CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ KỸ THUẬT HẬU GIA NHẬP WTO
DỰ ÁN “ĐÁNH GIÁ TỒNG THỂ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM SAU 5
NĂM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
ĐÁNH GIÁ LĨNH VỰC Y TẾ CỦA VIỆT NAM SAU 5
NĂM GIA NHẬP WTO VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ
CHÍNH SÁCH
Hà Nội, tháng 9/2012
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN :
Hiệp hội các quốc gia đông Nam Á
BHYT :
Bảo hiểm y tế
BTA :
Hiệp định thương mại song phương
CTMT :
Chương trình mục tiêu
FDI :
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCB :
Khám, chữa bệnh
GATT :
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
KHHGĐ : Kế hoạch hoá gia đình
HNQT : Hội nhập quốc tế
MFN :
Đối xử huệ quốc
NT :
Đốu xử quốc gia
ODA :
Hỗ trợ phát triển chính thức
TTYT : Trung tâm Y tế
TTYTDP : Trung tâm Y tế dự phòng
TYT : Trạm Y tế
WTO :
World Trade Organization – Tổ chức thương mại thế giới
WHO :
World Health Organization – Tổ chức Y tế thế giới
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1 Thay đổi một số chỉ số đánh giá sức khỏe người dân 3
Bảng 2. Số cơ sở khám, chữa bệnh nhà nước qua các năm 10
Bảng 3 Số lượng cán bộ y tế trong các cơ sở nhà nước qua các năm. 10
Bảng 4. Số giường bệnh cơ sở y tế công lập qua các năm 11
Bảng 5. Xu hướng thay đổi mô hình bệnh, tật 17
Bảng 6. Chi cho y tế qua các năm 18
Bảng 7. Nguồn ngân sách nhà nước hàng năm chi cho y tế 19
Bảng 8. Vốn đầu tư nước ngoài về y tế qua các năm 20
Bảng 9. Một số chỉ tiêu kinh tế dược phẩm qua các năm 21
Bảng 10 Nguồn thu sự nghiệp qua các năm 25
ii
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 1 Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế qua các năm 4
Biểu 2. Lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân 5
Biểu 3 Số sinh viên ngành y nhập học qua các năm 8
Biểu 4 Những tác động hội nhập WTO đối với sức khỏe người dân 13
Biểu 5. Cơ cấu đầu tư phát triển y tế trên tổng chi tiêu công qua các năm 18
iii
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
I. NHỮNG ĐỔI MỚI CHỦ YẾU TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ, CSSKND 3
1. Thay đổi các chỉ số sức khỏe người dân 3
2. Chính sách bảo hiểm y tế toàn dân 4
3. Chính sách tiếp cận y tế cho các nhóm đối tượng 5
4. Thay đồi hệ thống cung cấp dịch vụ y tế 7
II. QUAN HỆ GIỮA HNQT VÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ Y TẾ 13
III. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ Y TẾ 14
1. Các công nghệ, kỹ thuật hiện đại được ứng dụng rộng rãi 14
2. Quá tải bệnh viện ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ 15
IV. TÁC ĐỘNG ĐẾN LĨNH VỰC Y TẾ KHI HỘI NHẬP QUỐC TẾ 16
1. Tác động mô hình bệnh, tật 16
2. Tăng nguồn ngân sách cho y tế 18
3. Thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực y tế 19
3. Thị trường dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm, hóa chất và TTB bị y tế 20
V. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA HNQT VỚI CÁC NHÓM ĐỐI TƯỢNG 23
1. Đối tượng thụ hưởng dịch vụ khám, chữa bệnh (người dân) 23
2. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe 24
3. Các doanh nghiệp trong nước 25
4. Hệ thống kiểm dịch biên giới, kiểm định sản phẩm 26
VI. CÁC KÊNH TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ 27
1. Chính sách, chiến lược 27
2. Quy luật cung - cầu trong việc cung cấp dịch vụ 27
3. Các kênh thông tin, truyền thông 28
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 28
1. Tổ chức mạng lưới y tế 28
2. Bài học kinh nghiệm trong công tác cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh 29
3. Công tác phòng, chống dịch, bệnh và công tác quản lý môi trường y tế 30
iv
4. Bài học kinh nghiệm trong công tác kiểm định chất lượng sản phẩm 31
5. Bài học kinh nghiệm trong việc đầu tư ngân sách cho y tế 31
VI. MẶT MẠNH MẶT YẾU VÀ CƠ HỘI, THÁCH THỨC TRONG HNQT 33
1. Những mặt mạnh và mặt yếu trong tiến trình hội nhập 33
2. Cơ hội và thách thức trong quá trình HNQT 34
IV. KIẾN NGHỊ 38
1. Phát triển hệ thống y tế đảm bảo đáp ứng nhu cầu người dân: 38
2. Cải thiện chính sách đầu tư và chính sách tài chính y tế phù hợp: 38
3. Phát triển ngành công nghiệp dược phẩm, vắc xin, sinh phẩm y tế, hóa chất,
trang thiết bị y tế: 38
4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực y tế: 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
v
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam chính thức được WTO thông qua làm thành viên ngày 07/11/2006, Đảng
và nhà nước đã có nhiều chủ chương chính sách nhằm chủ động trong việc gia nhập WTO
như Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 16/2007/NQ-CP. Việc gia nhập WTO đã tác
động lớn đến kinh tế, xã hội Việt Nam như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đến xuất, nhập khẩu, nông nghiệp và tài chính, y tế Từ đó cũng làm
thay đổi đời sống người dân, khoảng cách người giàu và người nghèo cũng tăng dần lên
và tạo ra những thách thức mới trong đời sống xã hội thời kỳ hội nhập.
Thực hiện các cam kết WTO cũng tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài có
điều kiện thuận lợi trong việc kinh doanh hàng hóa tại thị trường Việt Nam. Đối với lĩnh
vực y tế, đây là cơ hội để các bệnh viện có điều kiện tiếp cận thuận lợi hơn các trang thiết
bị, thuốc, công nghệ, kỹ thuật hiện đại ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Tuy nhiên đây cũng là những thách thức đối với các doanh nghiệp dược phẩm, các doanh
nghiệp trang thiết bị y tế, sinh phẩm trong việc cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Vấn
đề phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài lâu dài cũng là nguy cơ tiềm ẩn trong việc phát
triển kinh tế trong nước và chủ động trong công tác phòng ngừa, điều trị bệnh. Các hàng
hóa về mỹ phẩm, hóa chất sử dụng trong gia dụng và trong y tế, các mặt hàng thực phẩm
đòi hỏi công tác kiểm định và cấp giấy lưu hành sản phẩm. Trên cơ sở bảo vệ sức khỏe
người tiêu dùng cũng đặt ra những khó khăn đối với ngành y tế. Cam kết thực hiện các
điều khoản các Hiệp định về WTO cũng là cơ hội để Việt Nam thu hút các nguồn đầu tư
từ nước ngoài trong việc phát triển mạng lưới chăm sóc sức khỏe cho người dân như các
nguồn vốn viện trợ chính thức (ODA), các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO)… Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng hiệu
quả các nguồn vốn nhằm tận dụng cơ hội và phát triển ngành y tế là vấn đề đá
ng được
quan tâm.
Việc gia nhập WTO, tăng lượng khách du lịch cũng phần nào làm tăng các bệnh,
dịch lây truyền qua biên giới, điều đó làm tăng gánh nặng đối với ngành y tế. Tuy nhiên,
thời kỳ hội nhập cũng là cơ hội để các nước chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao kỹ thuật,
tao đổi thông tin và cùng hợp tác trong phòng, chống dịch bệnh và thiên tai thảm họa. Gia
nhập WTO góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và kể cả lối sống, hành vi, tác
động đến sự thay đổi mô hình bệnh tật nhanh hơn thông qua việc làm thay đổi điều kiện
làm việc, điều kiện sống và mức thu nhập. Sự thay đổi này cũng làm nảy sinh những nhu
cầu trong việc khám, chữa bệnh cho người dân.
Ngành y tế cũng đã có những chuyển đổi trong hệ thống, định hướng chiến lược
nhằm bảo đảm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày cáng cao và đa dạng của người
dân và cũng như những yêu cầu của hội nhập. Hệ thống kiểm dịch y tế biên giới đã được
đầu tư và phát triển các Trung tâm Kiểm dịch Y tế Quốc tế, Công tác An toàn vệ sinh
thực phẩm được đẩy mạnh với việc hình thành Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm tại Bộ Y tế
và các Chi Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm tại các tỉnh/TP. Công tác quản lý dược phẩm,
1
hóa chất, vắc xin được đẩy mạnh, ở một số tỉnh hình thành các Trung tâm Kiểm định Mỹ
phẩm - Dược phẩm. Các Viện nghiên cứu được chuyển đổi phù hợp với các dịch vụ
nghiên cứu chuyển giao công nghệ, các dịch vụ kiểm định, kiểm nghiệm, đặc biệt là xây
dựng và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh,
tuyến huyện tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Đời sống người dân tăng lên, nhu cầu
khám, chữa bệnh ngày càng cao mà nguồn lực trong nước hạn hẹp, do vậy việc huy động
các nguồn lực trong xã hội cũng như quốc tế để phát triển ngành y tế là rất cần thiết và
cấp bách. Các chính sách được ban hành nhằm đảm bảo việc huy động các nguồn lực và
quản lý hiệu quả các nguồn đầu tư như chính sách xã hội hóa ngành y tế theo Nghị định
số 10/2002/NĐ-CP, Nghị định 69/2008/NĐ-CP; tự chủ theo Nghị định số 43/2006/NĐ-
CP. Trên cơ sở chính sách trên. Ngành y tế tiến hành phân cấp, phân quyền nhằm tăng
quyền tự chủ cho các đơn vị đồng thời tiếp tục thực hiện thu một phần viện phí theo Nghị
định 95/NĐ-CP và gần đây là Thông tư 14/2012/TTLT về khung giá viện phí mới nhằm
từng bước nâng cao tính công bằng, bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng
giữa các đối tượng trong thời kỳ mới, là những vấn đề đang được xã hội quan tâm. Ngành
Y tế cũng không ngừng được quan tâm và đầu tư, do vậy cũng đã có những biến chuyển
nhất định trong giai đoạn gia nhập WTO.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá mức độ tác động của việc hội nhập WTO với ngành
y tế sau năm năm gia nhập WTO, từ đó có những đề xuất thay đổi chính sách nhằm đảm
bảo công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân đạt kết quả là vấn đề cần thiết. Viện
Nghiên cứu kinh tế Trung ương đã phối hợp với Bộ Y tế cùng đoàn chuyên gia tiến hành
“Đánh giá lĩnh vực y tế của Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO và đề xuất các khuyến
nghị chính sách”.
2
I. NHỮNG ĐỔI MỚI CHỦ YẾU TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ, CSSKND
1. Thay đổi các chỉ số sức khỏe người dân
Theo niêm giám thống kê y tế hàng năm của Bộ Y tế, tuổi thọ người dân Việt Nam
trong giai đoạn 2002-2006 không có sự thay đổi nhiều về tuổi thọ (71,3), tuy nhiên từ giai
đoạn 2007-2010 và 2011 tuổi thọ người dân tăng lên từ 71,3 lên 73,1. Các chỉ số thống
kê y tế đều có sự tiến bộ đáng kể qua các năm, nhưng ở hai giai đoạn trên cho thấy một số
chỉ số thống kê ở giai đoạn 2002-2006 có sự giảm mạnh hơn giai đoạn 2007-2010, đó là
các chỉ số chết trẻ dưới 1 tuổi, chết trẻ dưới 5 tuổi, trẻ sơ sinh nhẹ cân, trẻ suy dinh
dưỡng, tử vong mẹ. Tuy nhiên với tỷ lệ đạt được, Việt Nam được Tổ chức Y tế Thế giới
đánh giá cao, là một trong một số ít nước có tỷ lệ chết trẻ em tốt hơn so với các nước có
cùng mức thu nhập bình quân đầu người, và là 1 trong 9 nước có khả năng đạt Mục tiêu
thiên niên kỷ sớm hơn hạn định (trước 2015) và là 1 trong 3 nước có tốc độ giảm tỷ suất
chết mẹ nhanh (giảm trên 75% so 2090 với 2010) (Kết luận tại Hội nghị Quốc tế đánh giá
thực hiện MDG - tổ chức tại Washinton – Mỹ vào tháng 4/2012).
Bảng 1 Thay đổi một số chỉ số đánh giá sức khỏe người dân
Chỉ số 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Số năm kỳ vọng sống 71,3 71,3 71,3 71,3 71,3 72,84 73 72,8 73,0
Tỷ lệ ‰ chết trẻ dưới 1 26,0 21,0 18,0 17,8 16,0 16,0 15,0 16,0 15,8
Tỷ lệ ‰ chết trẻ em dưới 5 tuổi 35,0 32,8 28,5 27,5 26,0 25,9 25,5 25,0 23,8
Tỷ lệ % trẻ sơ sinh <2500 g 7,0 5,8 5,8 5,1 5,3 5,1 5,3 5,3 -
Tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng/ tuổi) 30,1 28,4 26,6 25,2 23,4 21,2 19,9 18,9 17,5
Tỷ lệ tử vong mẹ (100.000 trẻ sinh ra sống) 91,0 85,0 85,0 80,0 75,1 75,0 75,0 69,0 68,0
Tỷ lệ % tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi 89,7 96,7 96,5 97,8 95,7 81,8 81,8 96,3 -
Một số chỉ số y tế khi ở mức thấp, khi tác động can thiệp sẽ có sự thay đổi nhanh,
tuy nhiên các chỉ số tăng đến một mức nhất định thì dù có tăng can thiệp song các chỉ số
sẽ thay đổi chậm lại và tiệm cận đến mức gần tối đa. Do vậy, cũng rất khó trong việc đưa
ra được các đo lường trong hiệu quả can thiệp [12][13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20]
[21] [22].
Về chỉ số tuổi thọ người dân, có rất nhiều yếu tố góp phần tăng tuổi thọ con người.
Trong đó các yếu tố như: Dinh dưỡng, điều kiện sống, lối sống, tiếp cận dịch vụ y tế, tiếp
xúc với các yếu tố nguy cơ gây bệnh,…. Tuy nhiên các yếu tố này lại được tác động bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy đánh giá mức độ tác động do việc hội nhập WTO
đến sức khỏe nói chung và đến tuổi thọ nói riêng là rất khó đo lường.
3
2. Chính sách bảo hiểm y tế toàn dân
Theo Nghị định số 95/NĐ-CP từ năm 1994 về việc thu một phần viện phí, Bộ Y tế
cũng đã có hướng dẫn về việc thu một phần phí, viện phí. Tại các địa phương, hầu hết các
bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, tuyến huyện được phân loại vào nhóm tự bảo đảm một phần
chi phí hoạt động thường xuyên; hầu hết các trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh, tuyến
huyện thuộc nhóm do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên. Việc thu viện phí đã góp phần huy động nguồn lực đầu tư để phát triển ngành y tế
đáp ứng nhu cầu người dân. Tuy nhiên, điều đó cũng là rào cản trong việc tiếp cận với các
nhóm đối tượng đặc biệt là các đối tượng là người nghèo, cận nghèo.
Trong giai đoạn 2002-2006, bảo hiểm y tế được thực hiện theo Nghị định số
58/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y
tế, trong đó các đối tượng bảo hiểm y tế bắt buộc đó là người lao động Việt Nam, cán bộ
công chức làm việc trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, cán bộ hưu trí, người có công
với cách mạng, các đối tượng được bảo trợ. Đến năm 2005, Nghị định số 58/1998/NĐ-CP
được thay thế bởi Nghị định số 63/2005/NĐ-CP, trong đó quy định chi tiết và bổ sung
một số đối tượng được trợ cấp bảo hiểm y tế như Thân nhân sĩ quan Quân đội nhân dân
đang tại ngũ; thân nhân sĩ quan nghiệp vụ đang công tác trong lực lượng Công an nhân
dân, Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên và người cao tuổi theo quy định tại Điều 6 của Nghị
định số 30/2002/NĐ-CP, các đối tượng người nghèo theo Quyết định số 139/2002/QĐ-
TTg ngày 15 tháng 10 năm 2002, lưu học sinh được cấp học bổng.
Trong thời kỳ 2002-2006, cùng với sự phát triển kinh tế, số lượng người tham gia
bảo hiểm có xu hướng tăng, tuy nhiên chủ yếu là tầng lớp lao động tại các doanh nghiệp
và cán bộ công nhân, viên chức nhà nước. Đến thời kỳ 2008-2010 có sự ra tăng mạnh số
người tham gia bảo hiểm do thực hiện Luật bảo hiểm y tế, mở rộng các đối tượng học
sinh, sinh viên, cận nghèo, công an, quân đội
Biểu 1 Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế qua các năm [26]
Trong giai đoạn 2007-2011, Luật Bảo hiểm xã hội số 25/2008/QH12 năm 2008
ban hành đã tạo điều kiện cho việc tiếp cận bảo hiểm y tế đối với người dân, trong đó quy
4
định thêm các đối tượng là học sinh, sinh viên, các đối tượng cận nghèo, các đối tượng là
đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng là trẻ em dưới 6 tuổi được trợ cấp bảo hiểm y tế.
Đây là bước ngoặc để tạo điều kiện phát triển bảo hiểm y tế toàn dân. Đến cuối năm 2011,
tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 63%, đối tượng bảo hiểm y tế bao phủ đến cán bộ, công nhân
viên, người lao động, người hưu trí, người được bảo trợ xã hội, người nghèo, dân tộc
thiếu số, người già, thân nhân sỹ quan, trẻ em dưới 6 tuổi, người cận nghèo, học sinh sinh
viên. Chính phủ đang tạo các điều kiện để có thể bao phủ bảo hiểm y tế tự nguyện đối với
tầng lớp nông dân và các đối tượng khác.
Biểu 2. Lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân [26]
Đảng và Nhà nước đang huy động các nguồn lực và đảm bảo các khung pháp lý
nhằm tiến tới việc che phủ bảo hiểm y tế toán dân. Ngành y tế với mục tiêu đã được đặt là
ngành đảm bảo sự tiếp cận dịch vụ y tế đối với mọi đối tượng người dân. Mặc dù vậy, vấn
đề đặt ra đang là hiện nay còn gặp nhiều khó khăn do việc thiếu các nguồn lực đảm bảo
sự tiếp cận bảo hiểm toàn dân.
3. Chính sách tiếp cận y tế cho các nhóm đối tượng
Trước đây, ngành y tế được bao cấp trong việc khám và điều trị. Sau khi nghị định
số 95/NĐ-CP năm 1994 có hiệu lực, thì người dân phải chi trả một phần viện phí. Trong
giai đoạn hội nhập, sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế tạo ra mức thu nhập khác
nhau và khoảng cách giàu - nghèo gia tăng, một số người dân nghèo và cận nghèo không
đủ khả năng chi trả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 về việc khám chữa bệnh cho
người nghèo, trong đó Nhà nước bảo đảm ngân sách mua thẻ BHYT cấp miễn phí cho
người nghèo. (Ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
14/2012/QĐ-TTg sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định 139/2002/QĐ-TTg).
Trước đồi hỏi thực tế về nhu cầu khám chữa bệnh và hội nhập quốc tế, Nghị Quyết
số 46-NQ/QW ngày 23/2/2005 với quan điểm Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo
hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân
5
được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, từng bước
đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với
người ốm, người giầu với người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em; công
bằng trong đãi ngộ đối với cán bộ y tế.
Trước thực trạng thời kỳ hội nhập, nền kinh tế phát triển nhanh, ngành y tế cũng
phát triển với nhiều thành phần y tế khác nhau, nhằm đảm bảo dịch vụ y tế mang tính toàn
dân, ngày 1/4/2009, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 42-KL/TW về Đổi mới cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các đơn vị
sự nghiệp y tế công lập, trong đó nêu rõ Hệ thống y tế công lập phải giữ vai trò chủ đạo,
đặc biệt trong việc giữ vững định hướng công bằng hiệu quả, phát triển và đảm bảo an
sinh xã hội. Vì vậy, hệ thống y tế công lập phải được tiếp tục được mở rộng và phát triển.
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư, phát triển bệnh viện công, đổi mới cơ chế hoạt động của
các bệnh viện công để hoạt động ngày càng năng động, hiệu quả. Không cổ phần hoá
bệnh viện công lập hiện có; khuyến khích xã hội hoá, xây dựng và thành lập mới bệnh
viện cổ phần, bệnh viện liên doanh, cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện tư nhằm tăng thêm
số lượng cơ sở cung ứng dịch vụ và cơ sở dịch vụ y tế chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh ngày càng cao và đa dạng của nhân dân, tăng khả năng lựa chọn của
người dân đối với các dịch vụ y tế; vừa bảo đảm có đủ cơ sở cho người nghèo và các đối
tượng chính sách được tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế có chấ
t lượng ngay từ
tuyến ban đầu”.
Thực hiện chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về tiếp cận y tế
toàn dân, Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 đã được thông qua năm 2008. Theo đó các
đối tượng được tiếp cận với với bảo hiểm y tế là: người lao động, cán bộ công nhân, viên
chức, lực lượng vũ trang, thân nhân lực lượng vũ trang, người có công với cách mạng, đại
biểu quốc hội, người về hưu, học sinh, sinh viên, người nghèo, người cận nghèo, trẻ em
dưới 6 tuổi, người già và các đối tượng bảo trợ xã hội.
Các bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm như: Tả, cúm A (H5N1), cúm A
(H1N1),… được miễn viện phí khi điều trị. Các bệnh lao, phong, tâm thần, HIV/AIDS
được miễn hoặc được giảm viện phí khi điều trị.
Nghị Quyết 18/2008/QH12 cũng nêu rõ dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho y tế
dự phòng, quan tâm dành ngân sách cho chăm sóc sức khỏe người có công, người nghèo,
nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, nhân dân ở vùng kinh tế – xã hội khó khăn và đặc
biệt khó khăn. Tiếp tục cho phép phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư, nâng cấp bệnh
viện đa khoa huyện, đa khoa khu vực liên huyện, trạm y tế xã, bệnh viện lao, tâm thần,
ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó
khăn; hoàn thành việc đầu tư nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và đa khoa khu vực liên
huyện vào năm 2010. Thực hiện các giải pháp để kiểm soát hiệu quả sử dụng ngân sách
cho y tế.
Thực tế tiếp cận dịch vụ y tế theo hướng phát triển y tế dự phòng, phát triển mạng
lưới y tế cơ sở đã được thực hiện trong giai đoạn 2007-2010. Đã có nhiều đề án phát triển
6
y tế cơ sở được thông qua như: Đề án phát triển trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện, đề
án nâng cấp bệnh viện đa khoa tuyến huyện, đề án nâng cao năng lực trạm y tế xã, đề án
phát triển kinh tế xã hội vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn.
Trong những năm qua dưới sự tài trợ của một số tổ chức quốc tế như Ngân hàng
Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, Ngân hàng Tái thiết Đức, Quỹ phát triển quốc tế
Nhật Bản, Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc,… Bộ Y tế đã triển khai nhiều dự án tới các đồng
bào vùng sâu vùng xa như Tây Nguyên, Tây Bắc, Duyên hải nam trung bộ, Bắc trung bộ
và Đồng bằng Sông Cửu Long, Miền núi phía bắc
4. Thay đồi hệ thống cung cấp dịch vụ y tế
4.1. Đổi mới chính sách hệ thống:
Trong giai đoạn 2002-2006, trước tình hình đổi mới kinh tế, nhằm đáp ứng với tình
hình thực tiễn của giai đoạn, Chính phủ ban hành Nghị định 171/2004/NĐ-CP và Nghị
định 172/2004/NĐ-CP trong đó Chính phủ mong muốn tách bạch dịch vụ y tế dự phòng
(nhà nước bảo đảm ngân sách hoạt động là chủ yếu và Bệnh viện hoạt động theo cơ chế tư
chủ. Nhà nước chỉ bảo đảm ngân sách hoạt động cho các BV Lao, Phong, tâm thần,
nhi…), theo đó y tế tuyến huyện tách Trung tâm Y tế thành Trung tâm Y tế dự phòng
(TTYTDP) huyện và Bệnh viện huyện, thành lập Phòng Y tế trực thuộc UBND và quản
lý Trạm Y tế xã (TYT), thôn bản, tư nhân, an toàn vệ sinh thực phẩm… tuy nhiên khi các
tỉnh thực hiện thì nảy sinh nhiều bất cập, đặc biệt thiếu cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết
bị và khó khăn trong quản lý dịch bệnh, hoạt động chuyên môn…Do vậy đến đến năm
2008 Chính phủ thay đổi 171/2004/NĐ-CP và 172 bằng Nghị định 13/2008/NĐ-CP và
Nghị định 14/2008/NĐ-CP và Bộ Y tế và Bộ Nội vụ có Thông tư số 03/2008/TTLT-
BYT-BNV trong đó các TTYTDP huyện chuyển thành các TTYT huyện và trực thuộc
quản lý Sở Y tế, các TYT xã trực thuộc quản lý các Trung tâm Y tế huyện. Cơ cấu tổ
chức bộ máy các đơn vị được điều chỉnh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đảm bảo công
tác chăm sóc sức khỏe tuyến y tế cơ sở.
Trước nhu cầu chăm só sức khỏe nhân dân và phù hợp tiến trình hội nhập Thủ
tướng ban hành Quyết định 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 và QĐ 30/2008/QĐ-TTg
về mạng lưới khám chữa bệnh…, trong đó có xác định quy mô phát triển các cơ sở y tế
công, khuyến khích phát triển bệnh viện tư, tăng cường xã hội hóa hoạt động bệnh viện để
ưu tiên NSNN cho phát triển y tế dự phòng, y tế cơ sở. Trước mắt tập trung đầu tư cho
các Bệnh viện, TTYTDP đạt tiêu chuẩn quy định (Hạng bệnh viện; tiêu chuẩn An toàn
sinh học).Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XXII, ngày 03/6/2008 Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết 18/2008/NQ-QH12 trong đó tăng tỷ lệ chi ngân sách hằng năm cho sự nghiệp
y tế, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân chung của ngân
sách nhà nước. Dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho y tế dự phòng. Quan tâm dành ngân
sách cho chăm sóc sức khỏe người có công, người nghèo, nông dân, đồng bào dân tộc
thiểu số, nhân dân ở vùng kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tiếp tục cho
phép phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện, đa
khoa khu vực liên huyện, trạm y tế xã, bệnh viện lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa
7
nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn; hoàn thành việc đầu
tư nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và đa khoa khu vực liên huyện vào năm 2010
Kết luận 42-KL/TW ngày 30/4/2009, trong đó giao cho Bộ Y tế xây dựng trình
Chính phủ ban hành Nghị định đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, tập trung vào
các nội dung chính:
- Đổi mới phân bổ NSNN (tăng cho YTDP, YT cơ sở) theo Nghị quyết
18/2008/NQ-QH12
- Xây dựng khung giá viện phí theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ cho từng tuyến
bệnh viện.
- Phân loại các BV thành 4 loại: Tự chủ toàn phần (cả đầu tư và chi phí thường
xuyên); tự chủ toàn phần chi thường xuyên (nhà nước đầu tư); tự chủ 1 phần chi thường
xuyên (nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, TTB và 1 phần chi thường xuyên); BV nhà nước
bảo đảm toàn bộ (không tự chủ hoặc tự chủ dưới 10% chi thường xuyên: đối với BV lao,
Phong, tâm thần).
Hiện nay có một số BV đăng ký tự chủ toàn bộ: Nội tiết, Bệnh viện Đại học Y Hà
Nội, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, Răng Hàm mặt. 100% BV đăng ký tự chủ một
phần chi thường xuyên.
- Xây dựng và áp dụng các hình thức thanh toán viện phí hiện đại, tiên tiến (khoán
định suất; theo gói dịch vụ; theo nhóm chẩn đoán bệnh)
4.2. Đổi mới công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học:
Biểu 3 Số sinh viên ngành y nhập học qua các năm [11]
Trong những năm qua, có sự gia tăng số lượng tuyển sinh tại các đơn vị đào tạo y
tế (mỗi năm tăng 20-30% chỉ tiêu nhập học); đào tạo theo nhu cầu xã hội. Đối với các
tỉnh khó khăn đã tiến hành đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ. Các đơn vị (BV, YTDP)
liên doanh, liên kết đào tạo với các Trường, các Viện đại học, viện nghiên cứu nước
ngoài….công tác đào tạo diễn ra với nhiều hình thức và nội dung đào tạo đã góp phần
tăng số lượng và chất lượng cán bộ y tế. Các chương trình hợp tác quốc tế trong đào tạo
cũng được triển khai mạnh mẽ với nhiều nhà tài trợ như: WB, ADB, KFW, Chính phủ các
8
nước Nhật Bản, Pháp, Hoa Kỳ, Úc,… đã tạo điều kiện cho các cán bộ được tham quan và
học tập và đào tạo tại các nước có khoa học kỹ thuật phát triển. Sự hội
Công tác nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học, tiếp cận với các kỹ thuật y
học tiên tiến trên thế giới, được khuyến khích và có nhiều thành tựu nổi bật như: Ghép
gan tại bệnh viện Việt Đức, ghép tim tại bệnh viện Quân Y 103, TW Huế, Các kỹ thuật
chẩn đoán hình ảnh được ứng dụng rộng rãi không chỉ các bệnh viện Trung ương, khu
vực mà còn được trang bị cho tuyến tỉnh trong những năm qua như các máy như chụp cắt
lớp với số lớp ngày càng cao, máy cộng hưởng từ, các kỹ thuật hạt nhân trong điều trị ung
thư,…
4.3. Đổi mới trong đầu tư:
Tại Kết luận số 42-KL/TW của Bộ Chính trị về Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế
tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các đơn vị sự nghiệp y tế
công lập, trong đó nêu rõ Hệ thống y tế công lập phải giữ vai trò chủ đạo, đặc biệt trong
việc giữ vững định hướng công bằng hiệu quả, phát triển và đảm bảo an sinh xã hội. Vì
vậy, hệ thống y tế công lập phải được tiếp tục được mở rộng và phát triển. Nhà nước tiếp
tục tăng đầu tư, phát triển bệnh viện công, đổi mới cơ chế hoạt động của các bệnh viện
công để hoạt động ngày càng năng động, hiệu quả. Không cổ phần hoá bệnh viện công
lập hiện có; khuyến khích xã hội hoá, xây dựng và thành lập mới bệnh viện cổ phần, bệnh
viện liên doanh, cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện tư nhằm tăng thêm số lượng cơ sở cung
ứng dịch vụ và cơ sở dịch vụ y tế chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày
càng cao và đa dạng của nhân dân, tăng khả năng lựa chọn của người dân đối với các dịch
vụ y tế; vừa bảo đảm có đủ cơ sở cho người nghèo và các đối tượng chính sách được tiếp
cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế có chất lượng ngay từ tuyến ban đầu”.
Chính phủ Việt Nam cũng sửa đổi nhiều chính sách để khuyến khích đầu tư trong
lĩnh vực y tế. Theo đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế được áp dụng mức
thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời gian hoạt động, thay vì 28%. Doanh
nghiệp mới thành lập còn được miễn thuế tối đa 4 năm (thay vì 2 năm) và giảm 50% thuế
trong 9 năm tiếp theo. Một số loại dự án đầu tư, mở rộng, xây mới bệnh viện cũng được
ưu đãi hơn về mức vốn vay, tối đa tới 70% tổng vốn của dự án. Ngoài ra, theo cam kết
của Việt Nam khi gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch
vụ thông qua thành lập bệnh viện 100% vốn nước ngoài, liên doanh với đối tác Việt Nam
hoặc thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh [25].
4.3. Tác động HNQT đến hệ thống y tế :
* Các cơ sở y tế nhà nước
Số lượng cơ sở khám bệnh đều có sự ra tăng từ năm 2001-2010 với số lượng nhỏ.
Giai đoạn 2002-2006 tăng 181 cơ sở, giai đoạn 2007-2011 tăng 185 cơ sở. Các bệnh viện
được nâng cấp và được xây mới do vậy cả hai giai đoạn đều tăng (giai đoạn 2002-2006 là
156, giai đoạn 2007-2011 là 134). Số Phòng khám Đa khoa khu vực có xu hướng giảm rõ
rệt trong giai đoạn 2007-2011 (202 phòng), khi khi ở giai đoạn 2002-2006 giảm với số
lượng nhỏ (13 Phòng) điều này là do ở giai đoạn 2007-2011 nhiều phòng khám đã được
9
nâng cấp chuyển thành các bệnh viện. Các bệnh viện Đa khoa và phục hồi chức năng giai
đoạn 2002-2006 giảm 28 cơ sở, tuy nhiên giai đoạn 2007-2011 tăng 13 cơ sở, sự tăng này
do sự thay đổi mô hình dịch bệnh giữa hai giai đoạn. Các trạm y tế xã phường tăng lên
giữa hai giai đoạn là do việc tăng số đơn vị hành chính tuyến xã. Các Trạm Y tế cơ quan
xí nghiệp trong giai đoạn 2002-2006 có sự giảm 100 cơ sở. Điều này do sự nâng cấp một
số trạm y tế thành các Trung tâm y tế, bệnh viện chuyên ngành.
Bảng 2. Số cơ sở khám, chữa bệnh nhà nước qua các năm
Loại hình
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
TỔNG SỐ
3051
3095
3162
3149
3243
3232
3438
3460
3450
3467
3623
Bệnh viện
47
42
42
56
78
03
56
74
002
030
090
Phòng khám đa
khoa khu vực
860 912 930 881 880 847 829 781 682 622 627
Bệnh ĐD& PHCN
79
76
77
53
53
51
51
40
43
44
64
Trạm y tế xã,
phường
9903 10396 10448 10516 10613 10672 10851 10917 10979 11028 11730
Trạm y tế của cơ
quan, xí nghiệp
810 810 810 789 769 710 710 710 710 710 710
Cơ sở khác
74 59 55 54 50 49 41 38 34 33 74
Trong giai đoạn 2007-2011 số giường bệnh tăng 63,9 nghìn giường, trong khi giai
đoạn 2002-2006 con số này là 12,6 nghìn giường. Tỷ lệ giường bệnh tăng chủ yếu ở các
bệnh viện (88,4 nghìn giường từ 2001-2011), trong khi giường bệnh của các Phòng khám
đa khoa giảm do chuyển đổi hệ thống y tế địa phưng theo Nghị định 13/2005/NĐ-CP về
cơ cấu tổ chức các đơn vị tuyến huyện. Sự tăng nhanh các giường bệnh nhằm đáp ứng với
nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân [12][13] [14] [15] [16] [17] [18]
[19] [20] [21] [22].
Bảng 3 Số lượng cán bộ y tế trong các cơ sở nhà nước qua các năm.
Đơn vị tính: 1000 người
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Cán bộ ngành y
Bác sĩ
41,0
44,5
47,2
50,1
51,5
52,8
54,8
57,3
60,8
61,4
Y sĩ
50,9
50,6
48,7
49,2
49,7
48,8
48,8
49,8
51,8
52,2
Y tá
45,9
46,4
47,8
49,2
51,6
55,4
60,3
65,1
71,5
82,3
Nữ hộ sinh
14,5
15,4
16,2
17,5
18,1
19,0
20,8
23,0
25,0
26,8
Bác sĩ/vạn dân
5,2
5,6
5,8
6,1
6,2
6,3
6,5
6,7
7,1
7,1
Cán bộ ngành dược
Dược sĩ cao cấp
6,0
6,1
5,6
5,6
5,6
5,5
5,7
5,8
5,7
5,6
Dược sĩ trung cấp
8,5
9,0
9,7
9,1
9,5
10,8
12,4
13,9
15,9
17,9
Dược tá
9,6
9,6
9,4
7,9
8,1
7,9
8,5
8,6
8,1
7,2
10
Cán bộ y tế không ngừng tăng nhờ vào chủ trương, chính sách giáo dục, bên cạnh
đó, nhu cầu ngành y tế ngày càng tăng cao. Trong hai giai đoạn này, do đặc điểm của quá
trình hội nhập và phát triển kinh tế, sự gia tăng các công ty dược tư nhân và các công ty
dược nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đã làm cho số cán bộ dược mặc dù được đào tạo
nhiều hơn với chỉ tiêu đào tạo tại các trường đại học liên tục tăng hàng năm, nhưng cán bộ
dược sỹ lại có xu hướng giảm rõ rệt trong nhà nước, từ 6000 cán bộ dược sỹ đại học năm
2001 xuống còn 5.500 cán bộ năm 2006, đến năm 2010 con số này là 5600 cán bộ. Các
doanh nghiệp tư nhân đã thu hút được nhiều cán bộ có trình độ cao hơn do các sự hấp dẫn
của mức thu nhập và các chế độ tốt hơn khu vực công [12][13] [14] [15] [16] [17] [18]
[19] [20] [21] [22].
Phát triển ngành y tế, không chỉ là sự phát triển các kỹ thuật, dịch vụ khám, chữa
bệnh, mà bên cạnh đó, ngành y tế còn phải đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Khi
đời sống người dân được cải thiện, thì các dịch vụ điều dưỡng chăm sóc sức khỏe, dịch vụ
làm đẹp, chăm sóc y tế đòi hỏi cao hơn. Nếu trước thời kỳ hội nhập WTO giai đoạn 2002-
2006 tăng 9.500, trong khi đó giai đoạn 2007- 2010 tăng 22.000.
Như vậy, có sự chuyển biến số lượng cán bộ trong các giai đoạn, điều đó góp phần
điều chỉnh cơ cấu nguồn lực cho phù hợp với nhu cầu trong công tác chăm sóc sức khỏe
của người dân. Qua đó, cũng cho thấy cần thiết trong việc điều chỉnh kế hoạch phát triển
nguồn nhân lực dài hạn.
Bảng 4. Số giường bệnh cơ sở y tế công lập qua các năm
Đơn vị tính: Nghìn giường
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
TỔNG SỐ
185,759
192,6
192,9
196,3
197,3
198,4
210,8
219,8
232,9
246,3
262,3
Bệnh viện
106,452
114,4
117,3
124,3
127,0
131,5
142,8
151,8
163,9
176,6
194,852
Phòng khám đa
khoa khu vực
8,801 9,2 9,3 9,0 9,3 9,3 9,2 8,7 8,1 7,7 7,268
Bệnh viện điều
dưỡng và phục
hồi chức năng
13,924 10,7 10,8 8,0 7,7 4,4 4,4 4,3 4,9 5,0 6,545
Trạm y tế xã,
phường
44,358 47,9 45,1 44,6 45,8 46,1 47,3 48,0 49,4 50,3 49,5
Trạm y tế của cơ
quan, xí nghiệp
8,3 8,3 8,3 8,2 5,4 5,0 5,0 5,0 5,0 5,0 NA
Cơ sở khác
2,2
2,1
2,1
2,2
2,1
2,2
2,1
2,0
1,6
1,7
NA
Giường bệnh tính
bình quân cho 1
vạn dân (Giường)
23.61 24,2 23,8 23,9 23,9 23,8 18,8 19,6 20,7 22,0 22,5
Như vậy, mặc dù số lượng các cơ sở y tế không có sự gia tăng nhiều, nhưng số
giường bệnh lại tăng lên một cách đáng kể. Tỷ lệ tăng số giường bệnh giai đoạn 2007-
2011 gấp gần 4 lần giai đoạn 2002-2006. Sự gia tăng số giường bệnh này có thể được giải
11
thích do sự gia tăng đầu tư cho y tế qua các năm cũng như nhu cầu người bệnh. Việc tăng
đầu tư trong giai đoạn 2007-2011 do đổi mới cơ chế chính sách đóng góp các khoản phí,
viện phí và các chính sách thu hút đầu tư cho y tế. Những chính sách này đảm bảo sự phù
hợp với nhu cầu của người dân và giảm tải các gánh nặng ngân sách quốc gia đảm bảo sự
hội nhập thế giới khi gia nhập WTO [12][13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22].
* Mạng lưới y tế tư nhân
Trong giai đoạn 2007 đến 2011 cũng là giai đoạn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ
của các phòng khám, bệnh viện tư nhân. Trước năm 2006, cả nước chỉ có 35 bệnh viện tư,
đến năm 2007, có 44 bệnh viện tư nhân hạng II, và đến năm 2011, cả nước có 132 bệnh
viện tư nhân đang hoạt động, tập trung nhiều nhất ở thành phố Hồ Chí Minh (30 bệnh
viện), Hà Nội (12 bệnh viện) gồm 30 bệnh viện chuyên khoa, 67 bệnh viện đa khoa tại
trên 30/63 tỉnh thành. Ngoài ra, thời gian qua Cục Quản lý khám chữa bệnh đã cấp mới và
gia hạn giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y tư nhân cho 48 bệnh viện và phòng
khám có vốn đầu tư nước ngoài; cấp và gia hạn chứng chỉ hành nghề y tư nhân cho 338
bác sĩ là người đứng đầu bệnh viện; đồng ý về chủ trương 81 dự án thành lập bệnh viện
với tổng số 20.028 giường bệnh. Các bệnh viện tư nhân đóng góp 6.210 giường bệnh,
chiếm 3,7% so với tổng số giường bệnh viện công lập, đạt 0,7 giường bệnh trên 10.000
dân. Trung bình có 28 người hành nghề y tư nhân/100.000 dân. Gần 70% số bác sỹ hành
nghề y tư nhân là cán bộ nhà nước, chủ yếu hành nghề theo hình thức phòng khám
chuyên khoa ngoài giờ [28].
Sự phát triển mạnh mẽ mạng lưới y tế tư nhân trong giai đoạn 2006-2007 có được
là do có đầy đủ các văn bản pháp lý. Bên cạnh đó khi gia nhập WTO, giới tư nhân cũng
có khả năng tiếp cận được với các trang thiết bị, các loại thuốc đảm bảo tính cạnh tranh về
chủng loại, chất lượng và giá cả hợp lý và đó là điều kiện cho việc hình thành các cơ sở
khám, chữa bệnh tư nhân. Các cơ sở y tế tư nhân được hình thành trên cơ sở mục đích
nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho người dân, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ,
đảm bảo tính cạnh tranh với y tế công, bên cạnh đó giảm gánh nặng cho ngân sách y tế
nhà nước.
Các khung pháp lý cho việc hình thành pháp triển mạng lưới y tế tư nhân bao gồm:
Pháp lệnh y tế tư nhân số 07/2003/PL-UBTVQH11 được Ủy ban thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 25/2/2003, tiếp đó Chính phủ thông qua Nghị định số 103/2003/NĐ-CP
ngày 12/9/2003, Bộ Tài chính có Quyết định số 44/2005/QĐ-BTC, ngày 12/07/2005 Về
việc quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định kinh doanh thương mại
có điều kiện thuộc lĩnh vực y tế, phí thẩm định tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề y, dược,
lệ phí cấp giấy phép xuất, nhập khẩu và cấp chứng chỉ hành nghề y, dược. Đến 25/5/2007
Bộ Y tế ban hành thông tư số 07/2007/TT-BYT hướng dẫn về hành nghề y, y dược cổ
truyền và trang thiết bị y tế tư nhân. Sự đầy đủ cơ sở pháp lý là cơ sở hình thành và phát
triển mạng lưới y tế tư nhân trong giai đoạn 2007-2011. Theo Cục Quản lý khám chữa
bệnh trong vòng hai năm kể từ năm 2008 đến 2010, tổng số bệnh viện tư nhân trên cả
nước đã tăng lên đáng kể, góp phần giảm tải cho các bệnh viện công
12
II. QUAN HỆ GIỮA HNQT VÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ Y TẾ
Việc hội nhập WTO nghĩa là Việt Nam sẽ phải thực hiện các cam kết, từ đó thay
đổi các chính sách về kinh tế, xã hội tạo ra những chuyển biến đối với xã hội trong đó có
việc thay đổi về đời sống người dân và hệ thống cung cấp dịch vụ y tế.
Biểu 4 Những tác động hội nhập WTO đối với sức khỏe người dân
Thực hiện việc hội nhập WTO làm thay đổi chính sách tác động đến sự tăng
trưởng kinh tế từ đó làm thay đổi thu nhập, sự chuyển biến các dịch vụ, các phúc lợi xã
hội và dịch vụ y tế, các điều kiện sống như dinh dưỡng, nhà ở, phương tiện giao
thông,…từ đó làm thay đổi sức khỏe của người dân. Thu thập cao cũng là điều kiện để
người dân có thể sẵn sàng tiếp cận các dịch vụ y tế.
Thay đổi cơ cấu kinh tế cũng là những điều kiện làm thay đổi cơ cấu ngành nghề,
thay đổi các chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Từ đó tác động lên sự thay đổi mô hình dịch
bệnh. Các ngành nghề thay đổi làm chuyển biến các bệnh nghề nghiệp và các bệnh liên
quan đến nghề nghiệp. Tăng hay giảm một số hàng hóa làm tăng nguy cơ tiếp xúc với yếu
tố bệnh, hay làm tăng sức khỏe con người. Một số hàng hóa có các nguy cơ nhất định nếu
được phơi nhiễm qua việc sử dụng sẽ gây ra tình trạng bệnh. Một số hàng hóa nhập khẩu
từ nước ngoài cũng có chứa các yếu tố độc hại, các mầm bệnh truyền nhiễm.
Điều kiện sống (dinh
dưỡng, nhà ở…)
THỰC HIỆN CAM
KẾT HỘI NHẬP
WTO
Chính sách
Hợp tác trong xu thế
toàn cầu hóa
Kinh tế
Thuốc, TTB
hiện đại
Đầu tư hệ
thống y tế
Thu nhập
Dịch vụ và
phúc lợi xã hội
Các loại hình
dịch vụ y tế
Công nghệ
Nguy cơ bệnh, tật
Khả năng tiếp dịch
vụ cận y tế
SỨC KHỎE
NGƯỜI DÂN
CHẤT LƯỢNG Y TẾ
13
Khi nền kinh tế phát triển hay suy thoái do tác động của việc hội nhập thì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến ngân sách và tài khoản quốc gia. Qua đó ảnh hưởng đến việc phát
triển đến ngân sách đầu tư cho y tế. Từ đó làm thay đổi các dịch vụ y tế, thay đổi các kỹ
thuật y học. Từ đó làm thay đổi chất lượng dịch vụ y tế, dịch vụ y tế thay đổi tác động lên
sức khỏe của người dân.
Gia nhập WTO chúng ta phải cam kết việc đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cho các
sản phẩm và hàng hóa, công nghệ. Điều đó là cơ sở cho việc đảm bảo các quyền sở hữu
trí tuệ trong nước, thúc đẩy các nghiên cứu phát triển khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, nó
cũng đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý. Gia nhập WTO, cũng là cơ sở cho
việc trao đổi, mua bán các sản phẩm khoa học, công nghệ. Sự thay đổi công nghệ cũng là
điều kiện cho việc phát triển và ứng dụng các kỹ thuật y học hiện đại. Từ đó làm thay đổi
chất lượng cuộc sống cho người dân.
Gia nhập WTO cũng đồng thời với việc nảy sinh các vấn đề mang tính toàn cầu
hóa như chất lượng sản phẩm hàng hóa, các điều kiện hàng hóa trong đó có các điều kiện
trong vai trò bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng (như lượng hóa chất hay thành phần một
chất giới ở một mức nào đó), các điều kiện về kiểm dịch, kiểm nghiệm.
WTO cũng thúc đẩy các nước cùng nhau hợp tác giải quyết các vấn đề thảm họa tự
nhiên (lũ lụt, thiên tai, núi lửa…), các vấn đề về tranh chấp giữa các quốc gia và đóng vai
trò hòa bình, ổn định, phát triển. Gia nhập WTO còn thúc đẩy tiến trình hợp tác giải quyết
nghèo đói, các vấn đề về nhân quyền và tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội
dân sự. Qua đó ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
III. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ Y TẾ
1. Các công nghệ, kỹ thuật hiện đại được ứng dụng rộng rãi
Ở giai đoạn 2007-2011, Chất lượng KCB ở các cơ sở y tế các tuyến, đặc biệt là
tuyến TW và ở các thành phố ngày càng được nâng cao. Một số kỹ thuật mới, tiên tiến đã
được thực hiện thành công và trở thành thường quy trong nhiều bệnh viện như ghép thận,
ghép gan, thụ tinh trong ống nghiệm, phẫu thuật tim hở, thông/nong mạch vành, mổ nội
soi, ghép xương, ghép tuỷ, phẫu thuật mạch máu, thay ổ chỏm khớp, lọc máu, tán sỏi
ngoài cơ thể Nhiều kỹ thuật cao đã được thực hiện ngay tại tuyến tỉnh như: MRI, CT
scanner lớp cắt, chụp mạch xoá nền, sinh hoá, huyết học, truyền máu, vi sinh vật; Y học
hạt nhân, laser những kỹ thuật này cách đây 5 năm vẫn còn là một điều mới mẻ. Riêng
năm 2011 một số kỹ thuật mới đã được các bệnh viện đưa vào ứng dụng, điển hình như:
thay khớp háng toàn phần; Cố định gãy diện vuông trong gãy ổ cối bằng nẹp uốn gấp góc,
đặt máy hỗ trợ tâm thất trái; đặt Stent động mạch chủ bụng…[34].
Những thành tựu trên đạt được là do có sự đầu tư trang thiết bị và các kỹ thuật y
học. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì các hàng rào thuế quan được gỡ bỏ hoặc miễn
giảm. Các hàng hóa nước ngoài có điều kiện hội nhập và cạnh tranh với hàng hóa nội địa.
Trên cơ sở đó, các cơ sở y tế dễ dàng tiếp cận được với các trang thiết bị hiện đại mà
14
trước đó không có. Bên cạnh đó, công tác chuyển giao công nghệ cũng được đẩy mạnh
trong giai đoạn này. Các nước có cơ hội hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật trong y
học. Trong nước công tác chỉ đạo tuyến, đào tạo tại chỗ, luân phiên cán bộ chuyển giao
kỹ thuật cho tuyến dưới, nhất là trong lĩnh vực ngoại khoa, cấp cứu đã giúp các bệnh viện
tuyến tỉnh nâng cao được chất lượng chẩn đoán, điều trị. Trong giai đoạn này đã thực hiện
Đề án 1816, kết quả đạt được là các Bệnh viện tuyến trên đã chuyển giao hơn 650 kỹ
thuật thuộc 26 chuyên ngành và 500 lớp tập huấn mỗi năm cho tuyến dưới. Trên 80%
bệnh viện tuyến dưới đã tiếp nhận và thực hiện được kỹ thuật mới sau khi chuyển giao;
15% cần đào tạo thêm và khoảng 5% không đủ khả năng tiếp thu kỹ thuật chuyển giao.
Tăng cường chuyển giao kỹ thuật, ứng dụng khoa học, công nghệ là những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo sự hội nhập quốc tế và đáp ứng với nhu cầu
khám, chữa bệnh của người dân [34].
2. Quá tải bệnh viện ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ
Mặc dù số cơ sở y tế, cơ sở vật chất, nhân lực cho ngành y tế không ngừng tăng lên
qua các năm nhưng vấn đề quá tải bệnh viện vẫn còn tồn tại và cần được sự giải quyết.
Tình trạng quá tải bệnh viện đã có từ trước đó, tuy nhiên tỷ lệ bệnh viện quá tải còn thấp.
Trong thời kỳ hội nhập WTO khi mà chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng cao,
người dân có nhận thức cao hơn về nhu cầu chăm sóc sức khỏe, có xu hướng lựa chọn
dịch vụ tốt nhất. Đồng thời điều kiện giao thông đi lại, thông tin thuận tiện, người dân có
xu hướng tìm nơi cung cấp dịch vụ có chất lượng tốt hơn. 75% người bệnh đến khám tại
các bệnh viện tuyến trên là người bệnh vượt tuyến, trong khi 56% số người bệnh đó là
hoàn toàn có thể khám chữa bệnh tại tuyến dưới; 50% số người bệnh điều trị nội trú ở
tuyến trên là người bệnh tự vượt tuyến. Tâm lý của người bệnh luôn coi trọng uy tín,
chuyên môn, kỹ thuật của tuyến trên; 50-80% người bệnh vượt tuyến ở các bệnh viện
tuyến trên là do người bệnh tin tưởng vào uy tín của bệnh viện tuyến trên [24].
Thống kê giai đoạn 2007-2011 tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương
đang xu hướng gia tăng, công suất sử dụng giường bệnh chung của các bệnh viện trung
ương năm 2009 là 116% tăng lên 120% năm 2010 và 118% năm 2011. Trầm trọng hơn cả
là các bệnh viện: K: 249%; Bạch Mai: 168%; Chợ Rẫy 154%; Phụ sản Trung ương
124%, Trong những bệnh viện trên, tình trạng quá tải diễn ra không đồng đều giữa các
chuyên khoa, một số chuyên khoa có mức độ quá tải cao hơn cả là: Khoa ung bướu, tim
mạch, chấn thương chỉnh hình, sản, nhi. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến tỉnh
cũng ở mức tương đối cao, công suất sử dụng giường bệnh chung của các bệnh viện đa
khoa và chuyên khoa tuyến tỉnh năm 2011 là 114% [24].
Nếu phân theo chuyên khoa thì Bệnh viện chuyên khoa ung bướu; chuyên khoa
chấn thương chỉnh hình; bệnh viện tim mạch có tỷ lệ quá tải cao nhất, xuất hiện ở 100%
số bệnh viện; Bệnh viện chuyên khoa sản, nhi có tới 70% số bệnh viện bị quá tải;Bệnh
viện đa khoa có tới 36,8% số bệnh viện bị quá tải.Tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến
trung ương còn xảy ra trong lĩnh vực khám bệnh, tỷ lệ khám bình quân của một bác sĩ trên
ngày vượt quá cao so với định mức mà Bộ Y tế đề ra như: Bệnh viện Bạch Mai trung bình
15
50-55 người bệnh/ bác sĩ/ngày; bệnh viện Chợ Rẫy trung bình 55-60 người bệnh/ bác sĩ/
ngày…[24]
Tại Hà Nội tình trạng quá tải diễn ra liên tục từ nhiều năm tại hầu hết các bệnh
viện của thành phố, năm sau cao hơn năm trước mặc dù các bệnh viện đã khắc phục bằng
cách kê thêm giường bệnh từ 50-100% so với giường bệnh kế hoạch. Một số bệnh viện
có mức độ quá tải cao như: bệnh viện Phụ Sản Hà Nội (công suất sử dụng giường bệnh:
230%), bệnh viện huyện Mê Linh (159,8%), bệnh viện Ung bướu Hà Nội (158,8%), bệnh
viện Đức Giang (148%), bệnh viện Xanh Pôn (145,8%), bệnh viện Thanh Nhàn (125,4%),
bệnh viện Sóc Sơn (141%), bệnh viện huyện Hoài Đức (121%), bệnh viện huyện Thanh
Oai (119%) [24].
Tại Thành phố Hồ Chí Minh theo thống kê chưa đầy đủ, số lượng bệnh nhân từ các
tỉnh đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện lớn của thành phố chiếm tỉ lệ 30% - 40%. Tình
trạng quá tải diễn ra ở hầu hết các bệnh viện tuyến thành phố. Đối với các bệnh viện đa
khoa, công suất sử dụng giường bệnh cao nhất là tại bệnh viện nhân dân 115 (113%);
bệnh viện Nhân dân Gia Định (106%); bệnh viện cấp cứu Trưng Vương (104%). Đối với
các bệnh viện chuyên khoa, công suất sử dụng giường bệnh cao nhất là tại bệnh viện Ung
bướu (247%); bệnh viện Phụ sản Từ Dũ (126%); bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình
(129%); bệnh viện Nhi Đồng 1 (123%); bệnh viện Nhi đồng 2 (123%) [24].
Ngược lại với tình trạng quá tải bệnh viện, tình trạng bệnh viện hoạt động dưới tải
cũng xảy ra tương đối phổ biến ở cả tuyến tỉnh và tuyến huyện.Bệnh viện tuyến tỉnh có
tới 24,4% tổng số bệnh viện có công suất sử dụng giường bệnh dưới 85%, xuất hiện chủ
yếu ở các Vùng: Tây Bắc, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên. Bệnh viện tuyến huyện có tới
29,5% tổng số bệnh viện có công suất sử dụng giường bệnh dưới 85%. Xuất hiện chủ yếu
ở các Vùng: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ [24].
IV. TÁC ĐỘNG ĐẾN LĨNH VỰC Y TẾ KHI HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Tác động mô hình bệnh, tật
Các tác động trong việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO có thể theo 02 chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Gia nhập WTO có thể là tăng chất lượng các dịch vụ y tế qua
việc tăng khoa học công nghệ, thuốc, tăng các dịch vụ y tế và khả năng tiếp cận của người
dân và tăng các điều kiện sống đồng thời cũng làm tăng các nguy cơ dịch, bệnh từ các
hàng hóa có nguy cơ khó kiểm soát được do thiếu năng lực, trang thiết bị kiểm dịch, hay
các tiêu chuẩn. Việt Nam đã chính thức mở cửa và hội nhập kinh thế thế giới từ những
năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ 20, tuy nhiên việc gia nhập WTO là bước tiến quan
trọng trong tiến trình hội nhập. Cùng với các thành tựu của các chính sách khác do chính
phủ thực hiện và việc hội nhập đã tăng cường mức sống và tuổi thọ của người dân.
Cùng với thay đổi chất lượng cuộc sống, sự cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, thì mô hình bệnh tật cũng có những biến đổi nhất định. Nhìn chung trong các giai
đoạn thì số ca mắc và số ca tử vong do các bệnh có xu hướng giảm. Các dịch bệnh lây có
xu hướng giảm về tỷ lệ nhưng lại gia tăng số ca tử vong. Số liệu giai đoạn 2002-2006 tỷ
16
lệ số ca dịch lây giảm 2,22%, giai đoạn 2007-2010 tỷ lệ này giảm 5,12% . Số ca tử vong
giai đoạn 2002-2006 giảm 4,97%, tuy nhiên số ca tử vong giai đoạn 2007-2010 lại gia
tăng là 16,85%. Điều này có thể được giải thích là trong giai đoạn 2007-2010, điều kiện
sống người dân có sự tăng lên đáng kể, bên cạnh đó công tác phòng chống dịch, bệnh
cũng được đẩy mạnh, do vậy giảm số ca mắc bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, việc hội
nhập cũng làm tăng nguy cơ một số bệnh lây truyền qua biên giới, đặc biệt một số bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm như: Cúm A (H5N1), Cúm A (H1N1), tả, điển hình là bệnh
cúm A (H1N1) với tốc độ lây lanh nhanh chóng .
Bảng 5. Xu hướng thay đổi mô hình bệnh, tật
Loại dịch bệnh
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Dịch lây
Mắc 27,16 27,44 26,13 25,18 24,94 25,73 25,15 22,90 19,82
Chết 18,20 17,42 17,00 16,53 13,23 15,41 17,23 14,08 30,08
Bệ
nh không
lây
Mắc 63,65 60,61 60,81 62,16 62,40 60,65 63,14 66,32 71,56
Chết 63,28 59,12 57,91 61,14 61,62 60,13 60,02 63,34 45,50
Tai nạn, ngộ
độc, chấn
thương
Mắc 9,18 11,95 13,06 12,65 12,66 13,62 11,72 10,78 8,63
Chết 18,52 23,46 25,09 22,33 25,15 24,47 22,75 22,58 24,42
Các bệnh không lây có xu hướng gia tăng về số mắc và giảm số lượng tử vong,
giai đoạn 2002-2006 tỷ lệ mắc giảm 1,25%, tỷ lệ tử vong giảm 1,66%, tuy nhiên đến giai
đoạn 2007-2010 tỷ lệ mắc tăng 10,91%, tử vong giảm 14,63%. Như vậy trong hai giai
đoạn này có sự khác biệt rõ ràng về xu hướng các bệnh không lây. Lý giải sự khác biệt
này, có thể thấy trong giai đoạn 2007-2010 có sự cam kết gia nhập WTO, do vậy các hàng
hóa như trang thiết bị, công nghệ, hiện đại từ các nước tiên tiến có thể dễ dàng mua được
(ví dụ như máy CT-scanner với số lớp cắt nhiều hơn, máy cộng hưởng từ…) công tác
chẩn đoán nhờ vậy có thể phát hiện được nhiều hơn các ca bệnh. Việc mở cửa hội nhập
WTO cũng tạo ra một thời kỳ với nhiều cơ hội và thách thức cho giới trẻ, những suy nghĩ,
thói quen công việc cũng là những nguy cơ gia tăng các bệnh không lây nhiễm (tiểu
đường, tim mạch, ung thư, tâm thần,…). Sự phát hiện sớm và điều trị kịp thời cũng là
nguyên nhân giảm số ca tử vong giai đoạn 2007-2011 nhiều hơn giai đoạn 2002-2006
[12][13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22]
Tai nạn, ngộ độc, chấn thương có xu hướng gia tăng số ca mắc và tử vong trong
giai đoạn 2002-2006 tuy nhiên lại giảm đi trong giai đoạn 2007-2010. Điều này do Chính
phủ đã có những khung pháp lý tốt hơn trong việc phòng, chống tai nạn, ngộ độc, chấn
thương. Bên cạnh đó khi gia nhập WTO, chúng ta phải thực hiện chuẩn hóa quy trì sản
17
xuất, chuẩn hóa sản phẩm về thực phẩm, chuẩn hóa các sản phẩm là phương tiện, hay các
trang thiết bị cũng làm giảm số ca mắc và tử vong về tai nạn, ngộ độc, chấn thương.
2. Tăng nguồn ngân sách cho y tế
Y tế vốn được coi là ngành có tính chất sự nghiệp công, nhà nước bao cấp là chủ
yếu. Tổng chi hàng năm kinh phí dành cho y tế qua các từ 2002 đến 2006 tăng 16,5 nghìn
tỷ, tuy nhiên từ năm 2007 đến 2010 tổng chi hàng năm đã tăng gần 38 nghìn tỷ. Điều này,
được giải thích do quá trình hội nhập và phát triển kinh tế giai đoạn 2007-2010, ngành Y
tế đã tranh thủ được nhiều nguồn thu khác nhau để phát triển hệ thống y tế, hơn nữa giai
đoạn 2007-2010 có nhiều biến đổi về giá cả thị trường trong đó có cả yếu tố lạm phát.
Bảng 6. Chi cho y tế qua các năm
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Tổng chi
Chi đầu tư phát triển
Chi cho sự nghiệp
2002
8.286,00
1.680,00
6.438,36
2003
10.181,00
1.684,00
8.305,90
2004
13.723,70
2.440,70
11.062,27
2005
18.209,30
3.458,75
14.317,85
2006
24.694,18
5.063,00
19.100,36
2007
31.841,16
6.050,00
24.781,66
2008
43.048,20
11.530,00
30.580,40
2009
60.135.15
12.542,00
47.057,22
2010
69.563.22
12.183,00
56.740,80
Tuy nhiên, nếu tính tỷ lệ nguồn kinh phí được cấp cho ngành y tế trên tỷ lệ chi tiêu
công thì giai đoạn 2002 đến giai đoạn 2007 có xu hướng giảm mạnh [12][13] [14] [15]
[16] [17] [18] [19] [20] [21] [22].
Biểu 5. Cơ cấu đầu tư phát triển y tế trên tổng chi tiêu công qua các năm
10.98
15.69
13.94
13.77
7.6
8.86
8.1
6.9
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
%
18
Trong giai đoạn 2007-2010, đời sống và thu nhập của người dân ngày càng được
nâng cao thì vấn đề nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng cao. Do vậy,
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 18/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 trong đó Tăng tỷ
lệ chi ngân sách hằng năm cho sự nghiệp y tế, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn
tốc độ tăng chi bình quân chung của ngân sách nhà nước[12][13] [14] [15] [16] [17] [18]
[19] [20] [21] [22].
Bảng 7. Nguồn ngân sách nhà nước hàng năm chi cho y tế
Tổng NS
NN cấp
Khám chữa
bệnh
Phòng
bệnh
Sự nghiệp
khác
BHYT đối
tượng chính
sách
Chi
CTMT
2002
4.213,36
440,87
2003
5.595,90
455,00
2004
5.887,27
540,00
2005
8.144,98
4.228,12
1.868,99
462,75
890,11
695,01
2006
9.303,14
5.127,67
1.735,63
643,94
1.025,90
770,00
2007
11.929,66
6.747,00
2.293,79
786,87
1.102,00
1.000,00
2008
15.066,99
8.363,31
2.951,76
983,92
1.053,00
1.715,00
2009
23.432,00
9.739,12
3.779,36
1.017,52
6.737,82
2.158,40
2010
29.796,45
11.708,01
4.782,14
1.047,40
9.813,90
2.445,00
Kết quả thực hiện Nghị quyết 18/2008/QH12 là có sự đột biến trong việc tăng
mạnh ngân sách hàng năm cấp cho y tế trong giai đoạn 2008-2010. Trong đó ngân sách
cho y tế dự phòng đã tăng mạnh, đảm bảo chi cho y tế dự phòng đạt không dưới 30% tổng
ngân sách y tế. Từ đó, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt được những kết quả tốt
trong thời kỳ hội nhập .
3. Thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực y tế
Sự hội nhập quốc tế trong đó đặc biệt là hội nhập WTO đã và đang mang lại nhiều
cơ hội đồng thời những thách thức cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Cùng với tiến trình
hội nhập quốc tế, ngành y tế cũng đã có sự chuyển biến trong việc thu hút vốn đầu tư từ
nước ngoài. Thực tế, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong lĩnh
vực đầu tư, trong đó có đầu tư về y tế. Đó chính là môi trường thuận lợi cho các nhà đầu
tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhận được nhiều ưu đãi trong các khoản vay,
viện trợ từ nước ngoài.
19