Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Hãy phân tích ý kiến Thị trường là yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp dưới góc độ triết học các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.77 KB, 10 trang )

ĐỀ TÀI XÊMINA NHÓM 1, CAO HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH 2.8
Hãy phân tích ý kiến " Thị trường là yếu tố quyết định sự sống còn của
doanh nghiệp" dưới góc độ triết học (các nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật).
Bài làm
MỞ ĐẦU
Trong mỗi doanh nghiệp, quá trình sản xuất diễn ra không ngừng, các hoạt
động diễn ra không ngừng, các hoạt động diễn ra theo chu kỳ: mua nguyên,
nhiên liệu, vật tư, thiết bị, trên thị trường đầu vào, tiến hành sản xuất sản phẩm
sau đó bán sản phẩm trên thị trường đầu ra. Trong chu kỳ này giai đoạn nào cũng
đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên thành công cho doanh nghiệp. Nhưng
giai đoạn quan trọng hơn cả, quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp
là giai đoạn cuối cùng thị trường đầu ra ( thị trường tiêu thụ sản phẩm ). Khi nói
tới doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là phải nói tới thị trường. Hay nói cách
khác, giữa doanh nghiệp và thị trường có mối quan hệ hữu cơ mật thiết, không
thể tách rời. Mục đích sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là vì lợi nhuận.
Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm là để bán, muốn bán được thì phải tiếp cận
và mở rộng thị trường. Thị trường càng lớn thì lượng hàng hoá tiêu thụ được
càng nhiều và khả năng thu lợi nhuận càng cao. Còn nếu thị trường càng hẹp thì
lượng hàng hoá được càng ít có thể gây ra ứ đọng, khả năng quay vòng vốn kém
hoặc cũng có nhiều doanh nghiệp phải đình trệ sản xuất…. Trong cơ chế hiện
nay, cơ chế của những cuộc cạnh trạnh tàn khốc, thì thị trường có vai trò quyết
định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là dựa
trên những hiểu biết về những nguyên tắc biện chứng duy vật để lý giải vai trò
quan trọng của thị trường đối với doanh nghiệp dưới góc độ triết học.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng
động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức,
chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận


cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Nguyên tắc đó là: trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng
động chủ quan.
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ
tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan
mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn
trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con
người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải
xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở,
phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành
lực lượng vật chất để hành động.
- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng
động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật
chất hóa tính tích cực năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải
tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa
học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần
chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác phải tự giác tu dưỡng, rèn
luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách
mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định
hướng hành động.
- Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh
chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo
tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm
điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược,… Đây cũng phải là quá trình chống
chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo
thủ, trì trệ, thụ động,… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
2. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện

Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ
phận, các yếu tố, giữa các mặt của sự vật và trong sự tác động qua lại giữ sự vật
đó với sự vật khác. Trên cơ sở đó có nhận thức và hành động đúng với thực tiễn
khách quan. Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
- Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng
sự cần thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai
lầm và sự cứng nhắc”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1976, t.42, tr.384)
2
- Đối lập với quan điểm biện chứng toàn diện thì quan điểm siêu hình xem
xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các
mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này
tách rời sự vật khác.
- Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ
biện. Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp
những mặt vốn không có mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được
với nhau. Thuật nguỵ biện cường điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt
thứ yếu làm mặt chủ yếu.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm
lịch sử - cụ thể.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong
hoạt động thực tiễn cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác
động; xác định rõ vị trí vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình
huống cụ thể để đưa ra các biện pháp đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của
đối tượng cần tác động nhằm tránh quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc.
3. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận

động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là
quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là
thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật,
hiện tượng và mọi quá trình; trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện
tượng.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển
là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng song trong mỗi sự vật, hiện
tượng có quá trình phát triển không giống nhau. Sự vật, hiện tượng tồn tại trong
thời gian, không gian khác nhau có sự phát triển khác nhau.
- Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật,
các hiện tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể,
sự thay đổi của các yếu tố tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển
của sự vật.
- Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc
nhận thức và cải tạo thế giới. Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn cần
3
phải: Xem xét sự vật và hiện tượng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển,
trong “sự tự vận động”, trong sự biến đổi của nó”.
- Luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là quá
trình biện chứng, bao hàm tính thuận, nghịch, đầy mâu thuẫn vì vậy, phải nhận
thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát
triển.
- Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá
trình đó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối liên hệ biện chứng giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên đồng thời
phải phát huy nhân tố chủ quan của con người để thúc đẩy quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng theo đúng quy luật. Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì
trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.

II. Một số khái niệm về thị trường và doanh nghiệp
1. Khái niệm thị trường, vai trò và chức năng của thị trường
a) Khái niệm thị trường
Trong thực tế có rất nhiều những khái niệm về thị trường, trong đó phổ
biến nhất là những khái niệm sau:
Thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền
tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất
định theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lượng và giá cả cần thiết
của sản phẩm, dịch vụ. Thực chất, Thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm
năng cùng có một yêu cầu cụ thể nhưng chưa được đáp ứng và có khả năng tham
gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu đó.
Thị trường là một tập hợp những người mua và người bán tác động qua
lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán một thứ hàng hóa
nhất định nào đó. Với nghĩa này, có thị trường gạo, thị trường cà phê, thị
trường chứng khoán, thị trường vốn, v.v Cũng có một nghĩa hẹp khác của thị
trường là một nơi nhất định nào đó, tại đó diễn ra các hoạt động mua bán hàng
hóa và dịch vụ. Với nghĩa này, có thị trường Hà Nội, thị trường miền Trung.
Còn trong kinh tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, là nơi có các quan
hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô số những người bán và người mua có
quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào. Thị trường
trong kinh tế học được chia thành ba loại: thị trường hàng hóa - dịch vụ (còn gọi
là thị trường sản lượng), thị trường lao động và thị trường tiền tệ.
4
b) Vai trò của thị trường
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn
các nhu cầu của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nâng cao
chất lượng nhu cầu Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, thì thị trường có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị
trường vừa là động lực, vừa là điều kiện, vừa là thước đo kết quả và hiệu quả

kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Là động lực: Thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh
nghiệp nếu muốn tồn tại được phải luôn nắm bắt được các nhu cầu đó và định
hướng mục tiêu hoạt động cũng phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Ngày nay,
mức sống của người dân được tăng lên một cách rõ rệt do đó khả năng thanh
toán của họ cũng cao hơn. Bên cạnh đó, các đơn vị, các tổ chức kinh tế trong mọi
lĩnh vực hoạt động kinh doanh đua nhau cạnh tranh dành giật khách hàng một
cách gay gắt bởi vì thị trường có chấp nhận thì doanh nghiệp mới tồn tại được
nếu ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy thị trường là động lực sản xuất,cũng như kinh
doanh thương mại của doanh nghiệp.
- Là điều kiện: Thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần
thiết để doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ hoạt động kinh doanh của mình.
Nếu doanh nghiệp có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất hay một loại hàng hóa
nào đó thì tình hình cung ứng trên thị trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực
hoặc tích cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều
kiện của mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là thước đo: Thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của
các phương án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong qua trình hoạt
động kinh doanh thương mại, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường
hợp khó khăn đỏi hỏi phải có sự tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định. Mỗi
một quyết định đều ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các doanh
nghiệp. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm hàng hoá
của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh đó là có hiệu
quả và ngược lại. Vậy thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả) các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá cả
hàng hoá và dịch vụ, giá cả các yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị, nguồn sản
phẩm hàng hóa, đất đai, lao động, vốn ) luôn luôn biến động nên phải sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời

nhu cầu hàng hoá của thị trường và xã hội.
5
c) Chức năng của thị trường
- Chức năng thừa nhận: Nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất hay nhập
khẩu tiêu thụ được trên thị trường, tức là khi đó hàng hoá của doanh nghiệp đã
được thị trường chấp nhận, lúc ấy sẽ tồn tại một lượng khách hàng nhất định có
nhu cầu và sãn sàng trả tiền để có hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đó và quá
trình tái sản xuất đầu tư của doanh nghiệp nhờ đó mà cũng được thực hiện. Thị
trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ đưa ra giao dịch, tức thừa
nhận giá trị và giá trị sử dụng của chúng, chuyển giá trị cá biệt thành giá trị xã
hội. Sự phân phối và phân phối lại các nguồn lực nói lên sự thừa nhận của thị
trường.
Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh
doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường. Xác định cho
được thị trường cần gì với khối lượng bao nhiêu
- Chức năng thực hiện của thị trường: Thông qua các hoạt động trao đổi
trên thị trường, người bán và người mua thực hiện được các mục tiêu của mình.
Người bán nhận tiền và chuyển quyền sở hữu cho người mua. Đổi lại, người mua
trả tiền cho người bán để có được giá trị sử dụng của hàng hoá. Tuy nhiên, sự thể
hiện về gía trị chỉ xảy ra khi thị trường đã chấp nhận giá trị sử dụng của hàng
hoá. Do đó, khi sản xuất hàng hoá và dịch vụ doanh nghiệp không chỉ tìm mọi
cách để giảm thiểu các chi phí mà còn phải chú ý xem lợi ích đem lại từ sản
phẩm có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không.
Như vậy thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá và
dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân
phối các nguồn lực.
- Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường: Cơ chế thị trường sẽ
điều tiết việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , tức là kích thích các doanh nghiệp đầu
tư kinh doanh vào các lĩnh vực có mức lợi nhuận hấp dẫn, có tỷ suất lợi nhuận
cao, tạo ra sự di chuyển sản xuất từ ngành này sang ngành khác. Thể hiện rõ nhất

của chức năng điều tiết là sự đào thải trong quy luật cạnh tranh. Doanh nghiệp
nào, bằng chính nội lực của mình, có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị
trường, phản ứng một cách kịp thời, linh hoạt, sáng tạo với các biến động của thị
trường thì sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ bị phá sản. Ngoài ra thị trường
còn hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng theo mục đích có lợi nhất nguồn ngân
sách của mình.
Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt cho được chu kỳ
sống của sản phẩm, để xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào, tức lã xem sét mức
độ hấp dẫn của thị trường đến đâu để từ đó có các chính sách phù hợp.
6
- Chức năng thông tin của thị trường: Chức năng này được thể hiện ở chỗ,
thị trường chỉ cho người đầu tư kinh doanh biết nên cung cấp hàng hoá và dịch
vụ nào, bằng cách nào và với khối lượng bao nhiêu để đưa vào thị trường tại thời
điểm nào là thích hợp và có lợi nhất, chỉ cho người tiêu dùng biết nên mua
những loại hàng hoá và dịch vụ tại những thời điểm nào là có lợi cho mình.
Thị trường sẽ cung cấp cho nhà sản xuất hay nhà kinh doanh thương mại
và người tiêu dùng những thông tin sau: Tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu cung
và cầu, quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá và dịch vụ, các điều kiện
tìm kiếm hàng hoá và dịch vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối Đây là những
thông tin quan trọng cho cả nhà sản xuất và người tiêu dùng để đề ra quyết định
thích hợp đem lại lợi ích hiệu quả cho họ.
Để có những thông tin này doanh nghiệp phải tổ chức tốt hệ thống thông
tin của mình bao gồm các ngân hàng thống kê và ngân hàng mô hình cũng như
các phương pháp thu thập xử lý thông tin nhằm cung cấp những thông tin về thị
trường cho lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch chiến lược, kế hoạch
phát triển thị trường.
2. Doanh nghiệp
Theo định nghĩa của Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 29 tháng 11 năm
2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích

thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Hiện nay, ở Việt nam có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau (Công ty
trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư
nhân, Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ) mỗi
loại hình doanh nghiệp có đặc trưng riêng có khả năng đem lại cho chủ sở hữu
những lợi thế và những hạn chế khác nhau. Chính vì vậy việc lựa chọn được một
hình thức doanh nghiệp phù hợp với tính chất kinh doanh, quy mô ngành nghề
kinh doanh và khả năng của người bỏ vốn thành lập là vô cùng quan trọng, có tác
động tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp về sau. Những lợi thế so sánh
mà doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất cần
được xem xét khi quyết định lựa chọn hình thức doanh nghiệp để đăng ký kinh
doanh. Thông thường, những lợi thế mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu
tư có thể là:
- Uy tín mà doanh nghiệp có thể tạo ra đối với khách hàng;
- Phạm vi lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp;
7
- Mức độ rủi ro mà nhà đầu tư có thể gặp phải khi lựa chọn loại hình
doanh nghiệp đó;
- Tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp;
- Mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp và mức độ chi phối của nhà đầu
tư tới hoạt động của doanh nghiệp
III. Vận dụng các nguyên tắc của phép biện chứng vào việc xem xét
vai trò của thị trường trong mối quan hệ với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp và thị trường có mối quan hệ
mật thiết với nhau:
1. Dưới góc độ của nguyên tắc khách quan
Thị trường và các yêu tố của thị trường quyết định mục tiêu, kế hoạch,
năng suất, lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong đó, thị trường và các yếu tố của
thị trường (nhu cầu của người tiêu dùng, giá cả, nguyên liệu ) là các yếu tố
khách quan, do đó nếu một doanh nghiệp không chú ý tới thị trường và các yếu

tố của nó trong việc xây dựng mục tiêu, kế hoạch sản xuất kinh doanh tức là
chỉ theo chủ quan thì doanh nghiệp không thể bán, tiêu thụ được sản phẩm của
mình vì không phản ánh đúng nhu cầu của thị trường; hoặc trường hợp thị hiếu
của người tiêu dùng đối với một loại sản phẩm, dịch vụ đã thay đổi mà doanh
nghiệp không nắm bắt, thay đổi kế hoạch, công nghệ, thiết kế, mẫu mã thì cũng
không bán được sản phẩm, dịch vụ và sẽ dẫn đến khó khăn, thua lỗ Như vậy
thì trường là yếu tố khách quan và quyết định đối với kế hoạch, mục tiêu, công
nghệ, lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ này cũng cần phát huy tính năng động chủ
quan của doanh nghiệp. Ví dụ, có những nhu cầu tiêu dùng chưa xuất hiện trong
thị trường hiện tại nhưng với sự năng động, năng lực dự báo của mình, doanh
nghiệp có thể đi trước một bước và thu được thành công khi đưa ra những sản
phẩm, dịch vụ mới, định hướng tiêu dùng. Điều này đã thể hiện nhiều trong thực
tế. Ví dụ, từ những yếu tố thay đổi trong pháp luật về đầu tư, về chủ trương thay
đổi cơ chế quản lý kinh tế, có một số doanh nghiệp đã chủ động cung cấp dịch
vụ tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ đầu những năm
90, và thực tế, sau khi có luật đầu tư nước ngoài, dịch vụ này đã phát triển rất
nhanh và đem lại nhiều lọi nhuận ; hoặc khi có chủ trương thực hiện mở cửa
giáo dục, nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp trong nước đã chủ động liên doanh với
cơ sở giáo dục nước ngoài thành lập cơ sở giáo dục tiêu chuẩn nước ngoài tại
Việt Nam
8
2. Dưới góc độ của nguyên tắc toàn diện
Trong quan hệ giữa thị trường và doanh nghiệp, thị trường như nói ở phần
trên bao gồm nhiều yếu tố: giá cả, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, kiểu dáng, mẫu
mã, chất lượng, phân khúc thị trường Trong việc xây dựng mục tiêu, kế hoạch
sản xuất kinh doanh, đầu tư công nghệ, thiết kế sản phẩm doanh nghiệp phải
nhìn thị trường của một sản phẩm, dịch vụ trong tổng thể các yếu tố có mối quan
hệ tác động qua lại thì mới có thể có lợi nhuận và thành công. Ví dụ, nếu doanh
nghiệp sản xuất một sản phẩm nhưng chỉ chú ý tới làm sao để đáp ứng nhu cầu

thị trường về chất lượng, kiểu dáng mà quên đi yếu tố giá thành, phân khúc thị
trường thì khi tạo ra sản phẩm sẽ không có nhiều người có đủ năng lực tài chính
để mua, doanh nghiệp không bán được hàng sẽ thua lỗ, dẫn đến phá sản; nguyên
lý này thực tế đã được chứng minh trong lĩnh vực bất động sản thời gian qua ở
Việt Nam, mải chạy theo số lượng, chất lượng mà nhiều doanh nghiệp không
quan tâm đến năng lực tài chính, phân khúc nhu cầu thực sự của số đông người
dân nên tập trung vào xây dựng nhà ở thương mại, cao cấp, không chú ý đến nhà
xã hội, dẫn đến không bán được hàng, hàng tồn và dẫn đến phá sản
3. Dưới góc độ của nguyên tắc phát triển
Trong quan hệ giữa thị trường và doanh nghiệp dưới góc độ nguyên tắc
phát triển, có thể thấy nguyên tắc này là hết sức quan trọng đối với doanh
nghiệp, nhất là trong bối cảnh một doanh nghiệp mới thành lập hoặc trong bối
cảnh nền kinh tế khủng hoảng như hiện nay Nguyên tắc này cung cấp cho
doanh nghiệp một niềm tin, sự lạc quan vào hoạt động kinh doanh của mình,
nhưng dựa trên việc nhận thức được xu thế của thị trường. Thị trường luôn vận
động và phát triển, đó là xu hướng khách quan và tích cực, tuy nhiên có lúc do
sự tác động của những nhân tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan, thị trường
có thể thu hẹp, đi xuống tạm thời nhưng phát triển là xu hướng tất yếu. Do đó,
nếu không nhận thức được điều này, doanh nghiệp mới thành lập trong một vài
năm đầu, chưa nắm bắt được thị trường, chưa tạo được vị thế trong thị trường thì
không nên vội bi quan và bỏ cuộc, cần phải tin tưởng vào những chiến lược kinh
doanh phù hợp với thị trường của mình; cũng tương tự trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế hiện nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm dịch vụ cũng như hàng hóa
có phần chững lại, thậm chí thu hẹp hay đi xuống nhưng doanh nghiệp cũng
không được buông xuôi mà phải tiếp tục kiên trì, thay đổi chiến lược, mục tiêu
để phù hợp, để tồn tại vì xu hướng thị trường sẽ được cải thiện khi mà các giải
pháp của Chính phủ, các gói kích thích kinh tế được thực hiện, tình hình kinh tế
thế giới đang được cải thiện
9
KẾT LUẬN

Từ những phân tích trên cho ta thấy, thị trường chính là nơi giúp cho
doanh nghiệp "người bán" xác định được:
- Sản xuất kinh doanh cái gì ?
- Cho đối tượng khách hàng nào ?
- Và sản xuất kinh doanh như thế nào ?
Còn giúp người tiêu dùng (người mua) biết được:
- Ai sẽ đáp ứng nhu cầu của mình ?
- Nhu cầu được thoả mãn đến mức nào ?
- Khả năng thanh toán ra sao ?
Để người bán hiểu được nhu cầu của người mua và người mua tin tưởng
vào người bán. Doanh nghiệp cần có nơi để giao dịch và tạo niềm tin, đó là Thị
trường. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của các nhà sản xuất hàng hoá là
sản xuất ra hàng hoá ra để bán, để thoả mãn nhu cầu của người khác. Vì thế các
doanh nghiệp không thể tồn tại một cách đơn lẻ mà mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh đều phải gắn với thị trường. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra không ngừng theo chu kỳ mua nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị…
trên thị trường đầu vào, tiến hành sản xuất ra sản phẩm, sau đó bán chúng trên
thị trường đầu ra.
Doanh nghiệp chịu sự chi phối của thị trường hay nói cách khác thị trường
đã tác động và có ảnh hưởng quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Thị trường càng mở rộng và phát triển thì lượng hàng
hoá tiêu thụ được càng nhiều và khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Bởi thế còn thị trường thì còn sản xuất kinh
doanh, mất thị trường thì sản xuất kinh doanh bị đình trệ và các doanh nghiệp sẽ
có nguy cơ bị phá sản. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, có thể khẳng định
rằng thị trường có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.

10

×