Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiể uluận lý luận hình thái kinh tế xã hội và việc vận dụng lý luận trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.44 KB, 24 trang )

Trang 1
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin thì hình thái kinh tế - xã hội
là một lý luận chiếm vị trí quan trọng. Lý luận này không có chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn giá trị về mặt thực tiễn. Nếu như các tư tưởng lịch sử trước Mác khi
nghiên cứu các vấn đề xã hội tiếp cận từ góc độ nhân tố tinh thần như: đạo đức,
niềm tin, tôn giáo, chính trị… để giải thích đời sống xã hội thì C. Mác và
Ph.Ăngghen đã bắt đầu nghiên cứu xã hội bằng việc xem xét yếu tố con người cụ
thể, hiện thực, hiện đang sống đời sống thực trong từng xã hội cụ thể; phân tích một
cách khoa học các mối quan hệ của tất cả các lĩnh vực, các mặt đời sống xã hội;
phát hiện các quy luật cơ bản chi phối sụ vận động, phát triển của xã hội. Trên cơ sở
đó, ông đã đi tới khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Lý luận
này đã chỉ rõ được quy luật vận động và phát triển của xã hội. Học thuyết này đã
vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội, chỉ ra được bản chất
của từng chế độ xã hội, là cơ sở ỉý luận cho đường lối cách mạng của giai cấp vô
sản và quần chúng lao động trong xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Lý luận này đã
trang bị cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển xã hội qua
các chế độ khác nhau, qua đó giúp cho chúng ta hiểu được cơ cấu chung của hình
thái kinh tế - xã hội là những quy luật phổ biến chi phối sự vận động và phát triển
của xã hội.
Vào giữa thế kỷ XX, khi chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng trầm trọng
dẫn đến sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong khi đó chủ nghĩa Tư bản
lại đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; cũng như các
mặt về đời sống xã hội thì xuất hiện nhiều quan điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội, lý
tưởng hóa chủ nghĩa tư bản. Những quan điểm phủ nhận này không phải chỉ từ phía
kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn có cả một số người đã từng theo chủ nghĩa Mác.
Họ cho rằng chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại hiện nay và phải thay thế nó
bằng lý thuyết các nền văn minh. Vậy thực tế lý luận Hình thái kinh tế - xã hội của
chủ nghĩa Mác có thật sự đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại ngày nay hay
Trang 2


không? Cần thiết phải có một lý luận mới khoa học hơn, phù hợp với thời đại mới
để thay thế hay không? Hiện tại khi đất nước ta từ khi giành độc lập dân tộc đã,
đang và sẽ tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa thì sự vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác như thế nào để đạt được nhiệm vụ
thực tiễn đặt ra hay chúng ta sẽ xây dựng đất nước theo một con đường khác?
Chính vì một số vấn đề đặt ra như trên thì việc nghiên cứu đề tài “ Lý luận
hình thái kinh tế - xã hội và việc vận dụng lý luận trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” có ý nghĩa thiết thực về cả lý luận và thực tiễn.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một lý luận quan trọng, có ý nghĩa thiết
thực về lý luận và thực tiễn nên có nhiều tác giả nghiên cứu. Có các nghiên cứu
được biên soạn thành sách, có nghiên cứu được đăng tải trên mạng. Sau đây em xin
liệt kê một số bài viết trong số các bài viết nghiên cứu về vấn đề này mà em có cơ
hội tiếp cận:
• Công nghiệp hóa nhìn từ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất (TS Lưu Hà Vĩ).
• Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu về năng lực sáng tạo của
con người (TS Nguyễn Ngọc Thu).
• Nhân tố người lao động trong cấu trúc của lực lượng sản xuất (PGS.TS Trương
Giang Long).
• Về thực chất của bước chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (TS.
Nguyễn Hữu Vượng).
• Các bài tiểu luận nghiên cứu trên mạng…
III. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Từ việc nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội với các mặt cơ bản, mối
quan hệ biện chứng giữa các mặt cơ bản để giải thích được lý do Đảng và nhà nước
Việt Nam kiên định theo con đường Xã hội Chủ nghĩa. Đồng thời minh chứng được
công cuộc đẩy mạnh Công nghiệp hóa – hiện đại hóa và xây dựng nhà nước Pháp
Trang 3
quyền XHCN là sự lựa chọn đúng đắn và vận dụng hợp lý học thuyết của Chủ nghĩa

Mác vào đặc điểm riêng của nước ta.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Để có thể hoàn thành tốt đề tài này em đã dựa trên quan điểm của Mác về học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự hướng dẫn của PGS –
TS – GVCC Nguyễn Thế Nghĩa, các bài nghiên cứu về Chủ Nghĩa Mác, con đường
quá độ đi lên CNXH của các tác giả…
V. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, đề tài gồm Hai nội dung chính. Hai nội dung
chính này được nghiên cứu theo từng mục nhỏ, cụ thể như sau:
• Chương I: Khái quát chung về Hình thái Kinh tế - Xã hội
 I> Những tiền đề xuất phát để Mác xây dựng lý luận Hình thái kinh tế - xã hội.
 II> Phạm trù Hình thái kinh tế - xã hội và Phép biện chứng trong sự vận động, phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
 III> Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã
hội.
• Chương II: Vận dụng lý luận Hình thái kinh tế - xã hội vào quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
 I> Việc lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
 II> Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng CNXH.
 III> Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
 IV> Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội.
PHẦN 2: NỘI DUNG
Trang 4
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI.
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT PHÁT ĐỂ MÁC XÂY DỰNG HÌNH THÁI KINH
TẾ XÃ HỘI.
Việc nhận thức, nghiên cứu, đánh giá các vấn đề lịch sử thường khó khăn và
phức tạp hơn so với các vấn đề tự nhiên do đời sống lịch sử gồm các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, chính trị, văn hóa .v.v…và mọi sự biến đổi của lịch sử, xã hội luôn gắn

liền với cái chủ quan và lợi ích của con người. Điều này cũng đã giải thích vì sao
trước Mác tồn tại nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá về các vấn đề của đời
sống xã và các quan điểm này thường mang tính duy tâm. Mặc dù các quan điểm
này khác nhau về mặt chi tiết nhưng khi xem xét điểm chung trong cách tiếp cận
các vấn đề xã hội thì có hạn chế chung là các họ tiếp cận các vấn đề xã hội từ góc
độ nhân tố tinh thần như: đạo đức, niềm tin, tôn giáo, chính trị….Điểm hạn chế này
biểu hiện tập trung trong triết học Đức đầu thế kỷ XX. C.Mác đã nhận định rằng,
các nhà triết học này đã “lấy sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà,
người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người ta biến
quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước”.
Từ việc phê phán quan điểm duy tâm trước Mác, Mác đã đưa ra một hướng tiếp
cận mới có tính khoa học và thuyết phục cao nhằm lý giải các các vấn đề của đời
sống xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu nghiên cứu các vấn đề xã hội bằng việc
xem xét yếu tố con người cụ thể, con người hiện thực, con người hiện đang sống
đời sống thực trong từng xã hội cụ thể. Mác viết: “Hoàn toàn khác với triết học
Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta đi từ dưới đất đi lên trời,
tức là chúng ta không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong
ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác để từ đó đi đến con
người bằng xương, bằng thịt; không, chúng ta xuất phát từ những con người đang
hành động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực
của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang
tư tưởng của quá trình đời sống ấy”. Tiếp tục từ quan điểm đúng đắn nêu trên, hai
ông đi đến việc xác định tiền đề đầu tiên của tất cả mọi sự tồn tại của con người, và
Trang 5
do đó, cũng là tiền đề của mọi quá trình lịch sử, đó là “người ta phải có khả năng
sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần
phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nưa. Như vậy, hành
vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy,
việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”. Ở đây hai ông đã thấy được mối quan
hệ giữa nhu cầu của con người và đời sống vật chất cũng như vai trò của nhu cầu

của con người đối với sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phát triển của toàn
thể xã hội. Nhu cầu của con người hình thành một cách khách quan trong đời sống
hiện thực của con người gồm nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần v.v… Khi con
người phát sinh nhu cầu thì họ sẽ tìm cách hoạt động để đáp ứng nhu cầu đó. Nhưng
nhu cầu của con người là vô tận, nhu cầu này được thỏa mãn thì lập tức sẽ xuất hiện
thu cầu mới, cứ thể con người tiếp tục hoạt động, phát triển và kéo theo sự phát
triển của cả xã hội.
Bên cạnh hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là hành vi lịch sử đầu tiên
của con người thì con người còn có những hoạt động sản xuất khác như: hoạt động
sản xuất tinh thần, hoạt động sản xuất ra bản thân con người cũng như các mối quan
hệ xã hội khác. Trong các hoạt động đó thì hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động
nền tảng, cơ sở cho toàn bộ đời sống xã hội, cũng là điểm đánh dấu sự khác biệt căn
bản giữa con người và con vật. C.Mác viết: “bản thân con người bắt đầu bằng tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của
mình. Do đó để nghiên cứu các mặt của đời sống xã hội để từ đó tìm ra các quy luật
vận động, phát triển khách quan của xã hội thì phải bắt đầu từ sản xuất vật chất của
con người hiện thực.
Khi nghiên cứu hoạt động sản xuất vật chất C.Mác phát hiện ra hai mặt không
tách rời nhau của quá trình này đó là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên biểu hiện ở lực lượng sản xuất còn quan hệ giữa
con người với con người được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Hai mặt này của sản
xuất vật chất tồn tại thống nhất với nhau tạo thành phương thức sản xuất. Chính sự
tác động qua lại lẫn nhau giữa hai mặt này trong một phương thức sản xuất tạo nên
Trang 6
quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Dựa trên cơ sở nghiên cứu hoạt động sản xuất vật chất, C. Mác đã tiếp tục
nghiên cứu các mặt khác của đời sống xã hội như: chính trị, pháp quyền, cũng như
biểu hiện của đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Từ đây ông đã dần dần phát
hiện tính quy luật trong các mối quan hệ chằng chịt giữa các lĩnh vực xã hội: cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã

hội; phương thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Chính sự tương tác giữa các lĩnh vực, các nhân tố xã hội đã làm cho xã hội vận
động và phát triển theo quy luật khách quan.
C.Mác khẳng định sự phát triển của xã hội là một quá trình khách quan, tuy
nhiên ông cũng khẳng định vai trò to lớn của nhân tố chủ quan là con người trong
sự phát triển khách quan ấy. Sự phát triển của lịch sử là kết quả của sự tương tác
biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan. Mặc dù nhân tố chủ quan là con
người không thể tạo ra hay xóa bỏ quy luật khách quan nhưng nhân tố chủ quan này
hoàn toàn nhận thức được và vận dụng quy luật khách quan vào hoạt động thực tiễn
của mình nhằm đạt được mục đích của mình. Nói tóm lại con người có thể đẩy
nhanh hoặc làm chậm lại sự phát triển của xã hội tùy thuộc vào khả năng nhận thức
và hoạt động vào thực tiễn của họ.
Như vậy, từ việc nhận định được vai trò quyết định của sản xuất vật chất,
C.Mác đã phân tích một cách khoa học và tìm ra mối quan hệ giữa các mặt của đời
sống xã hội, phát hiện ra các quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của xã
hội. Trên các cơ sở đó, ông đã khái quát hóa thành lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
II. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG
TRONG SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ -
XÃ HỘI.
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
ra xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và
Trang 7
với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản
xuất ấy.
1. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN
XUẤT.
• CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất: Là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở

từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội đều có một phương thức sản xuất đặc trưng. Phương thức sản xuất
đóng vai trò quyết định tới mọi mặt của đời sống xã hội. Sự phát triển và thay thế
lẫn nhau giữa các phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội.
Phương thức sản xuất gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Hai mặt
này tác động biện chứng lẫn nhau và quyết định sự vận động và phát triển của
phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất.
Là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật
chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố cơ bản: người lao động với sức mạnh về
thể lực, trí lực, kỹ năng lao động cụ thể và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao
động.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất vật chất. Nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong hoạt
động sản xuất vật chất, trong việc chinh phục tự nhiên.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì nhân tố người lao động có vai trò
quan trọng nhất, quyết định nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu. Với tư cách là chủ
thể của quá trình hoạt động thực tiễn nói chung, hoạt động sản xuất nói riêng thì
người lao động đã sử dụng và phát huy các đặc tính của tư liệu sản xuất mà trước
hết là công cụ lao động để tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều và chất lượng
ngày cao. Cùng với sự phát triển của xã hội thì chất lượng của người lao động cũng
Trang 8
ngày càng cao cả về thể lực, trí lực lẫn kỹ năng lao động. Thời đại ngày nay cùng
với sự phát triển của khoa học và công nghệ, vai trò của lao động trí tuệ ngày càng
đóng vai trò quyết định trong sản xuất.
Bên cạnh nhân tố người lao động, nhân tố công cụ lao động cũng có vai trò vô
cùng quan trọng trong lực lượng sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất do công cụ lao động không ngừng được
con người cải tiến, biến đổi và hoàn thiện dần trong quá trình sản xuất nhằm đáp

ứng nhu cầu tăng năng suất lao động. Sự thay đổi của công cụ lao động làm biến đổi
toàn bộ tư liệu sản xuất, qua đó biến đổi toàn bộ lực lượng sản xuất. Trình độ của
công cụ lao động chính là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là
tiêu chuẩn để phân biệt giữa các thời đại kinh tế trong lịch sử nhân loại.
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay thì vai trò của khoa
học đối với sự phát triển của sản xuất và xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Khoa
học đã thâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành “lực lượng sản xuất trực
tiếp”.
Quan hệ sản xuất.
Là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động làm
ra.
Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất.
Trong quan hệ sản xuất, ba mặt của nó thống nhất biện chứng với nhau, trong đó
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản và đặc trưng
của quan hệ sản xuất. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức, quản lý sản
xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
Trong lịch sử tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư
nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản
xuất tập trung trong tay một số ít cá nhân còn đa số người còn lại không có hoặc có
Trang 9
rất ít tư liệu sản xuất. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản xuất
thuộc về tất cả các thành viên trong xã hội.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có vai trò tác động trực tiếp tới sản xuất,
với tổ chức và điều khiển quá trình sản xuất. Nó bị quan hệ sở hữu quy định và phải
thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên trong thực tế cũng có trường hợp quan hệ
tổ chức và quản lý sản xuất không thích ứng với quan hệ sở hữu, trong trường hợp
đó quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động bị chi phối bởi quan hệ sở hữu về tư liệu

sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, tuy nhiên quan hệ này cũng có khả
năng tác động trở lại tới hai quan hệ kia bởi quan hệ này có tác động trực tiếp đến
lợi ích của con người.
Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại
gắn liền với nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong đó: lực lượng sản xuất là
nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất. Lực lượng sản xuất
thường xuyên biến đổi còn quan hệ sản xuất thì tương đối ổn định. Sự tác động biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất
nhất định đã tạo nên quy luật cơ bản nhất, phổ biến nhất của sự vận động và phát
triển của xã hội: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
• NỘI DUNG QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
Do nhu cầu khách quan của sự phát triển sản xuất, phát triển xã hội khiến con
người không ngừng cải tiến, đổi mới công cụ lao động làm cho công cụ lao động
không ngừng phát triển. Khi công cụ lao động phát triển, bản thân con người cũng
ngày càng phát triển tương ứng. Điều này dẫn đến của sự phát triển của toàn bộ lực
lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ phát
triển của nó. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được đo bằng trình độ của
công cụ lao động, trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao
động xã hội cũng như trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với trình
Trang 10
độ phát triển của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Tính chất của lực lượng sản
xuất biểu hiện tính chất của quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cũng như tính chất
của sự kết hợp giữa người lao động và công cụ lao động trong quá trình sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất là thủ công, phân công lao động xã hội còn thấp thì lực
lượng sản xuất chủ yếu mang tính cá nhân. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến
trình độ cơ khí hiện đại cũng như sự phân công lao động xã hội phát triển thì lực
lượng sản xuất có tính xã hội hóa.
Quá trình tồn tại, vận động và phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định

sự tồn tại, biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời
với tư cách là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất được xây
dựng phù hợp với trình độ phát triển hiện có lực lượng sản xuất. Ở thời điểm này,
các mặt của quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Tuy
nhiên, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển do đó đến một lúc nào đó khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không
còn phù hợp với lực lượng sản xuất, không còn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất
phát triển và trở thành “xiềng xích” và kìm hãm lực lượng sản xuất.
Nhu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến
việc thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới, tiên tiến hơn và
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế quan hệ sản xuất
này cũng đồng nghĩa với sự thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương
thức sản xuất mới. C.Mác viết “tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
lực lượng sản xuất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay –
đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó – mâu thuẫn với những
quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ
chỗ là các hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã
hội”.
Tuy lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất song bản thân quan hệ sản
xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sở dĩ
Trang 11
quan hệ sản xuất có thể tác động tới sự phát triển của lực lượng sản xuất bởi vì quan
hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp tới
thái độ của người lao động, đến tổ chức và phân công lao động xã hội v.v Khi
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó trở
thành động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngược lại, khi quan
hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất biểu hiện ở sự lạc hậu, lỗi thời
hay “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong trường hợp quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất thì quan hệ sản xuất này sẽ bị thay thế bởi quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Tuy nhiên quá trình thay thế này không diễn ra một cách giản đơn tự
phát mà phụ thuộc vào năng lực tự giác của chủ thể con người. Trong xã hội có giai
cấp, quá trình này diễn ra thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
2. BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG
TẦNG
• CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định.
Kết cấu của một cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể trừ xã hội nguyên thủy bao
gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ, quan hệ sản
xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong các quan hệ sản xuất đó thì quan hệ sản
xuất thống trị luôn giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác cũng như
quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội luôn được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống
trị của xã hội đó. Nếu xét sự tồn tại của quan hệ sản xuất trong một phương thức sản
xuất thì nó chính là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu xét quan hệ sản
Trang 12
xuất trong tổng thể các quan hệ xã hội khác thì nó lại trở thành cơ sở kinh tế của xã
hội, tức cơ sở hiện thực để trên đó hình thành một kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ các quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo… cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như: nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các tổ chức xã hội khác được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất
định.
Kết cấu của kiến trúc thượng tầng bao gồm nhiều yếu tố trong đó mỗi yếu tố
đều có những đặc điểm riêng, quy luật phát triển riêng. Trong quan hệ với cơ sở hạ

tầng, một mặt tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều hình thành và phát
triển trên cơ sở hạ tầng song mặt khác mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng lại có
một quan hệ cụ thể với cơ sở hạ tầng. Những yếu tố như chính trị, pháp quyền có
quan hệ trực tiếp còn các yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật… chỉ có quan hệ
gián tiếp với cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng luôn mang tính giai cấp, thể
hiện một cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng mà trong
đó đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị - tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong
kiến trúc thượng tầng thì nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất. Nhà nước không
chỉ biểu hiện cho chế độ chính trị của xã hội của một xã hội cụ thể mà nhờ có nhà
nước thì giai cấp thống trị mới có thể thực hiện được sự thống trị của mình đối với
tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh
tế - xã hội, chúng thống nhất biện chứng và tác động qua lại với nhau. Trong mối
quan hệ này, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng kiến trúc thượng
tầng cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng biểu
hiện:
Thứ nhất, mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành một kiến trúc thượng tầng tương ứng
với nó. Trong đó, tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc
Trang 13
thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giữ địa vị thống trị về kinh tế thì
cũng giữ địa vị thống trị về mặt chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu tranh về chính trị, tư
tưởng là biểu hiện của sự đối kháng kinh tế. Tất cả các yếu tố kiến trúc thượng tầng
đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, bị cơ sở hạ tầng quyết định.
Thứ hai, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng
thay đổi theo. Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không chỉ diễn ra trong giai
đọan thay thế giữa các hình thái kinh tế - xã hội mà còn diễn ra trong từng hình thái
kinh tế - xã hội. Mặt khác, trong một hình thái kinh tế xã hội, có những yếu tố thay
đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng, nhưng cũng có yếu tố thay

đổi chậm hơn. Đặc biệt, trong xă hội có giai cấp, sự thay đổi căn bản kiến trúc
thượng tầng phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Bản thân kiến trúc thượng tầng lại có tính độc lập tương đối trong sự vận động,
phát triển và có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Trong sự tác động này, mọi yếu tố
của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên sự tác động
của chúng là khác nhau. Đặc bịêt, trong xã hội có giai cấp, nhà nước là nhân tố tác
động mạnh nhất đến cơ sở hạ tầng, bởi vì nó chính là bộ máy quyền lực của giai cấp
thống trị về kinh tế. Dù sự tác động của các yếu tố kiến trúc thượng tầng đối với cơ
sở hạ tầng diễn ra với những xu hướng khác nhau; nhưng chức năng xã hội của kiến
trúc thượng tầng thống trị là duy trì, bảo vệ và củng cố cơ sở hạ tầng sinh ra nó,
chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ
làm suy yếu cơ sở hạ tầng. Do vậy, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở
hạ tầng cũng diễn ra theo hai hướng:
Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì nó trở
thành động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nếu kiến trúc thượng tầng không phù hợp với quy lụât kinh tế khách quan, thì
nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế, cũng như kìm hãm tiến bộ xã
hội. Tuy nhiên, trong trường hợp này, do tính quyết định cuối cùng vẫn thuộc về cơ
sở hạ tầng, cho nên, sớm muộn, bằng cách này hay cách khác cũng xuất hiện sự
Trang 14
thay thế kiến trúc thượng lạc hậu đó bằng một kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để
thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.
I. VIỆC LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ
TBCN.
Nước ta xây dựng CNXH không qua con đường TBCN mà thực hiện con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một
tất yếu lịch sử bởi vì:
Thứ nhất: Phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật

khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế- xã hội:
công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi
của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế- xã
hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế- xã hội trước nó. Sự biến đổi của các
hình thái kinh tế- xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mặc dù chủ nghĩa xã
hội bị khủng hoảng và sụp đổ nhưng đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội với tính cách là một xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản mà chỉ là sự sụp đổ của mô
hình. Đó là mô hình chủ nghĩa xã hội tập chung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa tư
bản mặc dầu chưa hết vai trò lịch sử, đã và đang đạt những thành tựu to lớn nhất là
khoa học và công nghệ nhưng những thành tựu do chủ nghĩa tư bản tạo ra đến lượt
nó lại trở thành cái phủ định chủ nghĩa tư bản và thay thế nó bởi một xã hội cao hơn
– chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai: con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản ở nước ta hoàn toàn
phù hợp với quan điểm của C.Mác về khả năng phát triển rút ngắn hay khả năng
quá độ gián tiếp của Lênin. Quan điểm này thể hiện như sau: quá trình lịch sử - tự
nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra theo con đường phát triển tuần
tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định một hoặc một số
hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Đây chính là sự vận dụng tư tưởng của C.Mác
Trang 15
"có thể rút ngắn và giảm bớt những cơn đau đẻ" trong quá trình phát triển của mỗi
quốc gia.
Thứ ba: Việc phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn phù
hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền
với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường mà Đảng và nhà nước ta lựa
chọn từ năm 1930. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân
tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ đồng thời nó là tiền đề để “ làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no,
và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp
tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân
chủ được thực hiện triệt để.
II. CÔNG NGIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
CNXH.
1. TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI
HÓA (CNH-HĐH).
1.1 TÍNH TẤT YẾU
Lý luận hình thái - kinh tế đã chỉ ra rằng mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một
lực lượng sản xuất của nó hay nói cách khác là phải có một cơ sở vật chất – kỹ thuật
của nó. Để có chủ nghĩa xã hội phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đem lại.
Đối với nước ta: đặc điểm lịch sử cùng với sự tàn phá của chiến tranh đi qua đã
để lại cho đất nước chúng ta một nền sản xuất nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng
sản xuất thấp, lao động thủ công là chủ yếu. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là
chưa có nền đại công nghiệp. Thêm vào đó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bên cạnh những thành tựu thì chúng ta cũng còn có khuyết điểm, yếu kém,
những vấp váp sai lầm. Chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá
lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất; đã duy trì
Trang 16
quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính sách
chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với những
thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở. Do đó mỗi bước
tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp
phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
1.2 VAI TRÒ
Việc thực hiện tốt sự nghiệp CNH - HĐH có vị trí và vai trò rất lớn đối với đất
nước chúng ta. Vai trò ấy được thể hiện ở các khía cạnh sau:
CNH - HĐH làm phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng

sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế. Do đó góp phần ổn
định, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của CNXH.
CNH - HĐH tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò
của kinh tế nhà nước, nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm
tăng sự phát triển tự do và toàn diện của nhân tố con người – nhân tố trung tâm của
nền sản xuất. Bằng sự phát triển toàn diện, con người lại tác động trở lại và thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
CNH - HĐH góp phần phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế phát triển thì mới có đủ
các điều kiện vật chất cho sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc gia, chống
thù trong giặc ngoài. Đồng thời CNH – HĐH còn góp phần trong việc phát triển,
gìn giữ các trang thiết bị phục vụ cho các lực lượng vũ trang nhân dân.
CNH – HĐH góp phần tăng nhanh quy mô thị trường. Bên cạnh thị trường hàng
hóa thì nay đã xuất hiện thêm thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công
nghệ. Việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng, tài chính tăng nhanh. CNH –HĐH tạo
điều kiện vật chất xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để đủ sức tham gia một cách
có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI CNH – HĐH.
Trong quá trình xây dựng đất nước tiến lên theo con đường XHCN không phải
chúng ta không vấp những sai lầm tuy nhiên Đảng ta đã kịp thời tổng kết được
Trang 17
các mặt hạn chế và trong Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo chủ
nghĩa xã hội trên 3 nguyên tắc:
 Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp.
 Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin
coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ.
 Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới
trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và
chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.

Khi phân tích 3 nguyên tắc trên chúng ta thấy được vai trò quan trọng trong
việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tại đại hội đảng lần thứ VII đã nêu ra 07 phương huớng cơ bản trong đó có 02
phương huớng liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ
giữa chúng là:
 Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân.
 Phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tại đại hội đảng lần thứ VIII , khi đánh giá kết quả 05 năm thực hiện nghị
quyết của đại hội VII và tổng kết 10 năm đổi mới Đảng ta đã khẳng định “nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiên đề cho công nghiệp
hóa cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới - đẩy mạnh công nghiệp
Trang 18
hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
được xác định rõ hơn". Trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình
thế giới, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, nêu rõ những thời cơ và thách
thức lớn, Đại hội định ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là:
 Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
 Đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp.
Đặc điểm của đất nước ta là một nước nông nghiệp nên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì Đảng và NN luôn chú trọng đến sự thay đổi
trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phát biểu về
vai trò, tầm quan trọng của nông nghiệp trong quá trình CNH-HĐH đất nước:
“Nước ta là một nước nông nghiệp , muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh
tế nói chung phải lấy nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì
không có cơ sở phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương
thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”. Tại văn kiện
đại hội Đảng lần thứ VIII của Đảng đã nêu rõ “Nội dung cơ bản của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: Đặc biệt coi trọng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng thương nghiệp, du lịch,
dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành
mũi nhọn như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số
ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển
Trang 19
mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”. Quan điểm này vẫn
được tiếp tục kế thừa trong các kỳ đại hội tiếp sau.
3. CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN LIỀN VỚI NỀN KINH TẾ
TRI THỨC.
Từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và công nghệ đã có
những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là sự bùng nổ và sự hội tụ của công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp sang KTTT.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng

cao chất lượng cuộc sống. Tri thức đã trở thành nguồn lực hàng đầu, mà giá trị của
nó chiếm tỷ trọng cao, nhiều khi chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong sản phẩm. Với nền
KTTT, nhân tài trí thức được coi trọng, quyền sở hữu trí tuệ trở thành yếu tố quan
trọng. Tri thức trở thành hình thức cơ bản nhất của vốn, quan trọng hơn cả tài
nguyên, sức lao động. Lực lượng sản xuất từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên chuyển
dần sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người.
Trong bối cảnh tình hình chung của thế giới có những biến chuyển như vậy thì
quá trình CNH – HĐH của đất nước ta cũng có những thay đổi cho phù hợp với tình
hình thực tế, đồng thời tranh thủ những thành tựu đã đạt được của nhân loại để rút
ngắn quá trình CNH – HĐH. Báo cáo chính trị tại Đại Hội X của Đảng đã chỉ ra:
"Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với
phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH.
Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với
tri thức mới nhất của nhân loại”.
Trong điều kiện đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trên con đường thực
hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì Việt Nam phải đồng thời cùng thực hiện 02
nhiệm vụ: quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và quá
Trang 20
trình chuyển từ kinh tế nông- công nghiệp lên KTTT trong điều kiện chuyển đổi cơ
chế từ kế hoạch hoá, từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng
XHCN. Đây là nhiệm vụ khó khăn đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Tuy nhiên nếu thực hiện được thì sẽ nhanh chóng kéo nền kinh tế đi lên. Do đó đòi
hỏi Đảng ta với tư cách người đứng đầu cần có các chiến lược, phương hướng thực
hiện cụ thể.
III. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO
ĐỊNH HƯỚNG XHCN.
1. TÍNH TẤT YẾU VÀ KHÁCH QUAN CỦA VIỆC TỒN TẠI VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM.

Xuất phát từ quy luật chung phổ biến, biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất thì mỗi thành phần kinh tế bao giờ cũng thích ứng với một tính
chất và trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH
thì lực lượng sản xuất, phân công lao động, năng suất lao động còn thấp, không
đồng đều giữa các ngành…Do đó chỉ có xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
chúng ta mới giải quyết được các vấn đề nêu trên.
2. CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở NƯỚC TA.
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: các nền kinh tế tồn tại khách quan tương
ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn lịch
sử hiện nay đó là kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế Tư bản tư nhân.
Các thành phần kinh tế ở VN có sự khác nhau rõ rệt về hình thức sở hữu, cách
thức thu nhập nhưng chúng đều có vị trí, vai trò nhất định trong hệ thống kinh tế
của VN
Thành phần kinh tế Nhà nước: là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất
kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh là toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu
nhà nước hoặc phần của toàn Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế.
Trang 21
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở
hữu Nhà Nước (NN), các ngành kinh tế thuộc sở hữu NN. Trong đó thì các doanh
nghiệp NN là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất của kinh tế NN.
Theo chủ trương của Đảng ta thì kinh tế NN cần phải tập trung vào các ngành,
các lĩnh vực trọng yếu như kết cấu kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng,
những ngành kinh tế phục vụ an ninh, quốc phòng, thông tin liên lạc…để đảm bảo
đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế.
Thành phần kinh tế hợp tác: hình thành trên cơ sở tự nguyện của chủ thể kinh
tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với cơ cấu, nhu cầu, khả năng và
lợi ích của các bên tham gia.
Hình thức tồn tại là: Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, HTX tiểu thủ công nghiệp,
HTX tín dụng…

Kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất dựa vào kinh nghiệm
của bản thân là chính.
Thành phần kinh tế này gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân, thợ thủ
công, những người buôn bán, dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là
sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh manh mún, trình độ kỹ thuật công nghệ thủ
công. Tuy nhiên hình thức kinh tế này có thế mạnh là phát huy nhanh, có hiệu quả
tiền vốn, sức lao động, tay nghề…
Thành phần kinh tế tư bản Nhà Nước: là sản phẩm của sự can thiệp của NN
vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Thành phần kinh tế tư bản NN bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh
giữa kinh tế NN và kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng, khai thác và
phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt dưới sự kiểm soát của NN.
Thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, trình độ
khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệp tổ chức quản lý của các nước tư bản.
Kinh tế tư bản tư nhân: là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà
tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Trang 22
Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, Cty cổ
phần, Cty TNHH
Đại hội IX của Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, cần phát triển 6 thành phần
kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài
Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt như: giải phóng
sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh -
động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại
đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con
đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo kinh tế thị trường, Đảng và NN ta luôn nắm vững một
nguyên tắc đó là kinh tế NN đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác dần trở

thành nền tảng của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế NN đủ mạnh cả về lượng và chất
thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN, nếu không
thì nền kinh tế sẽ theo hướng ngược lại.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần
nhất và thống nhất. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời
kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp. Cho
nên cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi
vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần
đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có
sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá. Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể
chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là
cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa.
Trang 23
Việc nghiên cứu mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất – quan hệ sản
xuất, cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng khiến cho chúng ta hiểu ra rằng mỗi
bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết
mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng
cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ
quá độ. Trên con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội chúng ta bỏ qua quan hệ
sản xuất tư bản với tư cách là quan hệ sản xuất giữ vai trò thống trị trong toàn xã
hội, chứ không phải là xóa sạch các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa, khi nó còn
có tác dụng tích cực và những biện pháp tư sản khi nó còn hữu ích. Đồng thời cần
tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng
nền kinh tế hiện đại.
Đây cũng là một số điều mà Toàn Đảng và toàn dân ta phải thấm nhuần để thực
hiện nhằm đạt mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”

và xây dựng một xã hội có 08 đặc trưng như trong Cương lĩnh Đại hội XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu. 08 đặc trưng của xã hội ta đó là: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp;
có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Trang 24

×