Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

đề tài tích hợp giáo dục biến đổi khí hậu trong môn địa lý ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.2 KB, 37 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TIỀN GIANG
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN
oOo
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
TÍCH HỢP GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG
MÔN ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Người thực hiện: Nguyễn Thị Kim Thoa
Năm học 2011 -
2012
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu thường đề cập tới với sự thay đổi
bất thường của khí hậu, được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nguyên
nhân chính làm biến đổi khí hậu trên Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các
chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí
nhà kính như sinh khối rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.
Theo Báo cáo Phát triển Con người 2007 – 2008 của UNDP, với kịch bản nước
biển dâng, đến năm 2100, nhiệt độ tăng trung bình 3-4 độ C sẽ có khoảng 22 triệu
người Việt Nam bị ảnh hưởng. Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập
úng hoàn toàn, khiến năng suất nông nghiệp giảm 20%. Bão lụt, ngập úng cũng gia
tăng. Bệnh tật, nhất là sốt xuất huyết, sốt rét phát triển mạnh khiến sức khỏe của người
dân bị ảnh hưởng.
Việt Nam đang chịu ảnh hưởng từ nhiều mặt của BĐKH, thiên tai, bão lụt, hạn
hán diễn ra dồn dập hơn trước. Điều này là hiển nhiên và không thể chối bỏ. Trước
tình hình này, các lĩnh vực, ngành, địa phương đã triển khai các hoạt động nghiên cứu,
đánh giá tình hình, diễn biến và tác động của BĐKH đến tài nguyên, môi trường, sự
phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất và bước đầu thực hiện các giải pháp ứng phó, và về
lâu dài tích hợp mục tiêu ứng phó BĐKH vào trong các hoạt động thường xuyên của
mình.


Với vai trò là một giáo viên giảng dạy địa lý ở trường THPT, có nhiệm vụ đào
tạo ra những công dân hữu dụng, có ích cho đất nước, tôi thấy rằng việc lồng ghép,
tích hợp nội dung biến đổi khí hậu vào chương trình giảng dạy ở một số môn học nhất
là môn Địa lý ở trường THPT là hoàn toàn phù hợp và cần thiết nhằm trang bị cho các
em những kiến thức tốt nhất về BĐKH, đồng thời các em cũng chính là các cầu nối
thông tin để tuyên truyền đến cộng đồng. Đó là lý do để tôi chọn đề tài viết sáng kiến
kinh nghiệm của mình là: “TÍCH HỢP NỘI DUNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG
MÔN ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG THPT”
2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau
2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tổng hợp từ các nguồn tài liệu : tạp chí, báo cáo khoa học và các công trình
nghiên cứu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
2.2. Phương pháp tổng hợp đánh giá
Trên cơ sở phân tích các thông tin, số liệu thu thập được, tiến hành tổng hợp,
đánh giá.
PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam: “BĐKH là sự thay đổi của hệ
thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong
tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo”.
Theo quan điểm của Tổ chức khí tượng thế giới (WMO), BĐKH là sự vận động
bên trong hệ thống khí hậu, do những thay đổi kết cấu hệ thống hoặc trong mối quan
hệ tương tác giữa các thành phần dưới tác động của ngoại lực hoặc do hoạt động của
con người.
Sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu
duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập niên hoặc dài hơn. BĐKH
có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt
động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử

dụng đất.
Sự thay đổi về khí hậu do ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động của
con người cùng với BĐKH do tự nhiên sẽ làm thay đổi cấu thành của khí quyển.
1.2. Nguyên nhân hình thành biến đổi khí hậu
BĐKH là do nồng độ của khí hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức
độ cao, làm cho Trái Đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái Đất nóng lên. Nhiệt độ trái đất
nóng lên tạo ra các biến đổi đối với các vấn đề thời tiết hiện nay. Theo báo cáo mới
nhất của Liên Hiệp Quốc, nguyên nhân của hiện tượng BĐKH 90% do con người gây
ra, 10% là do tự nhiên.
1.2.1. Hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người làm tăng lượng khí thải
BĐKH có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng quan tâm và cần hạn chế là
nguyên nhân do hoạt động của con người gây ra. Đó là sự tăng nồng độ các khí nhà
kính trong khí quyển dẫn đến tăng hiệu ứng nhà kính. Đặc biệt quan trọng là khí điôxit
cacbon (CO
2
) được tạo thành do sử dụng năng lượng từ nguyên liệu hóa thạch (dầu
mỏ, than đá, khí tự nhiên ), phá rừng và chuyển đổi sử dụng chất thải vào khí quyển.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của Uỷ Ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC,
2007), hàm lượng khí CO
2
trong khí quyển năm 2005 đã vượt xa mức tự nhiên trong
khoảng 650.000 năm qua (180 – 280ppm) và đạt 379ppm (tăng gần 35%). Lượng phát
thải khí CO
2
từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng trung bình từ 6,4 tỉ tấn cacbon
mỗi năm (trong những năm 1990) đến 7,2 tỉ tấn cacbon mỗi năm (trong thời kỳ 2000-
2005). Trong việc đánh giá hiệu ứng của khí nhà kính, có hai vấn đề rất đáng lưu ý là
hàm lượng khí mêtan (CH
4
) trong khí quyển đã tăng từ 715ppb (trong thời kỳ tiền

công nghiệp) lên 1.732ppb trong những năm đầu thập kỷ 90 và đạt 1.774ppb năm
2005 (tăng gần 148%). Hàm lượng khí ôxit nitơ (N
2
O) trong khí quyển đã tăng từ
270ppb (trong thời kỳ tiền công nghiệp) lên 319ppb vào năm 2005 (tăng khoảng 18%).
Các khí mêtan và ôxit nitơ tăng chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, đốt nguyên liệu hóa
thạch, chôn lấp rác thải
Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch phát thải 70-90% lượng CO
2
vào khí quyển;
năng lượng hóa thạch được sử dụng trong giao thông vận tải, chế tạo các thiết bị điện
như: tủ lạnh, hệ thống điều hòa nóng lạnh và các ứng dụng khác; lượng phát thải CO
2
tăng còn do hoạt động trong nông nghiệp và khai thác rừng (kể cả cháy rừng), khai
hoang và công nghiệp. Tóm lại, tiêu thụ năng lượng do đốt các nguyên liệu hóa thạch
đóng góp khoảng gần một nửa (46%) vào tiềm năng nóng lên toàn cầu. Phá rừng nhiệt
đới đóng góp khoảng 18% và hoạt động nông nghiệp tạo ra khoảng 9% tổng số các khí
thải, gây ra lượng bức xạ cưỡng bức làm nóng lên toàn cầu Đây là những nguyên
nhân dẫn đến BĐKH do hoạt động của con người gây nên.
1.2.2. Sự biến đổi của tự nhiên
Nhiều quá trình trong và ngoài khí quyển được cho là có khả năng là những
nguyên nhân của những thay đổi khí hậu. Trong quá khứ, khí hậu Trái Đất đã nhiều
lần biến đổi do tự nhiên. Những thời kỳ băng hà xen lẫn những thời kỳ ấm lên của Trái
Đất đã từng xảy ra cách đây vài triệu năm. Thời kỳ băng hà cuối cùng xảy ra khoảng
18.000 năm trước Công nguyên. Trong thời kỳ này, băng bao phủ phần lớn Bắc Mỹ,
Bắc Âu và Bắc Á. Mực nước biển trung bình thấp hơn hiện nay tới 120m. Thời kỳ
băng hà này kết thúc khoảng 10.000-15.000 năm trước Công nguyên. Thời kỳ tiểu
băng hà gần đây nhất , xảy ra ở châu Âu vào giữa thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ thứ 19.
BĐKH hiện nay tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu bắt đầu xảy ra từ giữa thế kỷ
19. Trong khoảng hơn 100 năm qua (1906-2005) nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng

lên 0,7
0
C. Thập kỷ 1990 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ qua. Trong 11 năm
(1995-2006) là những năm nóng nhất từ khi có số liệu đo bằng công cụ hiện đại. Do
nóng lên toàn cầu, băng, tuyết của các vùng cực của Trái Đất và trên núi cao tan ra,
nước của các đại dương ấm lên và giãn nở ra, làm mực nước biển trung bình toàn cầu
dâng lên trung bình 0,17m trong thế kỷ XX. Các thiên tai như mưa lớn, bão, lũ lụt, lũ
quét, nắng nóng, hạn hán, lốc xảy ra nhiều hơn, mạnh hơn, dị thường hơn. Số ngày
lạnh, đêm lạnh, băng giá ít hơn. Hiện tượng El Nino xảy ra nhiều hơn, kéo dài và
mạnh hơn. Ngập lụt, xói lở bờ biển, xâm nhập mặn, sạt lở đất xảy ra nhiều và mạnh
mẽ hơn trước Đây là những ảnh hưởng do BĐKH gây ra, những ảnh hưởng này tác
động rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội vì vậy các địa phương, các cấp, các ngành
cần phải tập trung ứng phó và tìm giải pháp hạn chế thiệt hại do BĐKH gây ra.
1.3. Tác động của biến đổi khí hậu
Theo kết quả đánh giá cho toàn cầu của Uỷ ban Liên chính phủ về BĐKH
(IPCC, 2007) và những nghiên cứu sơ bộ ban đầu của các nhà khoa học Việt Nam, tác
động tiềm tàng của BĐKH đối với nước ta là nghiêm trọng và cần được nghiên cứu
sâu thêm. Sự gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai, cả về tần số và
cường độ do BĐKH là mối đe doạ thường xuyên, trước mắt và lâu dài đối với tất cả
các lĩnh vực, các vùng và các cộng đồng. Bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng, tố
lốc là thiên tai xảy ra hàng năm ở nhiều vùng trong cả nước, gây thiệt hại cho sản xuất
và đời sống. Trong đó, những lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ của BĐKH có thể được
tổng hợp qua sơ đồ sau:
BĐKH sẽ làm cho các thiên tai trở nên ác liệt hơn và có thể trở thành thảm hoạ,
gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế, xã hội hoặc xoá đi những thành quả nhiều năm
của sự phát triển, trong đó có những thành quả thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.
Những khu vực được dự tính chịu tác động lớn nhất của các hiện tượng khí hậu cực
đoan nói trên là dải ven biển Trung Bộ, vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, vùng
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.1. Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp và an

ninh lương thực
Tác động của biến đổi khí hậu
Đến môi trường
tự nhiên
Đến hoạt động
kinh tế
Đến các yếu tố
xã hội
- Môi trường đất
- Môi trường nước
Lượng mưa, Dòng chảy
sông ngòi, Nguồn nước
mặt, nước ngầm, Lượng
bốc hơi , lũ lụt, hạn hán,
xâm nhập mặn, triều
cường.
- Môi trường không khí.
- Môi trường biển. Hệ
sinh thái và đa dạng sinh
học.
học.
- Nông nghiệp
- Lâm nghiệp
- Ngư nghiệp, thuỷ sản
- Năng lượng
- Công nghiệp
- Giao thông vận tải
- Xây dựng
- Du lịch
- Vấn đề di dân

- An ninh xã hội
- Chất lượng cuộc
sống, y tế, sức khoẻ
cộng đồng
- Bảo tồn di tích văn
hoá, lịch sử.
- Bảo tồn các phong
tục tâp quán
BĐKH có tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng,
làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng. BĐKH ảnh hưởng đến sinh sản, sinh
trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia
cầm.
Với sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, thời gian thích nghi của cây trồng
nhiệt đới mở rộng và của cây trồng á nhiệt đới thì thu hẹp lại. Ranh giới của cây trồng
nhiệt đới dịch chuyển về phía vùng núi cao hơn và các vĩ độ cao ở phía Bắc, phạm vi
thích nghi của cây trồng á nhiệt đới bị thu hẹp thêm. BĐKH có khả năng làm tăng tần
số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm .
Tố, lốc, bão và các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ
lụt, ngập úng hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng suất và sản
lượng của cây trồng và vật nuôi.
BĐKH gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, một phần đáng kể diện
tích đất nông nghiệp ở vùng đất thấp đồng bằng ven biển, Đồng bằng sông Hồng,
Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập mặn do nước biển dâng, nếu không có các biện
pháp ứng phó thích hợp. BĐKH và nông nghiệp là hai qui trình tác động lẫn nhau ở
mức toàn cầu. Đối với nhà nông, thời tiết đóng vai trò quyết định cho thành công hay
thất bại, được mùa hay mất mùa. Ngược lại, nông nghiệp cũng ảnh hưởng lên khí hậu,
vì thải ra các khí làm tăng hiệu ứng nhà kính như hơi nước, khí cacbon, mê tan và ôxít
nitơ. Sự phát quang, phá rừng để trồng trọt và hiện tượng hoang hoá hay sa mạc hoá
đất đai vì thâm canh cũng làm thay đổi mặt vỏ Trái Đất, và làm mất quân bình cán cân
bức xạ nhiệt.

BĐKH ảnh hưởng đến toàn bộ ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tại
cuộc họp về BĐKH do Liên hiệp quốc UNDP gần đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu, Phó
ban chỉ đạo thực hiện công ước khí hậu và nghị định thư Kyoto của Việt Nam cũng
cho rằng: "Sinh kế của hàng chục triệu người Việt Nam đang bị đe dọa với những ảnh
hưởng của BĐKH. Vấn đề này và những hệ quả của nó đang khiến cho cuộc sống
người nghèo và những người cận nghèo Việt Nam ở vùng núi, vùng biển, vùng đồng
bằng bị đe dọa".
BĐKH đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp gồm thủy lợi, trồng
trọt và chăn nuôi BĐKH có tác động đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ
gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng, hai vựa lúa lớn nhất là
Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là những vùng đất thấp trong tương lai sẽ
chịu ảnh hưởng lớn của BĐKH khi mực nước biển dâng cao và chu trình thủy văn thay
đổi. Khô hạn và sự thiếu hụt nguồn nước sẽ làm năng suất nông nghiệp giảm sút.
Nhiều loại dịch bệnh cây trồng của vùng khí hậu nóng Tây Nam Bộ sẽ có khả năng
xâm lấn vào đồng ruộng (rầy trắng, vàng lùn-lùn xoắn lá…); các giống cây trồng ưa
nước sẽ không cho năng suất và bị các loài ưa khô hạn thay thế, dẫn đến khủng hoảng
các hệ sinh thái nông nghiệp bản địa. Xu thế này tất yếu dẫn đến việc nông dân lạm
dụng phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, làm cho đất bị suy thoái và chất
lượng nông sản không cao.
1.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến cuộc sống dân cư và vấn đề tái
định cư
Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến
gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh.
Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt hàng năm. Ở miền Bắc, mùa đông
sẽ ấm lên, dẫn tới thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. BĐKH làm
tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất huyết, làm tăng tốc độ
sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ mang bệnh, làm
tăng số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan,…Thiên tai như bão, tố, nước
dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất v.v… gia tăng về cường độ và tần số
làm tăng số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián tiếp đến sức khoẻ thông qua ô

nhiễm môi trường, suy dinh dưỡng, bệnh tật hoặc do những đổ vỡ của kế hoạch dân
số, kinh tế - xã hội, cơ hội việc làm và thu nhập. Những đối tượng dễ bị tổn thương
nhất là những nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em và
phụ nữ.
BĐKH là nguy cơ gây suy thoái môi trường và suy giảm đa dạng sinh học và sự
nhiễu loạn hệ sinh thái sẽ là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh mới cho con người.
BĐKH làm suy thoái tài nguyên nước ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt của nhân dân
và hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế. BĐKH còn là nguyên nhân gây nên các
biến động về di dân do mất nơi ở, mất đất canh tác hoặc do bệnh tật và nghèo đói.
Trong mấy năm gần đây biểu hiện của BĐKH đối với Việt Nam đã rất rõ nét như mưa
lũ thất thường, hạn hán ngày càng khắc nghiệt Bắc Trung Bộ có nguy cơ gia tăng
bão lũ, trong khi vùng ven biển Nam Trung Bộ đang gia tăng độ khô hạn và có nguy
cơ hạn hán. Hậu quả của bão lũ, hạn hán trực tiếp gây chết người, dịch bệnh sau lũ,
mùa màng mất mùa, làm tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng, giảm khả năng kháng bệnh.
Đồng thời, khi nhiệt độ toàn cầu ấm lên sẽ tạo điều kiện cho dịch bệnh cũ và
dịch bệnh mới phát triển mà con người khó có thể kiểm soát được. Trong báo cáo gần
đây của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPPC) đã khẳng định: Dưới tác động của
nhiệt các căn bệnh đã gia tăng như: sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não (truyền qua
muỗi); các bệnh đường ruột (qua môi trường nước), các bệnh suy dinh dưỡng, bệnh
phổi Những bệnh này đặc biệt ảnh hưởng lớn đến các vùng kinh tế kém phát triển,
đông dân và có tỷ lệ đói nghèo cao.
Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm BĐKH sẽ làm
khoảng 150.000 người chết và 5 triệu người bệnh. Trong bối cảnh đó, BĐKH sẽ làm
cho hàng triệu người Việt Nam mất nhà cửa, đói nghèo dịch bệnh gia tăng. Hiện tượng
tị nạn môi trường sẽ xảy ra và kéo dài trên diện rộng. Với đất đai đã có chủ sử dụng,
đã quy hoạch, giao thông và thông tin thuận lợi, các dòng dân di cư sẽ khác xa so với
trước đây. Dòng người tị nạn xâm nhập dần vào các đô thị ít chịu ảnh hưởng của
BĐKH, tạo ra các khu dân cư kiểu “xóm liều, ổ chuột”, gia tăng lực lượng lao động
giản đơn, bán hàng rong, tạo thành các nhóm dân lang thang trong đô thị, góp phần
nông thôn hoá đô thị và làm cho quy hoạch các khu vực đô thị trở thành không thể

kiểm soát được. Phụ nữ hoá quản trị hộ gia đình tại các vùng chịu ảnh hưởng của
BĐKH do đàn ông phải rời nhà đi kiếm sống trong thời gian dài, tạo ra những hệ luỵ
khó khắc phục về mặt giáo dục trẻ em, trật tự xã hội và kiểm soát các bệnh xã hội.
Những thành công trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo có thể bị BĐKH làm sút giảm,
thậm chí có thể xóa sạch. Hơn thế nữa, việc di dân tái định cư cho các hộ gia đình là
thách thức lớn không chỉ vì quỹ đất lúc đó đã trở nên hạn hẹp, kinh phí lớn mà còn làm
xáo trộn sinh kế của dân cư đang cư trú ở vùng bờ, không ít trong số đó lại tái nghèo.
Do vậy, BĐKH có tác động mạnh vào những người nghèo đặc biệt là những người
nông dân.
1.3.3. Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước, tài nguyên biển
Việt Nam có bờ biển dài 3.260km, hơn một triệu km
2
lãnh hải và trên 3.000 hòn
đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ, nhiều vùng đất thấp ven biển. Những vùng này
hàng năm phải chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa và hạn hán, xâm nhập mặn trong
mùa khô. BĐKH và nước biển dâng sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng nói trên, làm
tăng diện tích ngập lụt, gây khó khăn cho thoát nước , tăng xói lở bờ biển và nhiễm
mặn nguồn nước ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt, gây rủi ro
lớn đối với các công trình xây dựng ven biển như đê biển, đường giao thông, bến cảng,
các nhà máy, các đô thị và khu dân cư ven biển. Mực nước biển dâng và nhiệt độ nước
biển tăng ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển và ven biển, gây nguy cơ đối với các rạn san
hô và rừng ngập mặn, ảnh hưởng xấu đến nền tảng sinh học cho các hoạt động khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển. Tất cả những điều trên đây đòi hỏi phải có đầu tư
rất lớn để xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, nhằm ứng phó với mực nước biển
dâng, phát triển hạ tầng kỹ thuật, di dời và xây dựng các khu dân cư và đô thị có khả
năng thích ứng cao với nước biển dâng.
Thiếu hụt nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt dẫn đến việc khai thác quá mức
và không thể kiểm soát môi trường của việc khai thác nước ngầm. Hiện tượng nhiễm
mặn và ô nhiễm nước ngầm gia tăng. Tài nguyên nước đang chịu thêm nguy cơ suy
giảm do hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng đến

nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và sản xuất điện. Chế độ mưa thay
đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa, và hạn hán vào mùa khô, gây khó
khăn cho việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng nước. Trên các sông lớn như
sông Hồng và sông Cửu Long, xu hướng giảm nhiều hơn đối với dòng chảy năm và
dòng chảy kiệt; xu thế tăng nhiều hơn đối với dòng chảy lũ.
BĐKH cũng đang tác động đến nuôi trồng thủy sản, trong đó nhiệt độ đóng vai
trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát triển của sinh vật nói chung và các
loài thủy - hải sản nói riêng.
Hiện tượng nước biển dâng và ngập mặn gia tăng dẫn đến các hậu quả sau:
Nước mặn lấn sâu vào nội địa, làm mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thuỷ
sản nước ngọt. Rừng ngập mặn hiện có bị thu hẹp, ảnh hưởng đến nơi cư trú của một
số loài thuỷ sản. Khả năng cố định chất hữu cơ của hệ sinh thái rong biển giảm, dẫn
đến giảm nguồn cung cấp sản phẩm quang hợp và chất dinh dưỡng cho sinh vật đáy.
Do vậy, chất lượng môi trường sống của nhiều loại thuỷ sản xấu đi. - Nước biển dâng
làm cho chế độ thuỷ lý, thuỷ hoá và thuỷ sinh xấu đi. Kết quả là các quần xã hiện hữu
thay đổi cấu trúc và thành phần, trữ lượng giảm sút.
Nhiệt độ tăng cũng dẫn đến một số hậu quả: Gây ra hiện tượng phân tầng nhiệt
độ rõ rệt trong thuỷ vực nước đứng, ảnh hưởng đến quá trình sinh sống của sinh vật.
Một số loài di chuyển lên phía Bắc hoặc xuống sâu hơn làm thay đổi cơ cấu phân bố
thuỷ sinh vật theo chiều sâu. Quá trình quang hoá và phân huỷ các chất hữu cơ nhanh
hơn, ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của sinh vật. Các sinh vật tiêu tốn nhiều năng
lượng hơn cho quá trình hô hấp cũng như các hoạt động sống khác làm giảm năng suất
và chất lượng thuỷ sản. Suy thoái và phá huỷ các rạn san hô, thay đổi quá trình sinh lý,
sinh hoá diễn ra trong mối quan hệ cộng sinh giữa san hô và tảo. Nhiệt độ tăng làm
cho nguồn thuỷ, hải sản bị phân tán. Các loài cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị
giảm đi hoặc mất hẳn. Cá ở các rạn san hô đa phần bị tiêu diệt.
Cường độ và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong một thời gian
dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò…)
bị chết hàng loạt do không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Các loài thực
vật nổi, mắt xích đầu tiên của chuỗi thức ăn cho động vật nổi bị huỷ diệt, làm giảm

mạnh động vật nổi, do đó làm giảm nguồn thức ăn chủ yếu của các động vật tầng giữa
và tầng trên.
Thay đổi nhiệt độ còn là điều kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra.
Dịch bệnh xảy ra và lan truyền rất nhanh và rộng, nên mức độ rủi ro rất lớn. Mực
nước biển, nhiệt độ nước biển, độ mặn, tốc độ và hướng gió, bề dày của lớp trầm tích
sẽ ảnh hưởng lớn tới sinh vật sống trong đó, ảnh hưởng đến nơi sinh sống, khả năng
cung cấp thức ăn cho cá.
Xói lở bờ biển và nguy cơ ngập chìm vùng đất thấp ven bờ là một đe dọa nguy
hiểm. Theo kịch bản dâng cao mực nước biển Việt Nam [5], đến 2050 nước biển sẽ
dâng cao thêm 33 cm, theo quy luật động lực sóng, chiều rộng bãi biển cát bị xói lở sẽ
là 330 m- 3300 m, nơi tập trung cơ sở hạ tầng du lịch và nghề nuôi trồng và chế biến
thủy sản, nơi cư trú của hàng vạn hộ gia đình sẽ bị sóng phá hủy. Tình trạng còn có thể
nguy hiểm hơn nếu mực nước biển dâng cao thêm 1,0 m theo dự báo của các nhà khoa
học Anh.
1.3.4. Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên rừng và hệ sinh thái tự
nhiên
BĐKH với sự tăng nhiệt độ, thay đổi lượng mưa và nước biển dâng ảnh hưởng
đến thảm thực vật rừng và hệ sinh thái rừng theo nhiều chiều hướng khác nhau. Phân
bố ranh giới các kiểu rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh có thể dịch chuyển.
Sinh thái bị nhiễu loạn dẫn đến nguồn lợi đa dạng sinh học bị cắt giảm, điều này sẽ
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một số đông dân chúng dựa chủ yếu
vào nông nghiệp và nguồn lợi tự nhiên.
Do BĐKH, hệ sinh thái rừng bị ảnh hưởng theo các chiều hướng khác nhau:
Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn hiện có, tác động xấu đến rừng
tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở các tỉnh Nam Bộ. Nhiệt độ cao kết hợp
với ánh sáng dồi dào thúc đẩy quá trình quang hợp dẫn đến tăng cường quá trình đồng
hoá của cây xanh. Tuy vậy, chỉ số tăng trưởng sinh khối của cây rừng có thể giảm do
độ ẩm giảm. Nguy cơ tiệt chủng của động vật và thực vật gia tăng, một số loài động,
thực vật quý hiếm có thể bị suy kiệt. Nhiệt độ và mức độ khô hạn gia tăng làm tăng
nguy cơ cháy rừng, phát triển sâu bệnh, dịch bệnh…

Các khu sinh thái trống rỗng hoặc kiệt quệ do BĐKH, tạo tiền đề cho các loài
ngoại lai có khả năng thích nghi tốt hơn xâm nhập.Trong số đó, có thể có những loài
cây trồng hay vật nuôi biến đổi gen (GMO) chưa được kiểm định về tính an toàn sinh
học, được người dân hay các công ty giống vật nuôi cây trồng nhập vào mà cơ quan
kiểm dịch động thực vật khó bề kiểm soát hết. BĐKH đang ngày càng tác động đến
các hệ sinh thái biển, làm giảm nguồn lợi cá biển. Hiện tượng san hô chết hàng loạt
trong những năm qua do một số nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do nhiệt độ ở
các vùng biển đã tăng lên
Đa dạng sinh học là cơ sở quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của
các quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sự tác động của BĐKH toàn
cầu, ĐDSH đã và đang bị ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng. Theo Báo cáo triển
vọng Môi trường toàn cầu của Liên Hợp Quốc 2007, thì BĐKH đang gây ra tình trạng
suy thoái môi trường trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi thế giới phải hành động nhanh
chóng hơn bao giờ hết. Đối với Việt Nam - một trong những nước được dự báo sẽ bị
ảnh hưởng nặng nề của BĐKH thì có lẽ vấn đề bảo vệ ĐDSH cần phải được quan tâm
triệt để.
Trong thiên nhiên, ÐDSH, nhất là các hệ sinh thái rừng nhiệt đới là nơi chủ yếu
tích luỹ trở lại nguồn khí CO
2
phát thải ra, để tạo thành chất hữu cơ. Trong khi đó,
chúng ta lại đã và đang chặt phá rừng để phát triển nông nghiệp, mở rộng chăn nuôi,
xây dựng nhà cửa, đô thị. Sự tàn phá rừng, không những gây mất cân bằng sinh thái ở
nước ta mà còn làm giảm khả năng hấp thụ CO
2
và gián tiếp làm tăng thêm lượng khí
CO
2
phát thải vào khí quyển, góp phần làm cho BÐKH toàn cầu tăng nhanh. Như vậy,
sự giảm sút ÐDSH, nhất là giảm sút diện tích rừng đã thúc đẩy sự gia tăng BÐKH toàn
cầu, nhưng ngược lại sự nóng lên toàn cầu cũng đã ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và

phát triển của các loài sinh vật và ÐDSH.
Ngoài những tư liệu về sự thay đổi nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển,
Báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH của Liên hợp quốc (IPCC) đã trình bày
những kết quả nghiên cứu tại sao nhiệt độ Trái Đất thay đổi đã ảnh hưởng đến khí hậu,
các đặc điểm vật lý và diễn thế các đặc điểm đó của Trái Đất, đến nơi sống của các
loài sinh vật và đến sự phát triển kinh tế của chúng ta. Báo cáo cũng đã đưa ra kết luận
là nhiệt độ Trái Đất trong thế kỷ XX đã tăng lên trung bình 0,7
o
C làm cho nhiều vùng
băng hà, diện tích phủ tuyết, vùng băng vĩnh cửu đã bị tan chảy, dẫn đến mực nước
biển dâng lên. Nhiều dấu hiệu đã cho thấy tác động của BĐKH đang ảnh hưởng ngày
một sâu, rộng đến các hệ sinh thái. Vùng phân bố của các loài đó thay đổi: nhiều loài
cây, côn trùng, chim và cá đã chuyển dịch lên phía Bắc và lên các vùng cao hơn; nhiều
loài thực vật nở hoa sớm hơn, nhiều loài chim đã bắt đầu mùa di cư sớm hơn, nhiều
loài động vật đã vào mùa sinh sản sớm hơn, nhiều loài côn trùng đã xuất hiện sớm hơn
ở Bắc bán cầu, san hô bị chết trắng ngày càng nhiều. Như vậy, các loài sinh vật muốn
phát triển một cách bình thường cần phải có một môi trường sống phù hợp, tương đối
ổn định về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, đất đai, thức ăn, nguồn nước và cộng đồng các
loài sinh vật trong nơi sống đó. Chỉ một trong những nhân tố của môi trường sống bị
biến đổi, sự phát triển của một loài sinh vật nào đó sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí có thể bị
diệt vong, tùy thuộc vào mức độ biến đổi nhiều hay ít.
Theo dự báo, nếu không có biện pháp hữu hiệu để giảm bớt lượng khí nhà kính,
nhiệt độ Trái Đất sẽ tăng thêm từ 1,8
o
C đến 6,4
o
C vào năm 2100, lượng mưa sẽ tăng
thêm 5 - 10%, băng ở hai cực và trên các núi cao sẽ tan chảy nhiều hơn, mực nước
biển sẽ dâng lên khoảng 70 - 100 cm và tất nhiên nhiều hiện tượng khí hậu cực đoan
theo đó sẽ diễn ra với mức độ khó lường trước được cả về tần số và mức độ. Nước

biển dâng sẽ gây nên xói mòn bờ biển, ngập lụt vùng ven bờ, làm suy thoái đất ngập n-
ước, nước mặn xâm nhập, giết chết các loài thực vật, động vật nước ngọt. Tại những
vùng mà BÐKH làm tăng cường độ mưa, thì nước mưa sẽ làm tăng xói mòn đất, lũ lụt,
sụt lở đất đá và có thể gây ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của các thuỷ vực, làm
ô nhiễm nguồn nước. Tất cả những hiện tượng đó đều ảnh hưởng đến các loài sinh vật
và tài nguyên sinh vật, làm cho nhiều hệ sinh thái bị suy thoái, gây khó khăn cho sự
phát triển kinh tế và xã hội, nhất là tại các nước nghèo mà cuộc sống đa số người dân
còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên.
Hai vùng đồng bằng lớn và đồng bằng ven biển nước ta, trong đó có rừng ngập
mặn và hệ thống đất ngập nước rất giàu có về các loài sinh vật, là những hệ sinh thái
rất nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão tố
sẽ làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm
suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật đa dạng trong
đó. Khi mực nước biển dâng cao, khoảng một nửa trong số 68 khu đất ngập nước có
tầm quan trọng quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng; nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa,
giết chết nhiều loài động, thực vật nước ngọt, ảnh hưởng đến nguồn nước ngọt cho
sinh hoạt và hệ thống trồng trọt của nhiều vùng. 36 khu bảo tồn, trong đó có 8 vườn
quốc gia, 11 khu dự trữ thiên nhiên sẽ nằm trong khu vực bị ngập.
Hệ sinh thái biển sẽ bị tổn thương. Các rạn san hô là nơi sinh sống của nhiều
loài sinh vật biển quan trọng, là lá chắn chống xói mòn bờ biển và bảo vệ rừng ngập
mặn sẽ bị suy thoái do nhiệt độ nước biển tăng, đồng thời mưa nhiều làm cho nước bị
ô nhiễm phù sa và có thể cả các hoá chất nông nghiệp từ cửa sông đổ ra. Nhiệt độ tăng
làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá
ngừ) tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới giá trị kinh tế cao giảm.
Các thay đổi diễn ra trong các hệ thống vật lý, hệ sinh học và hệ thống kinh tế
xã hội, đe dọa sự phát triển, đe dọa cuộc sống của tất cả các loài, các hệ sinh thái.
BĐKH, với các hệ quả của nó như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, xói mòn và sụt lở đất sẽ
thúc đẩy cho sự suy thoái ÐDSH nhanh hơn, trầm trọng hơn, nhất là những hệ sinh
thái rừng nhiệt đới không còn nguyên vẹn và một số loài đang nguy cấp với số
lượng cá thể ít, cũng vì thế mà sẽ tăng nguy cơ diệt chủng của động thực vật, làm biến

mất các nguồn gen quí hiếm, bệnh dịch mới có thể phát sinh
Ngoài ra BĐKH còn tác động đến các lĩnh vực khác: năng lượng, giao thông
vận tải, công nghiệp- xây dựng, văn hoá, thể thao, du lịch, thương mại và dịch vụ
Hình 1.1 - Tác động giữa BĐKH và suy giảm tài nguyên tự nhiên, KT-XH
Suy giảm chất
lượng không
khí
Suy giảm
ozon tầng
bình lưu
Suy giảm sự
đa dạng sinh
học
Suy giảm trật
tự xã hội
Suy giảm tài
nguyên đất
Suy giảm tài
nguyên nước
Suy giảm tài
nguyên rừng
Suy giảm phát
triển kinh tế
BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU
Nguồn : Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ
Hình 1.2 - Chuỗi dây chuyền tác động của hiện tượng BĐKH – nước biển dâng lên hệ
sinh thái, sản xuất và đời sống
Nguồn : Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG
Diện tích canh tác
và năng suất giảm
An ninh lương thực
bị đe doạ
Nghèo đói, dịch bệnh
gia tăng
Tài nguyên tự nhiên bị
xâm hại
Di dân từ nông thôn lên
thành thị
Rừng bị suy kiệt và
không bền vững
Biến động tiêu cực về
kinh tế - xã hội
Ô nhiễm và suy giảm
chất lượng cuộc sống
1.4. Thực tiễn về biến đổi khí hậu trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới
Ảnh hưởng đầu tiên của BĐKH là tác động lên hầu hết các thành phần môi
trường mà trước hết là làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng cao, mực nước biển dâng.
Sau nhiều năm bị phủ nhận vì áp lực của các kỹ nghệ khai thác nhiên liệu hóa
thạch (than và dầu hỏa), BĐKH đã trở thành một vấn đề "nóng" hiện nay của thế giới,
ngày càng hiện rõ tính cấp bách và được công nhận như một thực tế đe doạ sự tồn tại
của loài người trên Trái Đất. Những công trình nghiên cứu trong suốt 20 năm của
Nhóm chuyên gia liên chính phủ về BĐKH (Intergovernmental Panel on Climate
Change – IPCC), thuộc Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meterological
Organization – WMO), đã góp phần quan trọng làm thức tỉnh dư luận thế giới trước
hiện thực và các hệ quả của vấn đề này, và do đó đã được tôn vinh với giải Nobel hoà
bình trao cho IPCC năm 2007. .

Khí hậu biến đổi do Trái Đất bị hâm nóng vì hiệu ứng nhà kính tăng quá mức
quân bình tự nhiên khiến các sông băng trên các núi cao và nhất là vùng quanh năm
băng giá ở Bắc và Nam Cực tan dần, làm mặt biển dâng cao hơn, tới lúc nào đó sẽ
ngập chìm và xoá khỏi bản đồ những hòn đảo và những vùng đất thấp của một số
nước. Ngoài ra, thời tiết cũng bị biến loạn, thiên tai xảy ra thường xuyên hơn và với
cường độ cao hơn, lụt lội và hạn hán kéo dài hơn, như thực tế một số nước đã cho
thấy. Do BĐKH, đất đai còn bị huỷ hoại vì sa mạc hoá, mặn hoá, xói mòn, ngập chìm
- tất cả những triệu chứng này đã bắt đầu hiện rõ - với viễn tượng rất đáng sợ của một
hiện tượng "tị nạn môi trường" với những luồng di dân khổng lồ, làm căng thẳng quan
hệ giữa các nước.
Bên cạnh những nguy cơ của mưa gió trái mùa, thiên tai gây tác hại mùa màng,
gây đói kém, việc mặt biển dâng cao là một mối lo âu lớn, vì trong nhiều nước, những
vùng ven biển bị đe doạ trực tiếp thường là nơi tập trung đông đảo dân chúng và là
những vùng kinh tế, văn hoá quan trọng.
1.4.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo số liệu quan trắc của Trung tâm khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu ở
Việt Nam có thể thấy rõ qua các biểu hiện đáng lưu ý sau :
* Nhiệt độ: Trong khoảng 50 năm qua (1951-2000)
- Nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam đã tăng lên 0,7
0
C.
- Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961-2000) cao hơn trung
bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931-1960) là 0,6
0
C.
- Nhiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991-2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP.Hồ
Chí Minh đều cao hơn nhiệt độ trung bình của thập kỷ 1931-1940 lần lượt là 0,8 ; 0,4
và 0,6
0
C.

- Năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của
thập kỷ 1931-1940 là 0,8 – 1,3
0
C và cao hơn thập kỷ 1991-2000 là 0,4 -0,5
0
C.
- Dự báo nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3
0
C vào năm 2100.
* Lượng mưa: Trên từng địa điểm thì xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình
năm trong 9 thập kỷ qua (1911-2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng
khác nhau, có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống.
- Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981-
1990 và chỉ còn gần một nửa (khoảng 15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây.
- Lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng từ 0
đến 10% vào mùa mưa và giảm từ 0 đến 5% vào mùa khô. Tính biến động của mưa
tăng lên.
* Mực nước biển: Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở các trạm
Cửa Ông và Hòn Dấu, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20cm phù hợp
với xu thế chung của toàn cầu.
- Mực nước biển trung bình trên toàn dải bờ biển Việt Nam có thể dâng lên 1m
vào năm 2100.
* Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai thập
kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và năm 2007 chỉ có 15-16
đợt không khí lạnh bằng 56 % trung bình nhiều năm, trong đó có 6/7 trường hợp có số
đợt không khí lạnh trong mỗi tháng mùa đông (XI-III) thấp dị thường (3/1990, 1/1993,
2/1994, 12/1994, 2/1997 và 11/1997). Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí
hậu trong bối cảnh BĐKH toàn cầu là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài
38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông
nghiệp.

* Bão: Trong những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn,
quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn,
nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn.
Việt Nam đang đối mặt với nhiều tác động của BĐKH bao gồm tác động đến
cuộc sống, sinh kế, tài nguyên thiên nhiên, cấu trúc xã hội, hạ tầng kỹ thuật và nền
kinh tế. Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất
của BĐKH và mực nước biển dâng. Để ứng phó với BĐKH cần phải có những đầu tư
thích đáng và nỗ lực của toàn xã hội.
Các số liệu và phân tích cho thấy BĐKH có những tác động tiềm tàng đến
những lĩnh vực, các địa phương và các cộng đồng khác nhau của Việt Nam. BĐKH
làm tăng khả năng bị tổn thương và tạo nguy cơ làm chậm hoặc đảo ngược quá trình
phát triển. Những người nghèo nhất, thường tập trung ở các vùng nông thôn, đặc biệt
ở dải ven biển và các khu vực miền núi là đối tượng chịu nguy cơ tổn thương lớn nhất
do BĐKH.
Khả năng tổn thương cần được đánh giá đối với từng lĩnh vực, khu vực và cộng
đồng, cả hiện tại và tương lai. Khả năng tổn thương do BĐKH (bao gồm cả biến động
khí hậu, nước biển dâng và hiện tượng khí hậu cực đoan) đối với một hệ thống phụ
thuộc vào tính chất, độ lớn, mức độ biến động khí hậu và những áp lực do BĐKH mà
hệ thống đó phải hứng chịu, tính nhạy cảm cũng như năng lực thích ứng của hệ thống
đó. Năng lực thích ứng của một hệ thống phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã
hội và môi trường của hệ thống đó. Tác động tổng hợp của BĐKH đối với hệ thống
càng lớn và năng lực thích ứng của hệ thống càng nhỏ thì khả năng tổn thương càng
lớn.
Ở Việt Nam, những lĩnh vực/đối tượng được đánh giá là dễ bị tổn thương do
BĐKH bao gồm : nông nghiệp và an ninh lương thực, tài nguyên nước, sức khoẻ, nơi
cư trú, nhất là ven biển và miền núi
Các khu vực dễ bị tổn thương bao gồm dải ven biển (kể cả những đồng bằng, đặc
biệt là những vùng hàng năm thường chịu ảnh hưởng của bão, nước dâng do bão, lũ
lụt), vùng núi, nhất là những nơi thường xảy ra lũ quét, sạt lở đất
Có thể nói, về mặt tiêu cực, BĐKH làm tăng tính ác liệt của thiên tai, cả về

cường độ lẫn tần suất.
Các cộng đồng dễ bị tổn thương bao gồm : nông dân, ngư dân (nhất là ở những
khu vực dễ bị tổn thương), các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, phụ nữ, trẻ em
và các tầng lớp nghèo nhất ở các đô thị là những đối tượng ít có cơ hội lựa chọn
1.4.3. Biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn
thương nhất do nước biển dâng. Hai đồng bằng còn lại là đồng bằng sông Nile (Ai
Cập) và đồng bằng sông Hằng (Bangladesh).
Nhìn tổng thể, kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chịu sự tác
động trên các mặt.
- Biến động trong sản xuất: Nếu không có giống mới chịu được mặn, kinh tế lúa
và kinh tế vườn sẽ giảm sút ; kinh tế biển sẽ tăng trưởng nhanh nhưng chưa chắc sẽ bù
đắp lại hai sự sụt giảm trên ; đầu tư trong lĩnh vực công thương nghiệp càng khó thu
hút hơn.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng đã tốn kém càng tốn kém hơn.
- Biến động về phân bố dân cư, đô thị và các trung tâm, cơ sở kinh tế sẽ diễn ra
sự dịch chuyển trong nội vùng và ra ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
- Những biến động về môi trường tự nhiên và về kinh tế - xã hội nêu lên trên
đây sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long nếu
không kịp thời có sự ứng phó thích hợp. Cuộc sống của hàng chục triệu người dân sẽ
gặp nhiều xáo trộn lớn ; Vai trò vựa lúa cả nước, nguồn đóng góp quan trọng cho tổng
kim ngạch xuất khẩu và ngân sách nhà nước mà Đồng bằng sông Cửu Long đang đảm
nhiệm sẽ chịu thách thức nghiêm trọng ; Nhiều khía cạnh về an ninh quốc phòng sẽ
được đặt ra, trước tiên là an ninh lương thực cho cả nước.
Nhiều nhà khoa học và các tổ chức quốc tế có uy tín đã xếp Việt Nam, đặc biệt
là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong nhóm quốc gia có nguy cơ tổn thương
cao do tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Năm 2009, Trung tâm START vùng Đông Nam Á (Đại học Chulalongkorn,
Thái Lan) và Viện Nghiên cứu BĐKH – Đại học Cần Thơ đã phối hợp chạy mô hình
khí hậu vùng PRECIS với kịch bản A2 và B2, dựa vào chuỗi số liệu khí hậu giai đoạn

1980-2000 để phỏng đoán giai đoạn 2030-2040. Kết quả mô hình cho thấy nhiều khu
vực của vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị các tác động sau:
- Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33 - 35
0
C lên 35 -
37
0
C
- Lượng mưa đầu vụ Hè Thu (15/4 – 15/5) sẽ giảm chừng 10-20%
- Sự phân bố mưa tháng sẽ có khuynh hướng giảm vào đầu và giữa vụ Hè Thu
nhưng gia tăng một ít vào cuối mùa mưa.
- Tổng lượng mưa hàng năm sẽ giảm, đồng thời thời kỳ bắt đầu mùa mưa sẽ trễ
hơn khoảng 2 tuần lễ.
- Xu thế lũ trong giai đoạn 2030 – 2040 sẽ khác đi so với hiện nay: diện tích bị
ngập sẽ mở rộng.
- Tình hình nhiệt độ gia tăng, mưa giảm, diện tích lũ mở rộng và mực nước biển
dâng cao sẽ tác động rất lớn đến hệ sinh thái và sản xuất nông nghiệp cũng như tạo ra
các vấn đề khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực.
Kết quả này tương đối phù hợp với mô hình của IPCC (2007) cho thấy:
- Nhiệt độ toàn cầu gia tăng 1
0
C trong giai đoạn 2010-2040 và 3 - 4
0
C trong giai
đoạn 2070 – 2100.
- Lượng mưa trung bình trên thế giới sẽ giảm 20mm trong giai đoạn 2010-2040
nhưng gia tăng 60mm trong giai đoạn 2070-2100.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn nhất cả nước, không chỉ
đáp ứng nhu cầu lương thực cho thị trường và chiến lược an ninh lương thực trong
nước mà còn góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu, đảm bảo an ninh lương thực

toàn cầu, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới.
Theo đánh giá của các chuyên gia khí tượng thủy văn, ĐBSCL sẽ là khu vực
chịu tác hại nặng nề nhất do BĐKH gây ra. Những năm gần đây, vào các tháng mùa
khô, hầu hết các tỉnh ĐBSCL đều bị nước mặn xâm nhập, gây thiệt hại đáng kể cho
sản xuất nông nghiệp, nhiều địa phương rơi vào tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt
trầm trọng. Theo dự đoán của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP)[23], tác
động của BĐKH sẽ gây thiệt hại khoảng 17.000 tỷ đồng/năm cho nước ta, đồng thời
khiến 17 triệu người đứng trước nguy cơ không còn nhà cửa.
Trước đây, ĐBSCL ít gặp bão ngoại trừ năm 1997, bão Linda đi qua khu vực
này và năm 2006, đuôi bão Durian quét qua, gây thiệt hại nặng nề về người và của.
Đáng lo ngại hơn, theo dự báo của các chuyên gia, nếu mực nước biển dâng lên cao
hơn so với hiện nay, hậu quả của các cơn bão gây ra cho ĐBSCL còn khốc liệt hơn
nhiều. TS. Nguyễn Hữu Chiếm, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Trường
Đại học Cần Thơ) khẳng định: “ĐBSCL đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH toàn
cầu. Hiện đất đai của vùng đang bị bạc màu và đa dạng sinh học giảm mạnh; diện tích
đất bị xâm nhập mặn, khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng cao. Toàn vùng ĐBSCL có
khoảng 2,1 triệu hecta đất bị nhiễm mặn và 1,6 triệu hecta đất nhiễm phèn, khô hạn.
Bên cạnh đó, nhiệt độ không khí tăng cao cộng với tình trạng hạn hán bất thường, lũ
lụt không theo quy luật khiến nhiều loại dịch bệnh mới hình thành, gây thiệt hại đáng
kể cho sản xuất nông nghiệp”.Chỉ tính riêng các đợt triều cường từ cuối năm 2008 đến
đầu năm 2009, vùng ngoài đê bao của An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp,
Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ đều bị ngập; nước sông dâng cao khiến
khoảng 70.000ha vườn cây ăn trái, hàng trăm kilômét đường nông thôn bị ngập sâu
Đáng báo động là tình trạng ngập lụt không chỉ xảy ra vào mùa mưa mà còn diễn biến
bất thường trong mùa khô. Theo thông tin từ Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, hiện
nước mặn từ 6 cửa sông thuộc hệ thống sông Mêkông đã xâm nhập sâu vào đất liền
vùng ĐBSCL khoảng 70km. Tại Long An, nước mặn từ Cửa Tiểu đã vào đến xã Thủy
Tây (huyện Thạnh Hóa); tại Bến Tre, nước mặn từ Cửa Đại vào đến xã Phú Túc
(huyện Châu Thành); ở Trà Vinh, nước mặn từ cửa Hàm Luông đã vào đến xã Long
Thới (huyện Tiểu Cần); trong khi đó ở Hậu Giang, nước mặn từ cửa Trần Đề đã vào

đến xã Phú Hữu. Trên địa bàn Cà Mau, nước mặn từ sông ông Đốc đã xâm nhập sâu
65km. Nước mặn từ sông Cái Lớn cũng xâm nhập sâu 65km đến thị xã Vị Thanh (Hậu
Giang).
Tháng 2/2010, triều cường dâng cao, xâm nhập mặn sâu tới 35-70km vào vùng
ngọt ổn định, làm ảnh hưởng nhiều diện tích lúa đông xuân đang trong giai đoạn làm
đòng, trổ bông của khu vực ĐBSCL. Tại tỉnh Bạc Liêu, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng
đến 20.000ha lúa của huyện Hồng Dân. Tại Trà Vinh, độ mặn so với cùng kỳ năm
trước đã tăng lên gần gấp đôi (0,35% lên 0,67%); Bến Tre, độ mặn lên đến 0,4% và ở
Cà Mau có nơi đo được là 3%. Khi nước bị nhiễm độ mặn 0,4% thì không thể dùng
cho sản xuất, nuôi trồng được.
Ông Phạm Đình Đôn, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây
Nam Bộ cho rằng, trong vài chục năm tới, khi nước biển dâng cao, ĐBSCL sẽ phải đối
mặt với tình trạng xâm nhập mặn và ngập lũ hạ lưu sông Mêkông với quy mô lớn.
ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước và có thế mạnh về nuôi trồng thủy sản nên 2 lĩnh
vực này sẽ chịu tác động mạnh nhất khi quá trình xâm nhập mặn làm thay đổi môi
trường đất và nước. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác động xấu khi chế độ
nước ngập sâu bị thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình xâm nhập mặn ở mức độ
cao có thể hủy diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tràm ở
Cà Mau, Kiên Giang
Tóm lại, BĐKH sẽ tác động lên toàn bộ hệ sinh thái vốn rất nhạy cảm của Trái
Đất, gây tác động qua lại liên quan đến sự suy giảm chất lượng tự nhiên, kinh tế và xã
hội. Vấn đề này làm thay đổi cán cân thực phẩm trong sinh quyển, làm mất tính đa
dạng sinh học, đất và rừng bị suy kiệt. ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng rất rõ rệt, có thể phỏng
đoán trong tương lai. Các báo cáo nghiên cứu cho thấy vùng ĐBSCL đang và sẽ chịu
những tác động nghiêm trọng do hiện tượng BĐKH - nước biển dâng lên toàn bộ hệ
sinh thái, cơ cấu canh tác nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và các hoạt động xã hội - sinh kế
- văn hóa…
II. TÍCH HỢP NỘI DUNG GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀO CHƯƠNG
TRÌNH GIẢNG DẠY ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG THPT
Nhà trường với số lượng đông đảo những người theo học, là nơi để tuyên

truyền, thực hiện giáo dục vì sự phát triển bền vững. Nhà trường là nơi trang bị cho
chủ nhân tương lai của đất nước kiến thức về sự biến đổi khí hậu, về khả năng của con
người trong cuộc chiến làm giảm thiểu sự biến đổi khí hậu. Nhà trường không chỉ là
nơi hình thành kiến thức, thái độ mà còn làm cho các chủ nhân tương lai có những
hành vi cụ thể đối với những hành động gây tác hại cho môi trường, cho sự biến đổi
khí hậu. Những hành vi ấy ở mức độ thấp có thể chỉ là ý thức tiết kiệm và hành vi tiết
kiệm, hành vi chống lại sự xâm hại Trái đất (như việc không sử dụng máy lạnh có chất
CFC, sử dụng phương tiện giao thông công cộng để làm giảm lượng thải CO2 vào
không khí) ở mức độ cao hơn là việc suy nghĩ, tìm kiếm kĩ thuật thay thế các chất thải
làm tăng nhiệt độ bề mặt trái đất….
Các trường phổ thông có thể thành lập các câu lạc bộ về sự biến đổi khí hậu, về
phát triển bền vững. Xây dựng các website để tuyên truyền, để chia sẻ thông tin về
biến đổi khí hậu…. Nếu như việc tuyên truyền và thực hiện giáo dục vì sự phát triển
bền vững được triển khai rộng rãi ở trường học, thì trong tương lai gần sẽ có những
công trình khoa học, những sản phẩm sáng tạo được ra đời do những học sinh, giáo
viên Việt Nam nghiên cứu thực hiện
Sự biến đổi khí hậu có qui mô toàn cầu nhưng hành động để ngăn cản sự biến
đội khí hậu ấy đòi hỏi mọi người, mọi quốc gia, mọi vùng và toàn thế giới. Khẩu hiệu
“Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương” xem ra phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay,
khi mà cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu không còn là cùa riêng ai.
Hiện nay, đã có rất nhiều ngành khoa học cùng góp sức chống lại sự biến đổi
khí hâu trong đó các trường phổ thông là nơi có thể tuyên truyền một cách tốt nhất
những tác động của biến đổi khí hậu.
Với vai trò là một bộ môn khoa học, các giáo viên phổ thông, qua môn học của
mình, sẽ giúp cho các em học sinh hiểu được nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu
toàn cầu. Làm cho mỗi công dân tương lai nhận thức được vai trò của chính họ trong
cuộc chiến biến đổi khí hậu toàn cầu. May mắn là nhiều bài học địa lý có những nội
dung liên quan đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Vì vậy, các thầy cô giảng dạy địa lý ở
trường phổ thông sẽ làm cho mỗi học sinh hiểu rằng chính họ chứ không phải ai khác
có thể làm chậm đi sự biến đổi khí hậu toàn cầu, giữ vững cuộc sống của nhân loại –

chi phí cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu trong lĩnh vực giáo dục là chi phí hiệu
quả nhất, kinh tế nhất.
- Bản chất nội dung và những biểu hiện của sự biến đổi khí hậu đang diễn ra trên
toàn cầu, ở Việt Nam và ở ngay địa phương nơi chúng ta đang sinh sống.

×