác động vào môi trường tự nhiên một cách thái quá,
con người cho rằng tự nhiên phải khuất phục trước trí tuệ của con người.
Nhưng không, đó là một trong những quan niệm hết sức sai lầm của con
người trong mối quan hệ với tự nhiên. Sớm nhận thức được tầm quan trọng
của tự nhiên và sợi dây liên kết giữa con người và tự nhiên, những cư dân
phương Đông hiểu rằng con người không phải là bá chủ vạn vật, là kẻ thống
trị tự nhiên mà con người chỉ là một phần của tự nhiên mà thôi. Lịch sử Triết
học phương Đông đã cho thấy các học thuyết như: “Tam tài”, “Thiên – Nhân
hợp nhất”… chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường tự
nhiên. Con người phụ thuộc vào thiên nhiên, khai thác và cải tạo tự nhiên theo
mục đích của cuộc sống và hướng tới một môi trường sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, chính trong quá trình tác động vào tự nhiên, con người đã
không ngừng cải biến tự nhiên theo mục đích có lợi nhất cho mình. Qua đó
con người sáng tạo ra các giá trị vât chất và tinh thần khác nhau. Các giá trị
này một mặt đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của con người, mặt khác thể
hiện sự hiểu biết và cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên. Văn

hóa sinh thái xét về nguồn gốc chính là sự sáng tạo của con người trong quá
trình tác động và cải tạo tự nhiên vì sự tồn tại và phát triển của chính con
V
người. Văn hóa sinh thái được thể hiện thông qua chính trình độ nhận thức
của con người đối với tự nhiên, qua những hành vi ứng xử của con người với
tự nhiên.
Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động, tác động của con người cải biến
môi trường tự nhiên đều trở thành giá trị văn hóa sinh thái. Những giá trị văn
hóa sinh thái được hình thành và lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác tự chứng minh được sự tốt đẹp của nó cũng như sự cần thiết đối với
cuộc sống của con người. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống phải
tương đối ổn định, thể hiện được bản sắc của tộc người thông qua cách ứng
xử với môi trường tự nhiên.
1.1.2 Đặc trưng của văn hóa sinh thái
Văn hóa sinh thái cũng như văn hóa nói chung mang trong mình những
đặc trưng cơ bản:
Tính sáng tạo là đặc trưng thứ nhất của văn hóa sinh thái. Tính sáng tạo
của văn hóa sinh thái cũng như của văn hóa mà nói thì đây là đặc tính cốt lõi
nhất. Trong hoạt động cải biến tự nhiên phục vụ mục đích sống, con người
với tư duy đã sáng tạo ra các cách thức nhằm thích nghi với môi trường tự
nhiên. Con người có tư duy không ngừng sáng tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần, điều này đem đến sự thích nghi cao nhất với tự nhiên, đem lại lợi
ích cho cuộc sống của con người. Những sáng tạo này đã hình thành nên các
giá trị văn hóa sinh thái.
Tính nhân văn là đặc trưng thứ hai của văn hóa sinh thái. Tính nhân văn
được thể hiện thông qua hoạt động, hành vi của con người tác động vào môi
trường tự nhiên. Trong quá trình sống con người không ngừng khai thác và
tác động vào tự nhiên. Những hoạt động mang tính quá mức làm hủy hoại
môi trường tự nhiên, môi trường sống của các loài là trái với tính nhân văn.
Mọi hoạt động khai thác tự nhiên đều phải có một điểm dừng, phải có một

giới hạn. Nếu vượt quá giới hạn là điều không thể chấp nhận, nó sẽ gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực đến tự nhiên. Thông qua các giá trị văn hóa sinh
w
thái, con người điều chỉnh được các hành vi, sự tác động của mình vào tự
nhiên khiến cho những hoạt động đó không đi quá mức cho phép, đảm bảo
môi trường được bảo vệ. Tính nhân văn của văn hóa sinh thái được thể hiện
qua đó.
Tính dân tộc cũng là một đặc trưng của văn hóa sinh thái. Tính dân tộc
trong văn hóa sinh thái mang những bản sắc riêng của từng dân tộc được thể
hiện thông qua cách ứng xử của con người với tự nhiên, thông qua những giá
trị vật chất và tinh thần được hình thành và lưu giữ, trao truyền qua nhiều đời,
nhiều thế hệ. Mỗi một tộc người lại có những cách ứng xử với môi trượng tự
nhiên khác nhau, thể hiện trình độ nhận thức của tộc người đó trong việc khai
thác và tận dụng tự nhiên.
Tính trường tồn là đặc trưng thứ tư của văn hóa sinh thái. Những giá trị
văn hóa sinh thái được hình thành từ rất lâu, trải qua thử thách với thời gian,
những giá trị nào mang tính tốt đẹp, thực sự hữu ích với cuộc sống của con
người sẽ được lưu giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ. Chính sự lưu giữ và
trao truyền qua nhiều thế hệ tạo nên sự ổn định tương đối của các giá trị văn
hóa sinh thái. Tính trường tồn của văn hóa sinh thái giúp tạo ra sự đan xen
giữa những giá trị truyền thống và hiện đại giúp cho con người kế thừa truyền
thống, từng bước cải tiến và sáng tạo ra những giá trị mới thích hợp với từng
thời đại.
1.1.3 Cấu trúc của văn hóa sinh thái
Văn hóa là một chỉnh thể phức tạp gồm đa dạng các thành tố. Tùy theo
việc phân chia theo những tiêu chí khác nhau mà có sự nhận diện về cấu trúc
của văn hóa theo các cách khác nhau. Văn hóa sinh thái cũng vậy, dưới các
góc độ khác nhau sẽ có các cấu trúc văn hóa sinh thái tương ứng.
Từ góc độ hình thái giá trị, cấu trúc của văn hóa sinh thái bao gồm:
- Văn hóa sinh thái vật thể

- Văn hóa sinh thái phi vật thể
Từ góc độ xã hội học, cấu trúc của văn hóa sinh thái bao gồm:
- Văn hóa sinh thái cá nhân
}
- Văn hóa sinh thái cộng đồng
Từ góc độ lịch sử, cấu trúc của văn hóa sinh thái bao gồm:
- Văn hóa sinh thái truyền thống
- Văn hóa sinh thái hiện đại
Giáo sư Trần Ngọc Thêm xem xét văn hóa dưới góc độ văn hóa ứng xử
đã đưa ra các cấu trúc văn hóa sau:
Văn hóa ứng xử
Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên Văn hóa ứng xử với môi trường
xã hội
Văn hóa tận dụng
môi trường tự nhiên
Văn hóa ứng phó với
môi trường tự nhiên
Văn hóa tận
dụng môi
trường xã hội
Văn hóa ứng
phó với môi
trường xã hội
Như vậy, cấu trúc văn hóa của Giáo sư Trần Ngọc Thêm có thể xem là
một cấu trúc văn hóa sinh thái. Theo đó, Giáo sư Trần Ngọc Thêm đã chỉ rõ
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người là một phần của giới tự
nhiên. Sự tận dụng và ứng phó với môi trường tự nhiên của con người được
thể hiện trong cơ cấu bữa ăn, kiến trúc ngôi nhà ở, phương thức sản xuất, các
tập quán sinh hoạt… cũng chính là những biểu hiện của các giá trị văn hóa
sinh thái.

Từ việc tìm hiểu cấu trúc văn hóa sinh thái dưới các góc độ khác nhau
cho thấy cấu trúc văn hóa sinh thái dưới góc độ hình thái giá trị phù hợp với
hướng tiếp cận của đề tài trong việc phân tích và đánh giá các giá trị văn hóa
sinh thái của người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội.
Văn hóa sinh thái vật thể bao gồm:
Kiến trúc: Khi thiết kế và xây dựng các công trình kiến trúc, con người
bao giờ cũng phải chú ý đến một số điểm cơ bản như: đặt hướng chính, hình
dáng tổng thể, thiết kế xung quanh, trang trí nội thất, kết cấu vật liệu sao
cho phù hợp với điều kiện địa lý, mặt bằng xây dựng, điều kiện về khí hậu,
ánh sáng, và còn phải tạo ra được sự tương xứng cân đối, hài hòa giữa các

công trình đó với cảnh quan xung quanh như một chỉnh thể thống nhất.
Những công trình này không những phải đúng, bền về nội dung mà còn phải
đẹp, hài hòa về hình thức. Các công trình kiến trúc là sản phẩm vật chất phản
ánh một cách rõ nét nhất giá trị văn hóa sinh thái của con người thông qua
việc thích nghi với môi trường tự nhiên. Con người tạo ra những công trình
kiến trúc là nơi ở, nơi trú ngụ tranh mưa nắng, những tác động của tự nhiên.
Đây vừa là cách thức con người tận dụng tự nhiên ở chỗ lấy các nguyên vật
liệu xây dựng từ thiên nhiên mà còn là cách ứng phó với những khó khăn,
thiên tai mà tự nhiên đem đến cho con người. Những kiến trúc do con người
tạo ra dần không chỉ để ở mà còn có nhiều chức năng khác nữa. Nhưng điều
quan trọng nhất để tạo ra một kiến trúc tốt đó là sự hòa hợp với thiên nhiên.
Trang phục: Có thể nói trang phục là một trong những hình thức biểu
hiện rõ nhất của văn hóa sinh thái. Các hình thức trang phục đã thể hiện được
sự hiểu biết về môi trường và khả năng vận dụng những điều kiện cụ thể của
môi trường vào công việc thiết kế trang phục của con người. Trang phục được
sáng tạo và thiết kế phải vừa phù hợp với hoàn cảnh vừa tạo điều kiện tốt
nhất, thoải mái, dễ chịu nhất trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong các
hoạt động khác. Không chỉ có vậy, trang phục còn thể hiện rõ khả năng thẩm
mỹ, sự sáng tạo và sự khéo léo của con người, hướng đến sự hòa hợp với

thiên nhiên. Trang phục không chỉ để bảo vệ, để che đi phần thân thể nhạy
cảm khi con người ý thức được về cái tôi tự trọng của mình mà nó còn thể
hiện được cái đẹp về hình thức bên ngoài và cái đẹp trong tâm hồn của mỗi
con người. Việc con người sử dụng các chất liệu từ thiên nhiên, thiết kế trang
phục và màu sắc thích hợp cho thây sự hài hòa giữa con người và tự nhiên.
Dược liệu: Đây cũng là một trong những giá trị của văn hóa sinh thái,
thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên. Tự nhiên không
chỉ cung cấp nguồn lương thực, dinh dưỡng cho con người, cung cấp cho con
người nguyên vật liệu làm nhà…mà với sự phong phú, đa dạng của thực vật

đã trở thành một kho thuốc quý báu giúp con người tồn tại, chống lại được
nhiều căn bệnh. Trải qua những quá trình lâu dài nghiên cứu, sử dụng thử
nghiệm trong cuộc sống con người đã biết được công dụng của các loài thảo
mộc, thực vật có ích trong việc chữa bệnh. Con người ngày càng biết được
nhiều tính năng, công dụng của nhiều loại động, thực vật khác nhau, và từ đó
vận dụng những động, thực vật này vào trong lĩnh vực y học để bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Con người cần phải nhận thức được rằng,
nguồn dược liệu không phải là vô tận nên bên cạnh việc khai thác, sử dụng nó
một cách hợp lý, phải có ý thức tái tạo lại những dược liệu đó trong chừng
mực. Những giá trị văn hóa sinh thái giúp con người nhận thức được điều này
và có những hành động thiết thực hơn với tự nhiên.
Ẩm thực: Việc con người lấy các sản vật từ tự nhiên làm thức ăn đã diễn
ra từ ngàn đời nay, ngay từ khi lịch sử loài người bắt đầu. Hầu hết các thức ăn
của con người đều là dạng vật chất tự nhiên được khai thác từ môi trường
sống. Nhưng mỗi tộc người sinh sống tại các khu vực, các vùng lãnh thổ khác
nhau lại có văn hóa ẩm thực khác nhau. Sở dĩ như vậy bởi họ chịu tác động,
ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến đời sống sinh hoạt của mình. Điều đó
chi phối cách thức chế biến các món ăn cũng như giới hạn các sản phẩm khai
thác từ thiên nhiên theo các khu vực nhất định. Điều này lý giải sự khác nhau
về khẩu vị của cư dân các vùng khác nhau, cũng giống như việc cư dân vùng

biển chủ yếu ăn hải sản, ăn cay và chua. Còn cư dân vùng núi chủ yếu ăn các
loài thực vật, động vật trong rừng…
Đồ dùng sinh hoạt: Công cụ lao động cũng là một nhân tố không thể
thiếu trong hoạt động cải tạo tự nhiên của con người, và trình độ của công cụ
lao động sẽ góp phần quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Công cụ lao động
được tạo ra ngày càng hữu hiệu trong việc cải tạo, khai thác tự nhiên cho thấy
sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Nhưng không phải như vậy mà
con người lạm dụng khoa học vào khai thác tự nhiên một cách ồ ạt. Cần có sự

điều chỉnh sao cho hài hòa, vừa khai thác vừa bảo vệ và xây dựng lại hướng
tới sự phát triển bền vững.
Văn hóa sinh thái phi vật thể bao gồm:
Đạo đức sinh thái: Đạo đức sinh thái là những quan niệm, những cách
thức ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, môi trường sống xung
quanh họ. Đạo đức sinh thái có vai trò đặc biệt quan trọng, nó điều chỉnh hành
vi của con người, xã hội loài người đối với tự nhiên. Mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên là vô cùng mật thiết và sâu sắc, dựa trên cơ sở nền tảng là
nhu cầu và lợi ích. Đạo đức sinh thái của một tộc người, một nhóm xã hội trở
nên đúng đắn nếu như nó được hình thành xuất phát trên cơ sở đảm bảo lợi
ích của cả tự nhiên và con người. Việc lạm dụng tự nhiên phục vụ cho lợi ích
của con người là trái với đạo đức sinh thái, vi phạm đọa đức sinh thái.
Phong tục, tập quán sinh thái: Phong tục, tập quán, thói quen, lối sống
của một tộc người là thứ đã được hình thành từ rất lâu. Nó có thể được ghi
chép cụ thể hoặc không nhưng trong cộng đồng người mà nó tồn tại, tất cả
mọi thành viên đều mặc định phải tuân theo. Phong tục, tập quán sinh thái
cũng gắn liền với cộng đồng, nó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi thành viên
trong cộng đồng đó. Phong tục tập quán sinh thái của một cộng đồng phải phù
hợp với môi trường tự nhiên hay chính xác hơn là do điều kiện tự nhiên quy
định. Biểu hiện của phong tục, tập quán sinh thái là những quy định, những
điều cấm kỵ con người không được làm với tự nhiên. Các phong tục tập quán

đó đã góp phần định hướng những hành vi và cách ứng xử của con người với
tự nhiên, thể hiện rõ văn hóa sinh thái của cộng đồng.
Nghệ thuật dân gian: Nghệ thuật là một hình thức biểu hiện của văn
hóa. Trong các tác phẩm nghệ thuật dân gian, yếu tố văn hóa sinh thái được
thể hiện thông qua các tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học có sự sáng
tác, ghi chép lại đều thể hiện tâm tư, tình cảm của con người đối với tự nhiên.
Chủ đề về tình yêu lứa đôi ít thấy trong các tác phẩm văn học dân gian nhưng

chủ đề về thiên nhiên, môi trường lại xuất hiện rất nhiều. Trong các thể loại
như truyện cổ tích, thần thoại, thơ ca… hình ảnh thiên nhiên và cách ứng xử
của con người đối với tự nhiên luôn được khắc họa, lột tả chân thực. Bởi lẽ,
trong thời kỳ đầu khi xã hội chưa đạt đến trình độ phát triển, con người chưa
trinh phục được các thửu thách của tự nhiên thì tự nhiên trở thành các thế lực
siêu nhiên, thần thánh mà con người phái tôn thờ, khuất phục. Các tác phẩm
văn học nghệ thuật không chỉ thể hiện sự hiểu biết của con người về tự nhiên
mà còn đánh dấu khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Mặt khác, với
hình thức biểu đạt sinh động nhưng cũng đầy chất tư duy, trừu tượng, các thể
loại văn học, nghệ thuật dân gian truyền tải các gái trị văn hóa sinh thái đến
với người tiếp nhận một cách hết sức gần gũi, thân thuộc. Chính vì thế, nghệ
thuật dân gian góp phần gìn giữ và lưu truyền các giá trị văn hóa sinh thái.
Tín ngưỡng, lễ hội dân gian: Việt Nam là một đất nước nông nghiệp.
Việc phải phụ thuộc vào thiên nhiên trong hoạt động nông nghiệp từ sớm đã
hình thành trong tâm thức người Việt tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh.
Người Việt quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự sống và linh
hồn. Khi những thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán ập đến làm cho mùa màng bị
ảnh hưởng mà con người vẫn chưa giải thích được các hiện tượng đó một
cách khoa học thì họ trở nên tôn thờ các hiện tượng tự nhiên. Họ tôn thờ mây,
mưa, sấm chớp… Nhưng xét về bản chất thì đây chính là việc con người
không thể đối đầu với tự nhiên. Các tín ngưỡng sùng bái tự nhiên được ra đời.
Tín ngưỡng và lễ hội là hai thành tố không thể tách rời, chúng thường song

hành cùng với nhau. Các tín ngưỡng, lễ hội có nội dung hướng về thiên nhiên
thể hiện sự tôn trọng của con người đối với tự nhiên, không những thế nó còn
thể hiện tính nhân văn sâu sắc.
Như vậy, dù được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng
những giá trị văn hóa sinh thái luôn được lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác trong một cộng đồng người. Các giá trị văn hóa sinh thái được
W
hình thành qua chính kinh nghiệm sống của con người, nó thể hiện sự hiểu
biết của con người với tự nhiên, khả năng chinh phục tự nhiên của con người
nhưng nó cũng là những quy chuẩn, là thước đo giới hạn điều chỉnh những
hành vi của con người nhằm duy trì mối quan hệ tương hỗ, hướng đến lợi ích
chung cho cả con người và tự nhiên.
1.2 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC
GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI.
1.2.1 Lịch sử người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì – xã Ba
Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội
Người Dao hay còn gọi là Mán, Động, Dạo, Kiềm Mùn, Kiềm Miền…
sinh sống tại nhiều tỉnh thành trên khắp nước Việt Nam. Các tên goi như
Mán, Dạo, Xá… là tên gọi dân gian của các tộc người khác gán cho người
Dao. Các tên gọi này có ý miệt thị, dành cho người của những dân tộc bị coi
là man ri, không thuộc vùng sinh sống của người Hán tại Trung Quốc.
“Động” là tên được dùng phổ biến của người Dao ở các tỉnh miền núi phía
Bắc trước đây. “Động” là tên gọi của một đơn vị cư trú trước đây của người
Dao giống như làng của người Kinh. Tên “Dào” hay “Dạo” là sự goi chệch
của từ “Dao” mà thành. Tên “Xá” chỉ thấy ở Yên Bái và Lào Cai, một bộ
phận Dao quần trắng có tên là “Xá họ”. Tên gọi “Mán” là từ chữ “Man” trong
tiếng Hán mà ra. Nhìn chung các tên gọi như Mán, Dạo, Xá… là các tên gọi
phiếm xưng mang tính chất miệt thị.
Tên tự nhận của người Dao là “Kiềm Miền” hay “Kiềm Mùn”. “Kiềm” có
nghĩa là rừng, còn “Miền” hay “Mùn” có nghĩa là người. “Kiềm Miền”, “Kiềm

Mùn” được hiểu là “Người ở rừng”. Tên gọi này cũng chỉ là cách gọi phiếm
xưng rất chung chung bởi lẽ người cư trú ở khu vực rừng núi không chỉ có người
Dao mà còn có nhiều tộc người khác. Ở nước ta cũng có nhièu trường hợp tên
gọi như vậy như: Vân-kiều, Bru, Xinh mun… Trong nhiều thư tịch, sách cổ ngữ
của Trung quốc có đề cập đến tên “Dao” như trong Quế Hải Ngu Hành Chí có

×