Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đô thị hóa,tác động của đô thị hóa đến đặc điểm dân cư và lối sống của Phường Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.55 KB, 90 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN


NGUYỄN MAI LAN


ĐÔ THỊ HÓA, TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN
ĐẶC ĐIỂM DÂN CƢ VÀ LỐI SỐNG CỦA PHƢỜNG
KHƢƠNG ĐÌNH, QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI
(TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60.31.60










Hà Nội-2011





2
MỤC LỤC

NỘI DUNG
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
6
1. Lý do chọn đề tài
6
2. Ý nghĩa của đề tài
8
3. Lịch sử vấn đề
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
11
5. Phương pháp nghiên cứu
11
6. Cấu trúc của luận văn
12
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ LỐI
SỐNG ĐÔ THỊ
14
1.1. Khái niệm đô thị hóa
14
1.1.1. Khái niệm đô thị hóa của các nhà khoa học nƣớc ngoài
14
1.1.2. Khái niệm đô thị hóa của các nhà khoa học Việt Nam
15
1.1.3. Quá trình đô thị hóa từ cách tiếp cận xã hội học
19

1.2. Đô thị hóa ở Việt Nam: Các giai đoạn chính
21
1.2.1. Thời kì phong kiến (từ năm 1858 trở về trƣớc)
21
1.2.2. Thời kì thuộc địa (1858 - 1954)
22
1.2.3. Thời kỳ năm 1955 - 1975
23
1.2.4. Thời kì năm 1975 đến nay
24
1.3. Lối sống đô thị
26
1.3.1. Khái niệm lối sống đô thị
26
1.3.1. Một số đặc trƣng của lối sống đô thị trong các xã hội đang phát triển
27
Chƣơng 2: ĐÔ THỊ HÓA Ở PHƢỜNG KHƢƠNG ĐÌNH
29
2.1. Tổng quan về làng Khương Hạ
29

3
2.1.1. Vị trí địa lý
29
2.1.2. Lịch sử làng Khƣơng Hạ
30
2.1.3. Làng cổ Khƣơng Hạ
33
2.1.4. Sự thay đổi địa giới hành chính của làng Khƣơng Hạ
39

2.2. Đô thị hóa ở phường Khương Đình
40
2.2.1. Biến động về đất đai
40
2.2.2. Biến đổi về kinh tế
46
Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN ĐẶC ĐIỂM DÂN CƢ VÀ
LỐI SỐNG CỦA PHƢỜNG KHƢƠNG ĐÌNH
56
3.1. Tác động của đô thị hóa đến đặc điểm dân cư
56
3.1.1. Thành phần dân cƣ thay đổi
56
3.1.2. Thay đổi về nghề nghiệp
61
3.2. Tác động của đô thị hóa đến lối sống
66
3.2.1. Hình thành lối sống của nhiều thành phần dân cƣ
66
3.2.2. Đời sống vật chất thay đổi
68
3.2.3. Lối sống hƣởng thụ vật chất của bộ phận dân gốc
68
3.2.4. Thất nghiệp và nghề tự do
71
3.2.5. Sử dụng dịch vụ sinh hoạt
72
3.2.6. Nhu cầu giao tiếp và không gian giao tiếp
72
3.2.7. Nhu cầu văn hóa giáo dục

73
3.2.8. Các hoạt động sử dụng thời gian rỗi
75
3.2.9. Không gian đô thị
77
3.2.10. Tính tích cực xã hội, ý thức công dân và các hoạt động xã hội của cá
nhân
78
3.2.11. Tệ nạn xã hội
80

4
3.2.12. Lối sống của dân gốc ở phƣờng Khƣơng Đình vẫn chƣa thực sự là lối
sống đô thị
81
KẾT LUẬN
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
87


5
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Diện tích đất nông nghiệp của phƣờng Khƣơng Đình
Bảng 2.2: Đàn lợn, trâu, bò ở phƣờng Khƣơng Đình
Bảng 3.1: Dân số xã Khƣơng Đình (bao gồm làng Khƣơng Hạ và Làng Hạ
Đình)
Bảng 3.2: Dân số phƣờng Khƣơng Đình (Làng Khƣơng Hạ)
Bảng 3.3: Số hộ, nhân khẩu, lao động nông nghiệp của phƣờng Khƣơng Đình

Bảng 3.4: Bảng Cơ sở lao động ngoài nhà nƣớc
Bảng 3.5: Thu nhập chính của dân gốc trong phƣờng Khƣơng Đình hiện nay
Bảng 3.6: Nghề nghiệp hiện nay của dân gốc phƣờng Khƣơng Đình
Bảng 3.7: Thống kê số trƣờng, giáo viên, học sinh trên địa bàn phƣờng
Khƣơng Đình
Bảng 3.8: Bảng các hoạt động sử dụng thời gian rỗi
Bảng 3.9: Số ngƣời nghiện ma túy và nhiễm HIV trong phƣờng Khƣơng Đình

6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Diện tích đất nông nghiệp của phƣờng Khƣơng Đình
Biểu đồ 2: Tổng dân số hàng năm của phƣờng Khƣơng Đình (từ năm 1997
đến năm 2008)
Biểu đồ 3: Số dân chuyển đến phƣờng Khƣơng Đình (từ năm 1997 đến năm
2008)
Biểu đồ 4: Thu nhập chính của dân gốc trong phƣờng Khƣơng Đình hiện nay
Biểu đồ 5: Các hoạt động sử dụng thời gian rỗi



7
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Khi nghiên cứu về những yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam,
chúng ta không thể không nhắc đến làng – một trong những yếu tố quan trọng
hình thành nên quốc gia Việt Nam với cấu trúc từ làng đến nƣớc. Làng là sản
phẩm của quá trình lịch sử, vì vậy trong quá trình phát triển, nó luôn luôn biến
đổi để phù hợp với thời đại, luôn mang trong mình những dấu ấn thay đổi của

lịch sử nhƣ sự biến đổi về con ngƣời, tự nhiên, xã hội, kinh tế và văn hóa.
Trong khi đó, đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là
sự hình thành nhanh chóng các điểm dân cƣ đô thị trên cơ sở phát triển sản
xuất và đời sống. Khái niệm về đô thị hóa rất đa dạng, bởi vì đô thị hóa chứa
đựng nhiều hiện tƣợng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Quá
trình đô thị hóa là quá trình công nghiệp hóa đất nƣớc. Quá trình đô thị hóa
cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, về cách tổ
chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc xây dựng từ dạng
nông thôn sang dạng thành thị. Ở các nƣớc đang phát triển nói chung và ở
Việt Nam nói riêng, đặc trƣng của quá trình đô thị hóa là sự tăng nhanh dân
số đô thị không hoàn toàn dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp. Hiện tƣợng
bùng nổ dân số bên cạnh sự phát triển yếu kém của công nghiệp đã làm cho
quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa mất cân đối, sự mâu thuẫn giữa đô thị
và nông thôn càng thêm sâu sắc. Sự chênh lệch về dân số đã thúc đẩy sự dịch
chuyển dân số từ nông thôn ra thành thị một cách ồ ạt, làm cho đô thị phát
triển nhanh chóng, đặc biệt là ở các đô thị lớn, đô thị trung tâm, tạo nên
những điểm dân cƣ đô thị cực lớn làm mất cân đối trong sự phát triển hệ
thống dân cƣ.

8
Làng Khƣơng Hạ trƣớc khi đƣợc trở thành phƣờng Khƣơng Đình,
thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội, đã từng là một làng nông nghiệp ven đô.
Làng nằm về phía Tây Nam của thủ đô Hà Nội, chỉ cách trung tâm Hà Nội
khoảng 10km, nên quá trình đô thị hóa ảnh hƣởng rất mạnh đến Khƣơng Hạ.
Khƣơng Hạ trƣớc năm 1997 là một làng thuần nông, mỗi năm những ngƣời
dân ở đây chỉ cấy một vụ lúa, thời gian còn lại trồng mầu và rau xanh cung
cấp cho thành phố.
Trên thực tế, khi một làng nông nghiệp ven đô cổ truyền biến đổi trở
thành một phƣờng nội thành thì cùng với quá trình đô thị hóa sẽ kéo theo
những mặt tích cực lẫn những mặt tiêu cực. Từ khi phƣờng Khƣơng Đình

đƣợc thành lập thì cơ sở hạ tầng của phƣờng đƣợc đầu tƣ, xây dựng khang
trang hơn. Chợ, trƣờng học, trạm y tế, đƣờng, ngõ trong phƣờng đƣợc xây
dựng, tôn tạo lại, bên cạnh đó, các dự án xây dựng đƣờng vành đai, khu tái
định cƣ, công viên, trƣờng học, bệnh viện đang đƣợc thiết kế ở phƣờng
Khƣơng Đình. Nhƣng từ khi phƣờng đƣợc thành lập cũng có nhiều bất cấp
xảy ra nhƣ những hiện tƣợng mất dần đất nông nghiệp, hiện tƣợng chiếm
dụng đất công, đất nông nghiệp, sự bất ổn định về lao động, việc làm của
nông dân, kinh tế nông nghiệp mất dần, thay vào đó là các nghề dịch vụ, buôn
bán, sản xuất tự do.
Tuy là một vùng đất có bề dày lịch sử hình thành, phát triển và đấu
tranh nhƣng Khƣơng Hạ theo nhƣ Nguyễn Văn Uẩn trong cuốn Hà Nội nửa
đầu thế kỷ XX đã nói: “Ngày xƣa Khƣơng Hạ ở xa đƣờng giao thông chính,
con sông Tô cũng mất tầm quan trọng của một đƣờng sông… Thành hoàng
làng Khƣơng Hạ không phải là một nhân vật lịch sử có tiếng tăm… Cũng nhƣ
nhiều làng khác, đình đám ở Khƣơng Hạ không có gì đặc biệt ngoài cúng tế tổ
chức trò vui thông thƣờng nhƣ đánh đu, đấu vật, cờ tƣớng, chèo hát… Trong
làng có nhiều gia đình sống chuyên nghề làm ruộng…, cấy lúa một vụ, còn

9
một vụ làm mầu trồng rau nhờ có nƣớc tƣới sông Tô…” nên không có tài liệu
nghiên cứu riêng về làng Khƣơng Hạ. Làng Khƣơng Hạ chỉ đƣợc nhắc đến
trong một số cuốn sách khi nói chung cùng với một số làng xã khác. Chẳng
hạn, nói đến địa danh của Hà Nội, các nhà nghiên cứu có nhắc đến làng
Khƣơng Hạ là một làng ngoại thành Hà Nội. Hoặc xã Khƣơng Đình có đƣợc
đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về huyện Thanh trì nhƣ công trình
Mấy phác họa về làng xã Thanh Trì qua tư liệu địa bạ của Vũ Văn Quân, và
Quy hoạch môi trường vùng ven đô Hà Nội trên cơ sở tiếp cận sinh thái (lấy
Thanh Trì làm ví dụ) của Vũ Quyết Thắng. Rộng hơn nữa thì xã Khƣơng
Đình đƣợc điểm qua trong các nghiên cứu khu vực ngoại thành Hà Nội nhƣ
các công trình Thuyết minh Atlas huyện Thanh Trì, Nông nghiệp ngoại thành

Hà Nội – Nguồn lực và cơ hội phát triển, và Luận án phó tiến sĩ Phân tích
dưới góc độ địa lý – kinh tế - xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở
Hà Nội trong quá trình đô thị hóa của Đỗ Thị Minh Đức. Còn chƣa có công
trình nào nghiên cứu riêng về làng Khƣơng Hạ, xã Khƣơng Đình hoặc là
phƣờng Khƣơng Đình.
Trong 10 năm gần đây, tốc độ đô thị hóa diễn ra ở làng Khƣơng Hạ rất
mạnh, mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của làng có rất nhiều thay
đổi. Trong đó, dân cƣ và lối sống của dân cƣ trong phƣờng cũng có những
thay đổi đáng quan tâm. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài nghiên cứu luận văn
của mình là:
Đô thị hóa, tác động của đô thị hóa đến đặc điểm dân cư và lối sống của
phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội (từ năm 1997 đến nay).
2. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Luận văn đƣợc nghiên cứu theo phƣơng pháp
nghiên cứu tổng hợp, liên nghành sẽ cho một kết quả tổng hợp về địa bàn và
vấn đề nghiên cứu. Địa bàn nghiên cứu đƣợc nhìn nhận tổng hợp từ nhiều góc

10
độ: lịch sử, kinh tế, xã hội với sự biến đổi theo thời gian. Vấn đề nghiên cứu
đƣợc xem xét nhiều chiều sẽ cho những kết quả khách quan và sâu sắc.
Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho
các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách những cơ sở thực tiễn có
giá trị về phƣờng Khƣơng Đình từ khi đƣợc trở thành đô thị đến nay. Từ
những vấn đề về dân cƣ, về lối sống dân cƣ mà kết quả nghiên cứu của luận
văn đƣa ra sẽ giúp các nhà quản lý khu vực phƣờng Khƣơng Đình nói riêng
và khu vực Hà Nội nói chung có những kế hoạch thiết thực để phát triển khu
vực, giúp ngƣời dân Khƣơng Đình có những cơ sở thích hợp để tiếp nhận và
thích nghi đƣợc với đời sống đô thị.
3. Lịch sử vấn đề
Đô thị hóa là vấn đề đã đƣợc nghiên cứu từ lâu trên thế giới nhƣng

trong những năm gần đây đô thị hóa đƣợc nghiên cứu nhƣ là một hệ quả tự
nhiên về sự thay đổi kinh tế xảy ra vì sự phát triển đất nƣớc. Với việc tăng thu
nhập đầu ngƣời, làm tăng hàng hóa và thực phẩm, và tất nhiên nhu cầu về các
hoạt động phi nông nghiệp cũng tăng lên. (Ummreddy Venkateswarlu) [11].
Đô thị hóa còn đƣợc nghiên cứu nhƣ là một quá trình kinh tế - xã hội
toàn thế giới và những kết quả của nó biểu hiện ở sự mở rộng không gian
thành phố, sự tập trung dân cƣ, sự thay đổi các mối quan hệ xã hội,… Đô thị
hóa là quá trình tập trung, đẩy mạnh và đa dạng hóa những chức năng phi
nông nghiệp, sự mở rộng lối sống thành thị, các hình thức cƣ trú tiến bộ, sự
phát triển giao dịch, nền văn hóa thành thị,…( Pivovarov) [11].
Các nhà xã hội học thì định nghĩa các đô thị nhƣ là những hình thức tổ
chức xã hội có xuất xứ địa lý và mang những đặc trƣng nhất định. Nhìn
chung, các nhà xã hội học định nghĩa đô thị theo sự tổ chức, các chức năng và
những đặc trưng xã hội của nó (Wirth, Sjoberg, Max Weber) [15].

11
Các nhà nghiên cứu đô thị Việt Nam thì cho rằng đô thị hóa là hiện
tƣợng xã hội liên quan tới những dịch chuyển kinh tế - xã hội – văn hóa –
không gian – môi trƣờng sâu sắc gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ
thuật, tạo đà thúc đẩy sự phân công lao động, sự chuyển đổi nghề nghiệp và
hình thành các nghề nghiệp mới (Trƣơng Quang Thao, Đàm Trung phƣờng)
[11].
Trong Luận án tiến sĩ Phân tích dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội sự
chuyển hóa nông thôn thành đô thị, đô thị hóa đƣợc cho là một quá trình phát
triển không gian vật thể đa chiều, một tổng hoà sinh thái – phát triển đan xen
đa ngành.
Môi trƣờng sinh thái đô thị bao gồm những bộ phận chính: môi trƣờng
ở và sinh hoạt, môi trƣờng làm việc, môi trƣờng nghỉ ngơi giải trí (Đỗ Thị
Minh Đức) [2].
Một mảng nghiên cứu quan trọng trong xã hội học đô thị hiện nay là

nghiên cứu về lối sống đô thị. Trong đó khái niệm và tiêu chí về lối sống đô
thị mà Wirth, nhà xã hội học Mĩ đƣa ra rất rõ ràng và cần thiết cho việc
nghiên cứu lối sống đô thị [15].
Một số nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đƣa ra khái niệm lối sống (Đỗ
Huy) [10] và những tiêu chí về lối sống đô thị (Lê Nhƣ Hoa) [6]. Nhƣng
những khái niệm và tiêu chí về lối sống đô thị mà Wirth đƣa ra rõ ràng và cụ
thể hơn nên trong nghiên cứu của mình chúng tôi theo những tiêu chí về lối
sống đô thị mà Wirth đƣa ra.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu về lối sống đô thị nhƣ
Lê Nhƣ Hoa, Tô Duy Hợp, Đặng Cảnh Khanh, Trịnh Duy Luân.




12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những tác động của quá trình đô
thị hóa tới đặc điểm dân cƣ và lối sống của phƣờng Khƣơng Đình, quận
Thanh Xuân Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những biến đổi về dân cƣ và lối
sống ở phƣờng phƣờng Khƣơng Đình, quận Thanh Xuân Hà Nội trong quá
trình đô thị hóa từ năm 1997 đến nay, trên cơ sở phân tích số liệu điều tra và
thống kê trên địa bàn từ năm 1997 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp liên ngành, đa nghành đƣợc sử dụng để tiếp cận đối
tƣợng từ nhiều hƣớng khác nhau. Qua đó rút ra những kết luận mang tính
tổng hợp và toàn diện về những biến đổi về dân cƣ và lối sống trên địa bàn
trong quá trình đô thị hóa.
Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu: thu thập các tƣ
liệu, số liệu về lịch sử, đất đai, kinh tế, dân số, nghề nghiệp, lối sống trong

quá trình đô thị hóa, sau đó tổng hợp và phân tích.
Tƣ liệu thu thập qua: Niên giám thống kê quận Thanh Xuân từ năm
1995 đến năm 2008, Báo cáo hàng năm của phƣờng Khƣơng Đình từ năm
2001 đến năm 2008, Gia phả Họ Nguyễn Xuân (dân gốc ở phƣờng Khƣơng
Đình), Phiếu điều tra, tƣ liệu phỏng vấn các nhà quản lý và ngƣời dân thuộc
khu vực khảo sát.
Phương pháp điều tra điền dã: thực hiện phỏng vấn đối thoại các nhà
quản lý, ngƣời dân thuộc khu vực khảo sát, xem xét các sự vật hiện tƣợng
dƣới nhiều góc độ khác nhau. Thực hiện điều tra theo phiếu để thu thập số
liệu.
Cụ thể là thực hiện phỏng vấn các cán bộ quản lý của Ủy ban nhân dân
phƣờng Khƣơng Đình nhƣ: Chủ tịch phƣờng, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ

13
tịch Hội Phụ nữ, Bí thƣ Đoàn Thanh Niên, Chủ tịch Mặt trận tổ quốc, Hội
trƣởng Hội Trọng thọ. Phỏng vấn tổ trƣởng các tổ dân phố và ngƣời dân gốc
trong phƣờng để có những thông tin cụ thể và thực tế về khu vực nghiên cứu.
Thực hiện phát phiếu điều tra bảng hỏi cho ngƣời dân gốc trong khu
vực nghiên cứu (với tổng số phiếu điều tra là 60 phiếu), sau đó xử lý các
thông tin theo phiếu điều tra để có số liệu thực tế và thực hiện phân tích
những nội dung mà số liệu phản ánh.
Phương pháp thống kê: xử lý định lƣợng các số liệu về kinh tế, ruộng
đất, những tƣ liệu đám đông để rút ra những kết luận khoa học.
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic: các phƣơng pháp này sẽ giúp
cho việc nhìn nhận, lý giải, đánh giá các sự vật, hiện tƣợng trong chiều sâu
lịch sử.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết về đô thị hóa và lối sống đô thị.
Đƣa ra một số lý thuyết về đô thị hóa của các tác giả trong nƣớc và các

tác giả nƣớc ngoài làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu quá trình đô thị hóa
và những tác động của quá trình đô thị hóa đến đặc điểm dân cƣ và lối sống
của phƣờng Khƣơng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Đƣa ra lý thuyết về lối sống đô thị của các nhà xã hội học đô thị. Đây là
lý thuyết cơ sở để phân tích những biến đổi về lối sống của dân phƣờng
Khƣơng Đình trong quá trình đô thị hóa từ năm 1997 đến nay.
Chương 2: Đô thị hóa ở phường Khương Đình.
Khƣơng Đình trƣớc đây là một xã ngoại thành Hà Nội nhƣng quá trình
đô thị hóa ở phƣờng Khƣơng trong hơn 10 năm qua đã làm thay đổi nhiều mặt
kinh tế, văn hóa, xã hội trong phƣờng mà nổi bật là: Sự biến động về đất đai,

14
việc sử dụng sai mục đích đất nông nghiệp; Những thay đổi về nghề nghiệp
của ngƣời dân, nghề nông nghiệp đang mất dần, nghề tự do phát triển.
Chương 3: Tác động của đô thị hóa đến đặc điểm dân cư và lối sống của
phường Khương Đình.
Những tác động của đô thị hóa đến đặc điểm dân cƣ của phƣờng
Khƣơng Đình nhƣ: Thành phần dân cƣ thay đổi, nghề nghiệp của dân cƣ thay
đổi.
Những tác động của đô thị hóa đến lối sống của dân phƣờng Khƣơng
Đình: Khƣơng Đình đã trở thành một phƣờng đô thị nhƣng lối sống của ngƣời
dân trong phƣờng vẫn chƣa phải là lối sống của ngƣời đô thị. Vì nghề nghiệp
của dân không ổn định, sự tiếp xúc, giao tiếp xã hội hạn hẹp, các hình thức
giải trí đơn giản, ý thức công dân đô thị chƣa có.



15
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ LỐI
SỐNG ĐÔ THỊ


1.1. Khái niệm đô thị hóa
1.1.1. Khái niệm đô thị hóa của các nhà khoa học nước ngoài
Cho đến nay, khái niệm đô thị hóa không còn quá xa lạ đối với một thế
giới ngày càng tiếp cận với nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Theo xu thế
đó, nhiều khái niệm về đô thị hóa đã xuất hiện. Và hiện nay, nhiều khái niệm
cho rằng, do sự xuất hiện của nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ, thƣơng
mại,… nhiều điểm dân cƣ đô thị đã hình thành. Trải qua một quá trình phát
triển, những điểm dân cƣ đô thị đó có quy mô ngày càng lớn và đƣợc trang bị
bởi những tiện nghi hiện đại và kỹ thuật tiên tiến để trở thành các điểm dân cƣ
đô thị. Những đô thị đó tập trung lại trên một vùng lãnh thổ với những mối
quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế - xã hội, về không gian lãnh thổ, về cơ
sở hạ tầng, về môi trƣờng sinh thái… trên một mật độ đô thị tập trung nào đó.
Lúc đó quá trình đô thị hóa xuất hiện.
Do đó có thể nói “Quá trình đô thị hóa là một quá trình phát triển của
một hệ thống đô thị với nhiều quy mô khác nhau, có mối quan hệ mật thiết
với nhau… trên cùng một không gian lãnh thổ nhất định và trong một thời
gian nhất định”. Gần đây, Giáo sƣ Ummreddy Venkateswarlu đã định nghĩa
về đô thị hóa nhƣ sau: “Đô thị hóa là một hệ quả tự nhiên về sự thay đổi kinh
tế xảy ra vì sự phát triển đất nƣớc. Với việc tăng thu nhập đầu ngƣời, làm tăng
hàng hóa và thực phẩm, và tất nhiên nhu cầu về các hoạt động phi nông
nghiệp cũng tăng lên. Nhu cầu tăng lao động khu vực hoạt động phi nông
nghiệp này kích thích quá trình đô thị hóa. Các chùm đô thị đã trở thành khu
vực kinh tế gồm các hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ và cơ sở hạ
tầng. Trong quá trình phát triển đó, các khu vực đô thị phụ thuộc vào quy mô

16
và hình thái của chúng, sự đổi mới các vùng sâu, vùng xa thông qua các mối
liên kết vùng và đô thị - nông thôn. Quá trình này và sự liên kết đó đã mở
rộng các loại hình phát triển đô thị nhƣ phát triển các cực với những khoảng

cách nhất định, các loại hình hành lang đô thị, các khu vực đô thị - nông thôn
liên hoàn”. (Dr. Ummreddy Venkateswarlu, 1998) [11, tr.21].
Theo Pivovarov (1972): Đô thị hóa là một quá trình kinh tế - xã hội
nhiều mặt gắn liền với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Đô thị hóa là một quá trình kinh tế - xã hội toàn thế giới và những kết
quả của nó biểu hiện ở sự mở rộng không gian thành phố, sự tập trung dân cƣ,
sự thay đổi các mối quan hệ xã hội,…
Đô thị hóa là quá trình tập trung, đẩy mạnh và đa dạng hóa những chức
năng phi nông nghiệp, sự mở rộng lối sống thành thị, các hình thức cƣ trú tiến
bộ, sự phát triển giao dịch, nền văn hóa thành thị,…
Đô thị hóa đi đôi với việc tăng dân số đô thị, tăng cƣờng mức độ tập
trung dân cƣ vào các thành phố lớn, sự mở rộng không ngừng không gian
thành phố.
1.1.2. Khái niệm đô thị hóa của các nhà khoa học Việt Nam
Ở nƣớc ta, quá trình đô thị hóa tuy còn non trẻ nhƣng cũng nằm trong
quy luật chung của thế giới và đã có một số nhà nghiên cứu về đô thị hóa đƣa
ra những khái niệm tƣơng tự. Theo Trần Hùng (1995), đô thị hóa là một hiện
tƣợng kinh tế - xã hội phức tạp diễn ra trên một không gian rộng lớn mà
ngƣời ta có thể biểu thị nó thông qua các yếu tố:
- Sự tăng nhanh của tỷ lệ dân số đô thị trong tổng số dân;
- Sự tăng số lƣợng đô thị đồng thời với sự mở rộng không gian đô thị;
- Sự chuyển hóa của lao động từ đơn giản sang phức tạp, từ công cụ thô
sơ sang tinh vi, cũng là từ khu vực I (lao động nông, lâm, ngƣ nghiệp) sang
khu vực II (quản lý, nghiên cứu, dịch vụ)…;

17
- Sự chuyển hóa từ lối sống dàn trải (mật độ thấp) sang tập trung (mật
độ cao), từ điều kiện hạ tầng kỹ thuật giản đơn sang điều kiện hạ tầng kỹ thuật
phức tạp…
Theo GS.TS. Lê Hồng Kế đô thị hóa đƣợc hiểu nhƣ sau:

- Đô thị hóa là quá trình chuyển hóa từ dạng phân bố dân cƣ nông
nghiệp phân tán sang dạng tổ chức các quần cƣ tập trung do các hoạt động phi
nông nghiệp, với tỷ trọng ngày càng cao của số dân sinh sống, sinh hoạt và
làm việc trong khu vực đô thị.
- Đô thị hóa làm xuất hiện hàng loạt những thay đổi về mặt kinh tế - xã
hội, gắn liền với việc phát triển công nghiệp và kinh tế thị trƣờng.
- Đô thị hóa làm xuất hiện ngày càng nhiều các loại đô thị mà trong đó,
quy mô đô thị ngày càng hiện đại, tính chất đô thị ngày càng đa dạng hơn…
theo xu thế phát triển của xã hội.
- Đô thị hóa gắn liền với những thay đổi trong thái độ ứng xử của con
ngƣời trong quá trình chuyển hóa từ lối sống, nếp sống nông thôn sang lối
sống, nếp sống đô thị.
- Ranh giới hành chính hệ thống đô thị luôn biến động trong quá trình
đô thị hóa [11, tr.28].
Định nghĩa của PGS.TS. Trƣơng Quang Thao: “Đô thị hóa là hiện
tƣợng xã hội liên quan tới những dịch chuyển kinh tế - xã hội – văn hóa –
không gian – môi trƣờng sâu sắc gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ thuật
tạo đà thúc đẩy sự phân công lao động, sự chuyển đổi nghề nghiệp và hình
thành các nghề nghiệp mới, đồng thời tạo ra nhu cầu dịch cƣ vào các trung
tâm đô thị, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế làm điểm tựa cho các thay đổi trong
đời sống xã hội và văn hóa, nâng cao mức sống, biến đổi lối sống và hình
thức giao tiếp xã hội, làm nền cho một sự phân bố dân cƣ hợp lý nhằm đáp
ứng những nhu cầu xã hội ngày càng phong phú và đa dạng để tạo ra thế cân

18
bằng động giữa môi trƣờng xây dựng, môi trƣờng xã hội và môi trƣờng thiên
nhiên” [11, tr.29].
PGS. Đàm Trung phƣờng đã đƣa ra định nghĩa: “Đô thị hóa là một quá
trình diễn biến kinh tế - xã hội – văn hóa – không gian gắn liền với những tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong đó diễn ra sự phát triển đời sống văn hóa, sự

chuyển đổi lối sống và sự mở rộng không gian thành hệ thống đô thị song
song với bộ máy quản lý hành chính và quân sự” [11, tr.33].
Định nghĩa xã hội học về đô thị dựa trên cấu trúc xã hội và chức năng
mà nó thực hiện. Các nhà xã hội học không quan tâm đến số dân tối thiểu hay
sự thừa nhận chính thức của đô thị về mặt tổ chức. Một cách truyền thống thì
xã hội học định nghĩa các đô thị nhƣ là những hình thức tổ chức xã hội có
xuất xứ địa lý và mang những đặc trƣng nhất định.
Thứ nhất, có số dân tƣơng đối đông, mật độ dân số cao và không thuần
nhất 1938 (Wirth, 1938);
Thứ hai, ít nhất có một bộ phận dân cƣ làm các công việc phi nông
nghiệp và có một số chuyên gia (Sjoberg, 1965);
Thứ ba, theo Max Weber, một đô thị phải đảm nhận những chức năng
thị trƣờng và ít nhất phải có một phần quyền lực quản lý điều hành (Weber,
1958);
Thứ tư, các đô thị thể hiện những hình thức tƣơng tác, trong đó một cá
nhân đƣợc biết đến không phải nhƣ một nhân cách đầy đủ theo nghĩa là ít nhất
có một số tƣơng tác với những ngƣời khác không phải nhƣ là những cá nhân,
mà là với các vai trò mà họ đảm nhận;
Thứ năm, các đô thị đòi hỏi một “gắn kết xã hội” dựa trên một cái gì đó
rộng hơn là gia đình trực hệ hay bộ lạc, mà có thể là dựa trên luật lệ hợp lý
hay truyền thống nhƣ tôn giáo hay sự trung thành với nhà vua.

19
Đây cũng chƣa phải là một định nghĩa đầy đủ. Nhìn chung, các nhà xã
hội học định nghĩa đô thị theo sự tổ chức, các chức năng và những đặc trưng
xã hội của nó [15, tr.15].
Định nghĩa khác
Đô thị là một kiến tạo lãnh thổ - xã hội, một hình thức cƣ trú mang tính
toàn vẹn lịch sử của con ngƣời, đƣợc đặc trƣng bởi các dấu hiệu sau:
Là nơi tập hợp của một số lƣợng lớn dân cƣ trên một lãnh thổ hạn chế.

Đại bộ phận dân cƣ sống ở đây làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
(công nghiệp, thƣơng nghiệp, dịch vụ,…).
Là môi trƣờng trực tiếp, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển xã hội và cá nhân.
Giữ vai trò chủ đạo đối với vùng nông thôn xung quanh và toàn xã hội
nói chung.
Hai dấu hiệu đầu là định lƣợng, còn hai dấu hiệu sau là định tính. Ở
mỗi quốc gia, ngƣời ta có thể có những quy định riêng đối với các dấu hiệu
này. Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành, điểm dân cƣ đƣợc coi là đô thị khi
có số dân tối thiểu từ 4.000 ngƣời trở lên, trong đó ít nhất 60% dân cƣ không
làm nông nghiệp [15, tr.15-16].
Hai nhóm yếu tố cấu thành đô thị
Từ góc độ xã hội học, mọi đô thị đều đƣợc cấu tạo từ hai nhóm thành tố
chủ yếu là:
Các thành tố không gian – vật chất. Đó là môi trƣờng không gian –
hình thể (vật thể) do con ngƣời tạo ra, bao gồm không gian kiến trúc quy
hoạch, cảnh quan đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cả điều kiện khí hậu sinh
thái tự nhiên.
Các thành tố tổ chức - xã hội. Đó là cộng đồng dân cƣ sinh sống trên
lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế luật lệ hiện hành tại đó.

20
Trên thực tế thì hai nhóm thành tố này không thể tách rời nhau và đƣợc
hiểu trong mối quan hệ giữa một bên là môi trƣờng sống, điều kiện sống và
một bên là những con ngƣời hoạt động trong đó. Các bộ môn khoa học nghiên
cứu về đô thị đều xoay quanh mục tiêu nghiên cứu và bảo đảm cho sự vận
hành và phát triển của các đô thị, bảo đảm sự liên kết tối ƣu giữa hai thành tố
cấu thành đô thị nói trên.
Các khoa học nhƣ kiến trúc, quy hoạch đô thị, xây dựng đô thị, sinh
thái học đô thị thì dành sự quan tâm trƣớc hết cho việc tạo ra những bộ phận

hay toàn bộ môi trƣờng không gian vật chất – hình thể của đô thị. Các yếu tố
tổ chức - xã hội nếu đƣợc đề cập đến chỉ là yếu tố thứ hai. Trong khi đó, xã
hội học đô thị lại hƣớng sự chú ý trƣớc hết tới yếu tố này – cộng đồng dân cư
đô thị với những đặc điểm kinh tế - xã hội của nó, sự thích ứng hay hòa nhập
với môi trường vật chất – hình thể của đô thị. Và vì thế, hai nhóm bộ môn
khoa học này tất yếu phải có liên hệ với nhau dƣới nhiều hình thức [15, tr.16].
1.1.3. Quá trình đô thị hóa từ cách tiếp cận xã hội học
Các nhà khoa học xã hội thuộc nhiều bộ môn đã nghiên cứu quá trình
đô thị hóa và đƣa ra không ít định nghĩa cùng với những đánh giá về quy mô,
tầm quan trọng và dự báo tƣơng lai của quá trình này. Trong số đó, phổ biến
là định nghĩa về quá trình đô thị hóa dựa trên cơ sở cách tiếp cận nhân khẩu
học và địa lý kinh tế. Theo định nghĩa này, quá trình đô thị hóa chính là sự di
cư từ nông thôn vào thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống
trong những vùng lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là các đô thị. Đó cũng là
quá trình gia tăng tỉ lệ dân cƣ đô thị trong tổng số dân của một quốc gia. Dấu
hiệu định lƣợng này (tỉ lệ % số dân đô thị trên tổng số dân) nhiều khi đƣợc
xem là dấu hiệu duy nhất để đánh giá trình độ (mức độ) đô thị hóa của một
quốc gia hay của một khu vực. Để bổ sung, còn có thêm các chỉ báo về số
lƣợng, kiểu loại, quy mô của mạng lƣới các đô thị hiện có.

21
Những dấu hiệu định lƣợng nhƣ vậy của quá trình đô thị hóa đã đƣợc
nhân khẩu học theo dõi và nghiên cứu khá kỹ lƣỡng. “Dân số và đô thị hóa” là
một chuyên mục không thể thiếu trong các tập san nghiên cứu dân số. Tuy
nhiên, nếu chỉ hạn chế trong cách tiếp cận nhân khẩu học thì sẽ không thể nào
giải thích đƣợc toàn bộ tầm quan trọng và vai trò của đô thị hóa cũng nhƣ ảnh
hƣởng của nó tới sự phát triển của xã hội hiện đại. Các nhà khoa học ngày
càng ngả sang cách hiểu đô thị hóa nhƣ là một quá trình kinh tế - xã hội lịch
sử mang tính quy luật, trên quy mô toàn cầu. Khái quát hơn, đô thị hóa đƣợc
xem nhƣ là quá trình tổ chức lại môi trƣờng cƣ trú của nhân loại, ở đó, bên

cạnh mặt dân số, địa lý môi trƣờng còn có mặt xã hội, một mặt rất quan trọng
của vấn đề.
Nói một cách hình ảnh, quá trình đô thị hóa là cái phông rộng lớn, trên
đó diễn ra những biến đổi to lớn và sâu rộng trong đời sống xã hội, đời sống
của các cộng đồng nông thôn và đô thị.
Biểu hiện thứ hai, nhƣ là dấu hiệu định tính của quá trình đô thị hóa từ
giác độ xã hội học đã đƣợc John Macionis nêu lên trong cuốn sách giáo khoa
về Xã hội học (1988) nhƣ sau: “Đô thị hóa không chỉ thay đổi sự phân bố dân
cư trong xã hội mà còn chuyển thể (transform) nhiều kiểu mẫu (patterns) của
đời sống xã hội”. Đó cũng chính là sự phổ biến và lan truyền những khuôn
mẫu hành vi, ứng xử, vốn đặc trƣng cho ngƣời dân đô thị, sự lan truyền của
một lối sống đô thị hay các quan hệ văn hóa đô thị tới các vùng nông thôn và
trên toàn bộ xã hội nói chung. Ở đây, rất đáng lƣu ý tới khái niệm lối sống đô
thị hay đặc trưng đô thị. Khái niệm này đã đƣợc một đại biểu của xã hội học
đô thị Mĩ thuộc trƣờng phái Chicago, Louis With, đƣa ra năm 1938 trong
công trình mang tính kinh điển “Đặc trƣng đô thị nhƣ một lối sống”
(Urbanism as a way of life). Theo L.With, đặc trƣng đô thị (urbanism) là các

22
kiểu mẫu (pattern) của văn hóa và cấu trúc xã hội tiêu biểu cho các thành phố
và khác biệt rõ rệt so với văn hóa của cộng đồng nông thôn.
Đƣơng nhiên, sự lan truyền hay phổ biến các giá trị văn hóa, cơ cấu xã
hội hay lối sống đô thị tới nông thôn trong quá trình đô thị hóa, không chỉ là
sự tác động xâm kích một chiều mà là sự thâm nhập, thích ứng lẫn nhau giữa
lối sống đô thị và điều kiện sống nông thôn. [15, tr.44-46].
1.2. Đô thị hóa ở Việt Nam: Các giai đoạn chính
Là một trong số những nƣớc nghèo (tính theo GDP bình quân đầu
ngƣời) trong số các nƣớc đang phát triển, Việt Nam không thoát khỏi những
đặc trƣng có quy luật của quá trình đô thị hóa quá tải. Hơn nữa, còn có những
“đặc thù Việt Nam”. Có thể điểm qua một cách sơ lƣợc quá trình đô thị hóa ở

Việt Nam trong vòng mấy thế kỉ gần đây để thấy rõ những nhận định trên
theo các mốc thời gian nhƣ sau:
1.2.1. Thời kì phong kiến (từ năm 1858 trở về trước)
Các thành thị Việt Nam thời kì này chủ yếu là các trung tâm hành chính
và thƣơng mại, đƣợc hình thành trên cơ sở những thành lũy, lâu đài của vua
chúa phong kiến tại những khu vực có điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi cho
giao lƣu buôn bán. Về thành thị phong kiến Việt Nam hoàn toàn có thể dẫn
nhận xét của Mác: “Lịch sử của châu Á – đó là sự thống nhất không thể phân
chia giữa thành thị và nông thôn. Những thành thị lớn thực sự ở đây thực ra
có thể đƣợc xem là dinh lũy của vua chúa phong kiến, là cục bướu mọc trên
cơ thể kinh tế”. Về căn bản, các thành thị phong kiến Việt Nam đã đƣợc hình
thành và phát triển không bắt nguồn từ phân công lao động phát triển, mà là
từ việc phân phối lại sản phẩm xã hội cho nhu cầu tiêu dùng của bộ máy cai
trị và nhu cầu giao lƣu buôn bán. Trong khuôn khổ nền kinh tế tiểu nông, tự
nhiên, tự cấp, tự túc và đóng kín, các thành thị không có đƣợc vai trò và địa vị
kinh tế quan trọng đối với nông thôn và toàn xã hội nói chung. Về mặt xã hội,

23
quan hệ cộng đồng làng xã chiếm ƣu thế tuyệt đối. Các nhân tố cần thiết cho
sự phát triển công nghiệp buôn bán và sản xuất hàng hóa nói chung rất yếu ớt.
Những điều này đã có ảnh hƣởng quyết định tới sự phát triển các đô thị.
Các nghiên cứu lịch sử cũng cho thấy rằng, vào thế kỷ XVI-XVII, các
thành thị lớn nhƣ Thăng Long, Phố Hiến, Hội An đã phát triển khá phồn
thịnh. Đã có mầm mống của sản xuất hàng hóa - tiền đề cần thiết cho sự phát
triển các đô thị. Song trong điều kiện chế độ phong kiến tập quyền khá vững
mạnh, do chính sách "trọng nông ức thƣơng" và sự can thiệp của tầng lớp
phong kiến đã kìm hãm sự phát triển hàng hóa, không cho phép các thành thị
phong kiến Việt Nam lớn vƣợt lên thành các thành thị tƣ bản chủ nghĩa. Trên
một phạm vi rộng hơn, đây cũng là tình trạng chung của các thành thị phong
kiến phƣơng Đông (đặc biệt ở Trung Quốc). Ở đây, quá trình đô thị hóa Việt

Nam có thể xem là chƣa có sự khởi đầu.
1.2.2. Thời kì thuộc địa (1858 - 1954)
Sau khi thiết lập chính quyền đô hộ tƣơng đối vững vàng, thực dân
Pháp tăng cƣờng đầu tƣ khai thác tài nguyên Việt Nam để chuyển về chính
quốc. Để làm đƣợc điều đó, phải xây dựng các đƣờng giao thông quan trọng,
mở mang các thành phố cũ, xây dựng các thành phố mới. Các thƣơng cảng
Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng đƣợc mở rộng cho tàu buôn nƣớc ngoài vào
buôn bán. Hải Phòng năm 1872 còn là một làng chài, đến năm 1953 đã là một
hải cảng sầm uất. Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1943 có khoảng 498 nghìn ngƣời
thì sau đó 10 năm (1953) đã lên tới 1.614.200 ngƣời. Hà Nội năm 1943 có
119.700 dân, năm 1953 là 297.900 dân - tăng hơn hai lần.
Tuy vậy, tốc độ tăng dân số đô thị trong gần 100 năm đô hộ của thực
dân Pháp thực sự vẫn rất thấp. Năm 1931, tỉ lệ dân đô thị ở Việt Nam mới đạt
7,5% năm 1936: 7,9%; 20 năm sau, năm 1955 mới đạt 11%. Để so sánh, trong
20 năm này dân số đô thị toàn thế giới đã tăng từ 31% lên 48% tức là tăng

24
thêm 17%, trong khi ở Việt Nam tỉ lệ này là 3,1% (bằng 1/5 tốc độ tăng của
thế giới).
Về thực chất, các thành phố của Việt Nam thời kì này chủ yếu giữ vai
trò là các trung tâm hành chính, nơi đồn trú của bộ máy chính quyền thực dân
phong kiến, trung tâm thƣơng mại và là trạm cuối cùng thu vét tài nguyên
thuộc địa (Việt Nam) để đƣa về chính quốc (Pháp). Địa vị kinh tế và xã hội
của các thành phố còn quá yếu để có thể thu hút nhiều lao động và dân cƣ từ
nông thôn ra thành thị. Tuy nhiên, có thể lấy tỉ lệ 11% dân số đô thị vào năm
1955 làm xuất phát điểm cho quá trình đô thị hóa của Việt Nam.
1.2.3. Thời kỳ năm 1955 - 1975
Là một giai đoạn đặc biệt trong quá trình đô thị hóa Việt Nam, khi mà
đất nƣớc bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau, hai
quá trình có tác động trái ngƣợc nhau đến sự phát triển các đô thị.

Điều dễ thấy là: tiến hành công nghiệp hóa sẽ làm lớn thêm các thành
phố hiện có và hình thành phát triển các khu trung tâm công nghiệp, các điểm
dân cƣ kiểu đô thị, tức là tăng cƣờng quá trình đô thị hóa. Miền Bắc trong
những năm 1954-1964 là thời kì của đô thị hóa đƣợc tăng cƣờng. Mạng lƣới
các thành phố dần dần hình thành, phát triển và có ảnh hƣởng nhất định đến
sự phát triển nông thôn và xã hội nói chung.
Những năm 1965-1975, là thời kì chiến tranh ở cả hai miền đất nƣớc.
Thông thƣờng, chiến tranh là nhân tố kìm hãm ghê gớm cơ sở vật chất, kĩ
thuật, cấu trúc các đô thị, sút giảm dân số đô thị. Song trong điều kiện đặc thù
Việt Nam - cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ ở miền Bắc và
cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam lại gây ra hai tác động trái ngƣợc nhau.
Ở miền Bắc, để hạn chế thiệt hại do chiến tranh phá hoại gây ra, các
công trình công nghiệp quan trọng và một phần lớn dân cƣ ở thành phố đƣợc

25
chuyển về nông thôn tạo ra một quá trình "giải đô thị hóa" (deurbanisation)
tạm thời.
Ở miền Nam, do hoạt động chiến tranh, chính sách khủng bố và đàn áp
và đặc biệt là chiến dịch bình định nông thôn, "tát nƣớc bắt cá" của Mĩ và
chính quyền Sài Gòn, hàng triệu nông dân miền Nam buộc phải rời bỏ làng
quê trở thành ngƣời tị nạn và kéo vào các thành phố. Do kết quả của quá trình
đô thị hóa cƣỡng bức này, dân số đô thị miền Nam Việt Nam từ 15% vào năm
1960 đã tăng lên tới 60% vào đầu những năm 70. Dân số Sài Gòn từ 300 ngàn
đã tăng tới 3 triệu ngƣời (gấp 10 lần). Mức tăng còn cao hơn ở Đà Nẵng: từ
25 ngàn lên 300 ngàn ngƣời (gấp 12 lần). Dòng ngƣời tị nạn liên tục tràn vào
Sài Gòn đã biến nó thành một thành phố có mật độ dân số cao nhất thế giới:
34 ngàn ngƣời / 1km
2
. Chỉ sau ngày giải phóng 4-1975, mới có dòng di cƣ
ngƣợc lại từ thành phố về nông thôn. Song hậu quả của quá trình đô thị hóa

cƣỡng bức trong thời gian chiến tranh vẫn còn để lại những hệ quả cho tới
ngày nay, trong đời sống xã hội của các thành phố lớn ở phía Nam (ví dụ, các
khu nhà ổ chuột).
1.2.4. Thời kì năm 1975 đến nay
Sau một số năm khôi phục những gì chiến tranh tàn phá, quá trình đô
thị hóa dần dần lấy lại nhịp độ bình thƣờng trong điều kiện hòa bình. Nhiều
thành phố mới ra đời, nhiều điểm dân cƣ nông thôn trƣớc đây, các thị trấn, thị
tứ trở thành các điểm dân cƣ đô thị. Mạng lƣới đô thị của cả nƣớc hình thành
bao gồm 700 thành phố, thị xã, thị trấn đủ các cỡ, trong đó có hai thành phố
triệu dân (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh). Đáng lƣu ý là động thái tỉ lệ
dân đô thị trong thời gian này. Thời kì sau chiến tranh, do có những dòng di
cƣ ngƣợc từ thành thị về nông thôn, trong 5 năm 1975-1980 tỉ lệ dân đô thị
giảm từ 21,5% (1975) xuống 18,6% (1981). Từ 1982 tỉ lệ này mới lấy lại
chiều hƣớng tăng song khá chậm 1982: 19,2%; 1985: 19,3%; 1990: 19,51%.

×