Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Quản lý đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công nghệ Thành Đô trong bối cảnh phát triển mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 110 trang )

®¹i häc quèc gia hµ néi
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC


LƯU TRỌNG HƯNG


QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THÀNH ĐÔ TRONG
BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI


Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 601405

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC





HÀ NỘI 2009


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển giáo dục và đào tạo để phát huy tối đa nguồn lực con người
đang trở thành quốc sách hàng đầu và là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công việc phát
triển này là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ


quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng.
Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng chỉ rõ: “xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được
chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay
nghề của nhà giáo, thông qua việc quản lý, phát triển sự nghiệp giáo dục
đúng định hướng và có hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”.
Thực tế giáo dục trong nước và trên thế giới đã khẳng định rằng chất
lượng đội ngũ giảng viên có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng giáo dục –
đào tạo. Trong các trường cao đẳng, chất lượng này đang trở thành mục tiêu
phấn đấu trong vòng 3 – 5 năm tới và với đặc điểm riêng của mình, Trường
cao đẳng Công nghệ Thành Đô đang nỗ lực rút ngắn thời gian hơn nữa.
Trường CĐCN Thành Đô được thành lập theo mô hình mới tại Việt Nam về
trường cao đẳng công nghệ, là một trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực,
chất lượng cao của thời đại kinh tế tri thức. Với chức năng nhiệm vụ là đào tạo
nguồn nhân lực khoa học - công nghệ chất lượng cao ở trình độ cao đẳng và
nghiên cứu triển khai ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn nhằm phục
vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Trường CĐCN Thành Đô là mô hình thí điểm của cả nước về xây dựng
trường cao đẳng công nghệ đa ngành ngoài công lập và là trường tư đầu tiên


2
được thành lập theo chủ trương xã hội hoá công tác giáo dục thể hiện trong
Quyết định số 7687/QĐ - BG&ĐT – TCCB ngày 30/11/2004 của Bộ trưởng
Bộ giáo dục đào tạo. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên còn góp
phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu đưa. Trường CĐCN Thành Đô thành
một Trường Đại học tư thục đa ngành đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Nhìn lại gần 5 năm phấn đấu, xây dựng, mặc dù có nhiều tiến bộ nhưng
công tác quản lý ĐNGV của Trường vẫn còn bất cập: khâu đào tạo bồi dưỡng
ĐNGV chưa được quan tâm và xác định đúng hướng; công tác bố trí sắp xếp
ĐNGV đôi chỗ còn chưa phù hợp, không phát huy được năng lực, sở trường
của cán bộ; bên cạnh đó chưa có cơ chế chính sách đãi ngộ thỏa đáng để
khuyến khích ĐNGV và thu hút người tài. Vì vậy, lựa chọn đề tài “Quản lý
đội ngũ giảng viên Trƣờng Cao đẳng Công nghệ Thành Đô trong bối cảnh
phát triển mới”. là rất cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên của nhà trường, đáp ứng nhiệm vụ phát triển trường CĐCN Thành
Đô trong bối cảnh mới.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng ĐNGV của
Trường, đề tài có nhiệm vụ đề xuất một số giải pháp về quản lý ĐNGV
Trường CĐCN Thành Đô trong bối cảnh trường đang phấn đấu trở thành
Trường Đại học Thành Đô.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở l ý luận liên quan đến đề tài.
3.2. Phân tích thực trạng về quản lý ĐNGV Trường CĐCN Thành Đô từ năm
2004 đến nay.
3.3. Đề xuất giải pháp quản lý ĐNGV đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối
cảnh mới.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể: Đội ngũ cán bộ giảng viên Trường CĐCN Thành Đô


3
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý ĐNGV Trường CĐCN Thành
Đô trong bối cảnh mới.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu được thực hiện tốt các giải pháp quản lý ĐNGV, đặc biệt là việc

khai thác đầy đủ và tạo điều kiện phát triển tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này,
mục tiêu trở thành trường đại học đa ngành và từng bước đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực sẽ sớm được hiện thực hơn.
6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
6.1. Xây dựng cơ sở phương pháp luận cho việc Trường CĐCN Thành Đô
nhằm chỉ ra hướng đi đúng, những thành công, hạn chế, những quan điểm
chưa nhất quán trong công tác quản lý ĐNGV của Trường và cung cấp cơ sở
khoa học về các giải pháp cải tiến quản lý ĐNGV trong phạm vi nhà trường.
6.2. Phạm vi áp dụng của đề tài có thể áp dụng tới các trường cao đẳng mới thành
lập, và các kết luận của đề tài sẽ là tài liệu hữu ích đối với các cán bộ quản lý và
giảng viên của Trường CĐCN Thành Đô và các trường cao đẳng khác.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: tổng hợp v à phân tích tài liệu.
7.2. Phương pháp điều tra xã hội học.
7.3. Phương pháp chuyên gia và phương pháp thống kê xử lý số liệu.
8. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tự khoanh vùng lĩnh vực nghiên cứu là những vấn đề nội tại của
Trường CĐCN Thành Đô, và tập trung vào công tác quản lý ĐNGV từ khi
Trường được thành lập (11/2004) cho đến nay.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý ĐNGV
Chương 2: Thực trạng quản lý ĐNGV của Trường CĐCN Thành Đô
Chương 3: Các biện pháp quản lý ĐNGV trong bối cảnh phát triển mới.


4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

1. 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Sự ra đời của khoa học quản lý
Sử gia Daniel A. Wren nhận xét: “Quản lý cũng xưa cũ như chính con
người vậy” và cho rằng quản lý ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của
con người; nhưng chỉ thời gian gần đây người ta mới chú ý đến “chất khoa
học” của quá trình quản lý.
Vào khoảng những năm 500 – 200 trước công nguyên tại Hy Lạp đã
xuất hiện các quy định đạo đức công vụ, đã có trường đại học quản lý của
Socrate và khởi đầu các phương pháp khoa học để giải quyết vấn đề.
Năm 300 sau công nguyên, “Cấu trúc thứ bậc phi tập trung với chính
sách và sự kiểm soát chiến lược có tính tập trung” đã được nhà thờ Thiên chúa
giáo nêu ra.
Nhà văn Niccolo Machia Vell ( Italia, 1469 – 1572) trong “Những bài
diễn văn” đã tổng kết thành các nguyên tắc sau:
1. Mọi tổ chức sẽ ổn định, bền vững nếu các thành viên có quyền biểu
thị sự khác biệt của mình và giải quyết những xung đột giữa họ bên trong tổ
chức.
2. Khi các cá nhân bắt đầu xây dựng một tổ chức: “Nó còn tồn tại và
kéo dài chừng nào nó được sự quan tâm của nhiều người và họ muốn duy trì
nó tồn tại”.
3. Một người quản lý yếu kém có thể noi theo một người quản lý giỏi
hơn, nhưng không một người quản lý yếu kém nào lại có thể duy trì được uy
tín của mình.
4. Một người quản lý tìm kiếm sự thay đổi một tổ chức đã được hình
thành sẽ phải giữ lại chí ít cái bóng của thói quen cũ.


5
Nhà xã hội không tưởng người Anh là Robẻt OWen ( 1771 – 1858 ), là
một trong những người tiên phong trong việc nhận ra tầm quan trọng hàng đầu

của nguồn nhân lực.
Các quan điểm truyền thống đã ra đời hơn một thế kỷ nay, nhưng ý
nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn của chúng vẫn còn nóng hổi bởi lẽ các
học thuyết ấy ra đời trong bối cảnh nền văn minh công nghiệp đã phát triển và
vẫn tồn tại. Cho đến ngày nay vấn đề vẫn phải nghiên cứu để vận dụng được
các học thuyết và quan điểm đó trong bối cảnh hiện nay.
Thuyết quản lý khoa học (Sciencific Management) xuất hiện trong cuốn
sách “Những nguyên tắc quản lý khoa học” (The Principes of Scientific
Management) của Frederick Winlow Taylor (1856 – 1915) xuất bản năm
1911. F.W. Taylor được coi là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học, với các
nguyên tắc cơ bản của quản lý khoa học là:
1. Nghiên cứu một cách khoa học mỗi yếu tố của một công việc và xác
định phương pháp tốt nhất để hình thành yếu tố đó.
2. Tuyển chọn công nhân một cách cẩn trọng và huấn luyện họ hoàn
thành nhiệm vụ bằng cách sử dụng các phương pháp có tính khoa học đã được
hình thành;
3. Người quản lý hợp tác đầy đủ và toàn diện với công nhân để đảm bảo
chắc rằng người công nhân sẽ làm việc theo những phương pháp đúng đắn;
4. Phân chia công việc và trách nhiệm sao cho người quản lý có bộ phận
lập kế hoạch cho các phương pháp công tác khi sử dụng những nguyên lý
khoa học, còn người công nhân có nhiệm vụ thực thi công tác theo đúng kế
hoạch đó.
Trong thập kỷ 20 – 30 của thế kỷ XX, trước những biến đổi sâu sắc về
kinh tế, xã hội, một thuyết khác trong quản lý đã xuất hiện; đó là quan điểm về
hành vi (quan điểm hệ con người). Học thuyết này giúp người quản lý ứng xử
có hiệu quả hơn với những khía cạnh con người và khía cạnh nhân bản trong


6
một tổ chức. Thay vì quá chú trọng đến chức năng của người quản lý, thuyết

này gắng hướng dẫn cách người quản lý thực hiện cái họ phải làm, tức là họ
phải làm thế nào để lãnh đạo, hướng dẫn người dưới quyền và giao tiếp tốt với
những người dưới quyền.
1.1.2. Lịch sử phát triển của lý luận quản lý giáo dục
Hệ thống giáo dục, đặc biệt là trong các nhà trường phổ thông ở các
nước phát triển đã được những nhà nghiên cứu về lý luận và thực tiễn quản lý
giáo dục đặc biệt quan tâm. Nhà sư phạm Cô – men – xki ( 1592 – 1670) khi
đặt nền móng cho hệ thống các nhà trường, đã khẳng định vấn đề quan trọng
hàng đầu trong quản lý giáo dục là “ Tổ chức hệ thống giáo dục” trên quy mô
toàn xã hội.
Những nghiên cứu về quản lý giáo dục, quản lý nhà trường ở Liên Xô
đã được chú trọng vào những năm 50 của thế kỷ XX. Năm 1956, lần đầu tiên
đã xuất hiện cuốn “ quản lý trường học” của A.Pôpôp, như là một tập hợp khá
hoàn chỉnh các chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn của những người làm công tác
quản lý giáo dục, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý trường học.
Thời gian gần đây, các dịch giả và những nhà nghiên cứu khoa học quản
lý giáo dục ở Việt Nam đã dịch thành công và giới thiệu nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu phương tây về quản lý giáo dục, trong số
đó có các công trình: “Hành vi tổ chức giáo dục” ( Organnization Behavior in
Education) của Robert J. Owens (1995), “Quản lý giáo dục, lý thuyết, nghiên
cứu và thực tiễn” (Educational Administration – Theory, Resarch and
Practice) của Wayne.K Hoy, Cecil G. Míkel (1996)
Trong hơn một thế kỉ qua, giáo dục toàn cầu đã có những bước tiến vượt
bậc. Giáo dục cơ bản đã được quan niệm như một kết cấu hạ tầng xã hội, như
một động lực phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Chưa bao
giờ giáo dục được quan tâm như hiện nay. Hội nghị cấp cao toàn cầu về “ Giáo
dục cho mọi người” ở Jomtiem – Thái Lan (tháng 3 năm 1990) đã khẳng định


7

vai trò của giáo dục và đề ra “chương trình hành động” trên toàn thế giới về
giáo dục cơ bản cho mọi người. Như vậy, cả lý thuyết và thực tiễn đều đã song
hành thúc đẩy để “ Quản lý giáo dục” có quy mô toàn cầu và biểu thị một sự
thật về sự tồn tại có tính toàn cầu của “Thực tiễn quản lý giáo dục”
1.1.3. Khái quát những nghiên cứu về quản lý giáo dục ở Việt Nam
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm ở mức độ cao, sâu sắc,
toàn diện đến thực tiễn quản lý giáo dục.
Nghị quyết số 14/2005/NQ – CP ngày 2/11/2005 của chính phủ về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 đã nêu:
“Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng giảng viên
và cán bộ quản lý; xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ giảng viên và cán
bộ quản lý giáo dục Đại học. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại
học. Chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của
giảng viên, tầm nhìn chiến lược, nâng cao sáng tạo và tính chuyên nghiệp của
cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đổi mới phương thức tuyển dụng theo hướng khách
quan, công bằng và có yếu tố cạnh tranh. Hoàn thiện và thực hiện cơ chế hợp
đồng dài hạn, bảo đảm sự bình đẳng giảng viên biên chế hợp đồng, giữa
giảng viên ở cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập. Xây
dựng và ban hành chính sách đổi mới đối với giảng viên bao gồm tiêu chuẩn
giảng viên, định mức lao động, điều kiện làm việc, nhiệm vụ khoa học và công
nghệ, chế độ nghỉ dạy dài hạn để trao đổi học thuật và cơ chế đánh giá khách
quan kết quả công việc. Ban hành chính sách, chế độ kiêm nhiệm giảng dạy.
Đổi mới quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo
hướng giao cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện dựa trên các tiêu chuẩn
và điều kiện chung do Nhà nướcquy định. Định kì đánh giá để bổ nhiệm lại
hoặc miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư. Cải cách thủ tục hành chính
xét công nhận giảng viên, giảng viên chính”[12]



8
Nghị quyết cũng chỉ ra những yếu kém của công tác quản lý giáo dục,
quản lý đội ngũ giảng viên dẫn đến “ Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và
nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng
nhanh quy mô vừa phải bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. đặc
biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại học ít có điều kiện thường xuyên tiếp
cận, cập nhật tri thức và những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế
giới” [12]
Để thay đổi thực trạng đó, công tác quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường cần được chúng ta nghiên cứu một cách triệt để và nghiêm túc cả về lý
luận lẫn thực tiễn.
Vào những năm 70 – 80 thế kỉ XX, ở nước ta đã có một số nhà giáo
dục như. Hà Thế Ngữ, Nguyễn Lân, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Quang,
Phạm Minh Hạc có những bài viết và những đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này.
Riêng trong lĩnh vực nghiên cứu đã có các nhà khoa học như Đặng Quốc Bảo,
Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Đức Chính, Trần Khánh Đức, Nguyễn Thị Mỹ
Lộc, Đặng Bá Lãm… Trong những năm gần đây ở nước ta phương hướng
nghiên cứu về phát triển và quản lý nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục đã
được quan tâm đặc biệt; trong đó có những nghiên cứu của Đặng Ứng Vận về
“Công tác quản lý chất lượng giáo dục” (2004); Nguyễn Thị Hồng Yến về
“Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục hoà nhập ở Việt
Nam” (2005); Nguyễn Công Ngọ về “Thực trạng công tác quy hoạch đội ngũ
cán bộ quản lý trường THPT tỉnh Bắc Ninh” (2005). Đặc biệt nhiều nghiên
cứu về lý luận cơ bản ở trên đã trở thành cơ sở lý luận để các học viên cao học
và nghiên cứu sinh thực hiện thành công những luận văn thạc sĩ và luận án
tiến sĩ thuộc chuyên ngành quản lý giáo dục. Khái quát trên về những công
trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước liên quan đến đối tượng nghiên cứu
của luận văn cho thấy nhiều nghiên cứu đã đi sâu giải quyết những vấn đề lý
luận cơ bản về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực, nhưng



9
những nghiên cứu về biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giảng viên của một
trường đại học ngoài công lập trong điều kiện Việt Nam hiện nay còn ít và
chưa hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý đội ngũ giảng viên
trƣờng Cao đẳng Công nghệ Thành Đô trong bối cảnh phát triển mới”
không những góp phần nâng cao lý luận trong quản lý giáo dục ngoài công lập
mà còn là sự tổng kết thực tiễn giúp nhà trường nâng cao hơn nữa hiệu quả
quản lý phát triển đội ngũ giảng viên để hoàn thành cho được yêu cầu đào tạo
của nhà trường trong giai đoạn mới.
1.2. Cơ sở lí luận của vấn đề quản lý phát triển đội ngũ giảng viên
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý trở thành một
hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay
quản lý không những là một hoạt động cụ thể mà còn là một khoa học, một
nghệ thuật và là một trong những nghề phức tạp nhất trong xã hội. Các khái
niệm về quản lý cũng ngày càng phong phú, mở rộng và phát triển. Dưới đây
là một số định nghĩa khái niệm về quản lý.
Đề cập đến vấn đề quản lý C. Mác viêt: “ Tất cả mọi lao động trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cần
đến một sự chỉ đạo để tiến hành các hoạt động cá nhân và thực hiện các chức
năng chungphát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể, khác với sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều
khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[22].
Theo tác giả người Mỹ Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết
yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của
nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý là hình thành một môi trường mà con người
có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất với sự



10
bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với
kiến thức thì quản lý là một khoa học” [15].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.[4]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “ Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là
khách rthể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [30]
Thuật ngữ “quản lý” tiếng Việt gốc Hán gồm hai quá trình tích hợp vào
nhau: Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn duy trì ở trạng thái ổn định và
quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa vào thế phát triển. Nếu
người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc “quản”, tức là chỉ lo được một vế và ngược
lại. Như vậy, trong quá trình giữ cho hệ ổn định phải tạo mầm mống cho hệ
“phát triển”, nghĩa là trong “quản” phải có “lý” và khi thúc đẩy cho hệ “phát
triển” thì phải giữ hạt nhân của sự “ổn định”. Như vậy trong “Lý” phải có
“Quản”. Vậy phạm trù “quản” và “lý” gắn bó khăng khít, mật thiết với nhau
hay nói cách khác là “quản” và “lý” quan hệ biện chứng với nhau.
Từ các cách tiếp cận khác nhau như trên, ta thấy có điểm thống nhất khi
quan niệm về quản lý là: quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ
chức, có kế hoạch và hệ thống của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, hình
thành một môi trường mà con người có thể đạt được mục đích của nhóm với
thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất nhằm tạo nên sự phát triển.
Bản chất của hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ
chức bằng cách thực hiện các chức năng quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản: lập kế hoạch; tổ chức; lãnh đạo; kiểm
tra.
* Chức năng kế hoạch:



11
Đây là chức năng xây dựng các định hướng để ra quyết định thực hiện
trong thời gian nhất định của tổ chức. Lập kế hoạch bao gồm việc xác định sứ
mệnh, chức năng, nhiệm vụ, dự báo tương lai của tổ chức trên cơ sở thu thập
thông tin về thực trạng của tổ chức; từ đó xác định mục tiêu ( xa và gần ) dựa
trên việc tính toán các nguồn lực, các giải pháp. Mục đích của việc lập kế
hoạch là lựa chọn một đường lối hành động mà tổ chức nào đó và mọi bộ phận
của nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu cần thiết cho sự phát triển
của tổ chức. Chức năng lập kế hoạch là nền tảng của quản lý.
* Chức năng tổ chức
Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và
nguồn lực cho các bộ phận, các thành viên của tổ chức để họ có thể hoạt động
và đạt được các mục tiêu của tổ chức một cách hiệu quả; Tổ chức là một công
cụ của quản lý.
* Chức năng lãnh đạo
Để tổ chức hoạt động có hiệu quả, người quản lý cần thực hiện chức
năng lãnh đạo, chỉ đạo. Lãnh đạo là quá trình tác động điều hành, điều khiển
con người làm cho họ nhiệt tình, tự giác, nỗ lực phấn đấu đạt được các mục
tiêu của tổ chức. Người quản lý phải ra quyết định, có hướng dẫn, thông báo
để động viên mọi thành viên trong tập thể hăng hái làm việc.
* Chức năng kiểm tra, đánh giá
Đây là những hoạt động của chủ thể quản lý nhằm tìm ra những mặt ưu điểm,
mặt hạn chế, qua đó đánh giá, điều chình và xử lý những kết quả của quá trình
vận hành tổ chức, làm cho mục đích của quản lý được hiện thực hóa một cách
đúng hướng và có hiệu quả. Trên thực tế các chức năng trên diễn ra tuần hoàn
theo một chu trình với tính logic chặt chẽ và có liên quan mật thiết với nhau.






12
Sơ đồ 1.1: Quản lý

Phƣơng pháp quản lý
Các chức năng trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn bó, đan xen nhau,
thúc đẩy, tạo điều kiện và làm tiền đề cho nhau phát triển.
Các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý cho rằng: để hoạt động quản lý
đạt được hiệu quả cao thì quá trình quản lý không thể thiếu các cách thức, tác
động vào đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Cách thức đó
được hiểu là phương pháp của quản lý.
* Nhóm phương pháp kinh tế
Thực chất của nhóm phương pháp này là nhà quản lý đưa ra những chủ
trương, chính sách, bằng cách công khai hoặc gián tiếp nhằm tác động vào đối
tượng quản lý bằng lợi ích kinh tế thông qua các hình thức như tăng lương,
thưởng và các chế độ ưu tiên, ưu đãi.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp này là xây dựng phương thức tính
toán tuân theo các quy luật kinh tế để đưa quy luật này tác động tới tâm lý của
đối tượng. Đối tượng quản lý có thể lựa chọn phương án thích hợp để vừa đạt
được mục tiêu của tập thể vừa đạt được lợi ích cá nhân.
KẾ HOẠCH
TỔ CHỨC
LÃNH ĐẠO
KIỂM TRA


13
* Nhóm phương pháp hành chính, tổ chức

Đây là cách thức mà chủ thể quản lý dựa trên những văn bản pháp quy
và quyền lực của mình để đưa ra các quyết định yêu cầu khách thể quản lý
phải thực hiện. Nhóm phương pháp này được thực hiện dưới hình thức các chỉ
thị, nghị định, thông tư, nghị quyết, văn bản.
Đặc điểm của nhóm phương pháp này là tính bắt buộc đối với người bị
quản lý dưới tác động trực tiếp của người quản lý. Đây chính là sự phân công,
phân cấp, phân quyền, đồng thời cũng chính là sự thể hiện tính kỷ cương, nề
nếp của một tổ chức cùng với tính văn hóa của tổ chức.
Đây là nhóm phương pháp quản lý cơ bản, không thể xem nhẹ và rất
cần thiết trong công tác quản lý.
Ưu điểm của phương pháp này là làm cho hoạt động quản lý có căn cứ
pháp lý, tạo nên sự thống nhất từ trên xuống, có tính chất trực tiếp và bắt buộc.
Tuy nhiên, nếu lạm dụng phương pháp này sẽ dấn đến quan liêu, mệnh lệnh
cứng nhắc trong quản lý, làm mất đi tính chủ động, năng động, sáng tạo của
người lao động.
* Nhóm phương pháp giáo dục
Đây là cách thức mà chủ thể quản lý dùng các biện pháp đặc thù của
giáo dục như: quán triệt tinh thần, nghị quyết, học tập chính trị, đối thoại và
thông qua những biện pháp này tác động trực tiếp hay gián tiếp đến nhận thức,
thái độ, hành vi của đối tượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thành
nhiệm vụ của tổ chức.
Phương pháp này dựa vào quy luật tâm lý, chức năng tâm lý của con
người để kích thích sự say mê, củng cố niềm tin, tinh thần tự giác của các
thành viên trong tổ chức.
* Nhóm phương pháp tâm lý - xã hội.
Đây là cách thức tạo ra những tác động đến đối tượng quản lý bằng các
quy luật tâm lý xá hội nhằm biến những yêu cầu do người lãnh đạo đề ra thành
nghĩa vụ tự giác bên trong và nhu cầu của người thực hiện.



14
Đặc điểm của phương pháp này là sự khích lệ đối tượng quản lý để họ
toàn tâm, toàn ý cho công việc và coi những mục tiêu, nhiệm vụ quản lý của tổ
chức là những mục tiêu công việc của chính họ để từ đó họ tự giác học tập,
tích lũy kinh nghiệm và đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Tác động
của phương pháp này là nâng cao đạo đức, tình cảm nghề nghiệp, xây dựng
bầu không khí đoàn kết, tin trưởng, yên tâm gắn bó với tập thể lao động của
mình, trong đó mỗi người được phát huy năng lực, sở trường của mình, được
tập thể tin yêu, tôn trọng, được biểu dương khen thưởng kịp thời, đúng mức.
Trên thực tế, việc nâng cao đời sống cho cán bộ giảng viên và học sinh của
nhà trường, giải tỏa hợp tình, hợp lý các xung đột, xây dựng tốt các mối quan
hệ trong tập thể người lao động, tạo bầu không khí tâm lý lành mạnh, cởi mở,
thân thiện, tạo nếp sống văn hóa, giữ gìn truyền thống tốt đẹp, là thước đo hiệu
quả của phương pháp tâm lý xã hội.
Mỗi phương pháp quản lý có sự tác động riêng tới từng mặt của người
lao động. Do đó, không có biện pháp quản lý nào là chìa khoá vàng để quản lý
tốt tất cả các hoạt động của tổ chức. Quản lý vừa mang tính khoa học vùa có
tính nghệ thuật và người quản lý muốn thu được những kết quả cao nhất trong
hoạt động quản lý của mình phải biết vận dụng các phương pháp quản lý một
cách linh hoạt, sáng tạo và mềm dẻo trong từng tình huống quản lý cụ thể.
Việc sử dụng các phương pháp quản lý sẽ đạt hiệu quả như mong muốn,
các biện pháp của chủ thể quản lý xuất phát từ tính đa dạng của thực tiễn, từ
bản chất con người, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa thể hiện được “tính nghệ
thuật” của quản lý. Muốn vậy, người quản lý phải không ngừng học tập, bồi
dưỡng để có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm quản lý phong phú,
đồng thời nắm vững đặc điểm, tâm lý đối tượng quản lý để có thể tùy theo tình
hình và hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn, kết hợp các phương pháp một cách phù
hợp nhất. Chủ thể quản lý không nên tuyệt đối hóa một phương pháp, mà phải



15
biết kết hợp để phát huy hết những ưu điểm của từng phương pháp và khắc
phục những mặt hạn chế của chúng.
Tóm lại, quản lý là nghệ thuật tác động có ý thức để điều khiển, hướng
dẫn các quá trình và các hoạt động của con người nhằm đạt đúng mục đích của
nhà quản lý và phù hợp với các quy luật khách quan.
1.2.1.2. Quản l ý giáo dục
Trong quản lý giáo dục, việc xác định các mục tiêu, mục đích giáo dục
có ý nghĩa rất quan trọng; nếu xác định không đúng mục tiêu, mục đích trong
công tác quản lý giáo dục sẽ gây ra những tổn thất lớn lao và để lại những hậu
quả nặng nề.
Theo Nguyễn thị Mỹ Lộc - Nguyễn Quốc Chí thì : “Quản lý giáo dục là
hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan của các cấp
quản lý giáo dục tác động tới toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ
thống đạt được mục tiêu của nó.”[4]
Khái niệm về quản lý giáo dục, cho đến nay đã có nhiều định nghĩa
khác nhau, nhưng cơ bản đều thống nhất với nhau về nội dung, bản chất
Quản lý giáo dục bao gồm:
- Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý giáo dục cao cấp;
- Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học;
- Quan hệ quản lý: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người
dạy; quan hệ giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ người dạy
- người học; quan hệ giữa báo giới - cộng đồng… Các mối quan hệ đó có ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo. chất lượng hoạt động của nhà trường, của toàn
bộ hệ thống giáo dục.
Về mặt khoa học, quản lý giáo dục là sự điều khiển toàn bộ những hoạt
động của cộng đồng, điều khiển quá trình dạy học nhằm tạo ra những người có
đức, có tài phục vụ sự phát triển của xã hội.



16
Về bản chất, quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội được thể hiện ở
các mặt:
- Quản lý giáo dục là loại hình quản lý có đông đảo thành viên tham
gia.
- Bản thân quản lý giáo dục là hoạt động mang tính xã hội. đòi hỏi phải
huy động nhân lực, nguồn lực lớn.
- Giáo dục truyền đạt, lĩnh hội những giá trị kinh nghiệm lịch sử xã
hội tích luỹ qua các thế hệ. Xã hội muốn tồn tại, phát triển thì phải phát
triển GD – ĐT.
Nội dung quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản: Xây dựng và
chỉ đạo thực hiện chiến lược: Quy hoạch; kế hoạch; chính sách phát triển giáo
dục; ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục,
tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất thiết bị trường học; tổ chức bộ
máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý,
giáo viên; huy động quản lý sử dụng các nguồn lực…
Như vậy, “ Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp ( tổ chức, cán
bộ, kế hoạch hoá…) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan
trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [ 26 ]
Lý luận quản lý giáo dục có vai trò trọng yếu trong việc hình thành cơ
sở khoa học của:
- Chiến lựợc phát triển giáo dục, sự hình thành và phát triển cơ cấu hệ
thống giáo dục quốc dân;
- Các chính sách phát triển giáo dục, đòn bẩy kinh tế trong giáo dục,
định mức kinh tế - sư phạm;
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu
của việc thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục.



17
Cũng như các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội, quản lý giáo dục có
hai chức năng tổng quát sau:
- Chức năng ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện
hành của nền kinh tế - xã hội
- Chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ kinh
tế - xã hội.
Như vậy, quản lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà trường để
giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế.
Từ hai chức năng tổng quát trên, quản lý giáo dục phải quán triệt, gắn
bó với bốn chức năng, cụ thể là:
- Kế hoạch hoá
- Tổ chức
- Chỉ huy điều hành
- Kiểm tra
Hệ thống quản lý giáo dục hoạt động trong động thái đa dạng, phức tạp.
Quản lý giáo dục là quản lý các mục tiêu tường minh trong mối tương tác của
các yếu tố chủ đạo:
- Mục tiêu đào tạo
- Nội dung đào tạo
- Phương pháp đào tạo
- Lực lượng đào tạo
- Đối tượng đào tạo
- Hình thức tổ chức đào tạo
- Điều kiện đào tạo
- Môi trường đào tạo
- Quy chế đào tạo
- Bộ máy tổ chức đào tạo



18
Quản lý giáo dục chính là quá trình xử lý các tình huống có vấn đề phát
sinh trong hoạt động tương tác của các yếu tố trên, để nhà trường phát triển,
đạt tới chất lượng tổng thể bền vững, làm cho giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là
sức mạnh của nền kinh tế.
* Quản lý nhà nước về giáo dục
Nhà nước quản lý mọi hoạt động, trong đó có hoạt động giáo dục. Quản
lý về giáo dục là tập hợp những tác động hợp quy luật được thể chế hoá bằng
pháp luật của chủ thể quản lý nhằm tác động đến các phân hệ quản lý từ trung
ương đến tỉnh – thành và quận - huyện để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết
quả cuối cùng là chất lượng và hiệu quả đào tạo. Bộ máy quản lý giáo dục ở
các cấp từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo thống nhất quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ;
Quản lý nhà nước về giáo dục là một loại hình hoạt động. tuy chuyên
biệt nhưng ảnh hưởng đến toàn xã hội. Mọi quyết định, thay đổi của giáo dục
đều có ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
* Quản lý nhà trường
Nhà trường là một bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ
thống Giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của
nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng, phức tạp khác đều hướng vào hoạt động
trung tâm này. Do vậy, quản lý nhà trường là: “ Quản lý hoạt động dạy - học,
tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần
dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [ 26 ].
Theo Đặng Quốc Bảo: “ Trường học là một thiết chế xã hội trongđó
diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố
Thầy – trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy
của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở”: [1]


19

Quản lý nhà trường là một trong những nội dung quan trọng của hệ
thống quản lý giáo dục nói chung và cũng là một trong những cơ sở của
giáo dục.
Quản lý nhà trường là những công việc của nhà trường mà người cán bộ
quản lý nhà trường thực hiện những chức năng quản lý để thực hiện nhiệm vụ
công tác của mình. Đó chính là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và
hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà trường
nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà tiêu điểm là quá trình dạy và học.
Như vậy ta có thể hiểu công tác quản lý nhà trường bao gồm sự quản lý
các quan hệ nội bộ của nhà trường và quan hệ giữa nhà trường với xã hội.
Bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy, điều
khiển vận động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành tố.
Mối quan hệ đó được quá trình sư phạm trong nhà trường quy định.
Quản lý nhà trường là tổ chức, chỉ đạo và điều hành quá trình giảng dạy
của thầy và hoạt động học tập của trò, đồng thời quản lý những điều kiện cơ
sở vật chất và công việc phục vụ cho dạy và học nhằm đạt được mục đích của
GD – ĐT.
Chất lượng của giáo dục nói chung là do chất lượng của các nhà trường
tạo nên, bởi vậy khi nói đến quản lý giáo dục thì cũng là nói tới quản lý nhà
trường cùng với hệ thống giáo dục.
Kim chỉ nam cho việc quản lý nhà trường trong giáo dục hiện đại là
“Nhà trường là vầng trán của cộng đồng”. Thành tích của nhà trường thể hiện
ở kết quả học tập, sự tiến bộ của học sinh và việc đạt được mục tiêu giáodục
của nhà trường.
Quản lý nhà trường thực hiện hoạt động quản lý trong tổ chức nhà
trường. Hoạt động quản lý nhà trường do chủ thể quản lý nhà trường thực
hiện, bao gồm các hoạt động quản lý bên trong nhà trường như:
- Quản lý giáo viên;



20
- Quản lý học sinh, sinh viên;
- Quản lý quá trình dạy học, giáo dục;
- Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học;
- Quản lý tài chính trường học;
- Quản lý lớp học, quản lý quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng xã
hội.
1.2.1.3. Quản lý nguồn nhân lực
Nhân lực hiểu theo nghĩa chung nhất là nguồn lực con người. Trong
nền sản xuất và đời sống xã hội hiện đại, cùng với các nguồn lực khác (vật
chất, tài chính, công nghệ), nguồn lực con người hay nguồn vốn con người
có vai trò quan trọng và là nhân tố quyết định trong các hoạt động của đời
sống, xã hội.
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn con người
tích luỹ được và có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Theo Phạm Minh Hạc thì nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng
lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công
việc nào đó.
Theo Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý nguồn nhân lực là chức năng
quản lý giúp cho người quản lý tuyển mộ, lựa chọn, huấn luyện và phát triển
các thành viên của tổ chức” [26].
Quá trình quản lý nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động như:
- Sử dụng nguồn nhân lực: Đây là quá trình tuyển dụng, lựa chọn, sàng
lọc, bố trí, sử dụng, đánh giá, đãi ngộ và kế hoạch hoá sức lao động;
- Phát triển nguồn nhân lực: Hoạt động này gồm các nhu cầu: dinh
dưỡng và sức khoẻ; giáo dục và đào tạo; dân số và kế hoạch hoá gia đình; văn
hoá và truyền thống dân tộc; việc làm và phân phối thu nhập;
- Môi trường của nguồn nhân lực: Đây là hoạt động mở rộng chủng loại
việc làm; mở rộng quy mô việc làm; phát triển tổ chức.



21
Đối với ngành giáo dục, quản lý nguồn nhân lực chính là quản lý đội
ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên của ngành; trong đó cốt lõi là lực lượng
giảng viên, giáo viên. Việc xây dựng một đội ngũ giáo viên đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng năng lực – chuyên môn
nghiệp vụ cũng như phẩm chất của đội ngũ đó để đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ, năng cao chất lượng giáo dục là khâu trọng tâm trong quá trình quản lý
nguồn nhân lực giáo dục.
1.2.2. Giảng viên, đội ngũ giảng viên, quản lý phát triển đội ngũ giảng viên
1.2.2.1. Giảng viên
Khái niệm “Giảng viên” được khẳng định trong Điều 70 Luật Giáo dục
2005 “Nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong trường đại học và
sau đại học gọi là giảng viên”. Đây là những người “công chức, viên chức
chuyên môn đảm nhiệm việc giảng dạy, đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc
chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc cao đẳng”.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh
tế tri thức trong xã hội thông tin ngày nay đặt ra cho giáo dục đại học những
yêu cầu cao về năng lực, phẩm chất đạo đức đối với người giảng viên đại học.
Người giảng viên đại học cần phải phấn đấu để có trình độ cao hơn hẳn mặt
bằng đào tạo và phải thường xuyên tiếp cận, cập nhật tri thức mới nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp để có thể “đi trước một bước”
hay nói cách khác là “hơn hẳn” đối tượng đào tạo “một cái đầu”. Trong thời
đại ngày nay yêu cầu đối với giảng viên đại học phải vừa là nhà giáo dục, vùa
là nhà khoa học và thực sự tâm huyết với nghề.
Giảng viên là nhà giáo dục nghĩa là phải có trình độ chuyên môn cao về
lĩnh vực mình giảng dạy, có trình độ sư phạm nhất định, nắm được nguyên tắc
cơ bản của giáo dục học, tâm lý học, đặc điểm của đối tượng giáo dục, vận
dụng một cách mềm dẻo và khoa học các phương thức, phương pháp trong
quá trình tiến hành giáo dục…Bên cạnh đó người giảng viên cũng phải luôn



22
luôn có ý thức trau dồi, rèn luyện không những về kiến thức chuyên môn mà
còn phải rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong… để mình thực sự là một
người dạy, người thầy, đúng nghĩa cho người học noi theo.
Giảng viên là nhà khoa học nghĩa là họ phải là người có trình độ chuyên
môn cao, có khả năng tư duy khoa học của nhà nghiên cứu và thường xuyên
tham gia nghiên cứu khoa học, kịp thời nắm bắt các thông tin khoa học mới để
truyền thụ cho sinh viên. Yêu cầu đối với người giảng viên hiện nay là vừa
giảng dạy và vừa nghiên cứu khoa học và đây là nhiệm vụ chính yếu của họ.
Giảng viên phải là người tâm huyết với nghề: đây là một yêu cầu bắt
buộc đối với bất cứ nghề nào, nhưng đối với nghề “thầy giáo” thì yêu cầu
“tâm huyết” phải đặt lên hàng đầu vì sản phẩm của giáo dục là hàm lượng trí
thức, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống….của con người. Nếu người
thầy không có tâm huyết với nghề thì hậu quả thật khó lường. Bởi vì, sự tâm
huyết này thể hiện ở lòng say mê nghề nghiệp và là động lực rất lớn cho hoạt
động sáng tạo và phấn đấu vươn lên trong mỗi người thầy, cũng như truyền lại
sự tâm huyết ấy cho các thể hệ học trò.
1.2.2.2. Đội ngũ
Theo từ điển Tiếng Việt: “Đội ngũ là khối đông người được tập hợp có
cùng chức năng, nghề nghiệp, cùng một nhiệm vụ, tập hợp thành một lực
lượng” [31]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Đội ngũ là một tập thể người gắn kết với
nhau, cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và
hoạt động theo một nguyên tắc” [1]
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm đội ngũ, mặc dù từ
đội ngũ được dùng rộng rãi trong các tổ chức trong xã hội hiện nay như: đội
ngũ cán bộ công chức, viên chức, đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ nhà giáo, đội
ngũ trí thức… đều được hiểu là đội ngũ.

Như vậy, đội ngũ được tạo thành bởi các yếu tố cơ bản sau:


23
- Là một tập hợp người
- Hoạt động theo một nguyên tắc
- Gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất, tinh thần
Khái niệm đội ngũ tuy có các cách hiểu khác nhau, nhưng đều có chung
một điểm, đó là: Một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực
lượng, để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng
nghề nghệp, nhưng đều có chung một mục đích nhất định.
Từ các cách hiểu trên, có thể nêu chung: Đội ngũ là một tập thể gồm
số đông người, có cùng lý tưởng, có cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ
huy, thống nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng
như tinh thần.
Những nhà lãnh đạo - quản lý của ngành giáo dục và cơ sở đào tạo như
các viện, học viện, trường đại học, cao đẳng… phải làm thế nào để gắn kết các
thành viên trong đội ngũ giảng viên thành một đội ngũ cùng chung một mục
đích, lý tưởng, trong đó mỗi thành viên là một nhân tố quan trọng với đầy đủ
trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức người tri thức mới, tình nguyện thành
một khối đoàn kết thống nhất, tạo ra một đội ngũ nhà giáo lớn mạnh, rộng
khắp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giáo dục trong thời đại ngày nay
1.2.2.3. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là một tập thể người có cùng chung một mục đích,
đó là thực hiện giảng dạy đạt chất lượng và hiệu quả cao trên một cơ sở vật
chất, trang thiết bị được giao để, phục vụ nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục của
đội ngũ giảng viên đó. Trong thời đại ngày nay, đội ngũ giảng viên phải được
giảng dạy với những trang thiết bị hiện đại để nâng cao hiệu quả giáo dục và
đáp ứng được thực tế cuộc sống.
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa về đội ngũ giảng viên như sau:



24
Đội ngũ giảng viên là tập thể những nhà giá đƣợc tổ chức thành
một lực lƣợng có cùng chung nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục
đã đặt ra cho tập thể ngƣời đó.
Những nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên.
Những nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học
gọi là giảng viên.
Đội ngũ giảng viên là tập thể những nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục
cao đẳng, đại học và sau đại học. Được tổ chức thành một lực lượng tập hợp
các giảng viên của một trường đại học, cao đẳng nhất định thì được gọi là đội
ngũ giảng viên của trường đó. Khi nói đến đội ngũ giảng viên ta phải hiểu và
xem xét trên quan điểm hệ thống đội ngũ giảng viên là tập hợp của các thành
tố có mối quan hệ với nhau và bị ràng buộc bởi những cơ chế nhất định.
Vì vậy, mỗi tác động vào một thành tố đơn lẻ của hệ thống vừa có ý
nghĩa cục bộ, vừa có ý nghĩa toàn thể.
Đội ngũ giảng viên là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo: Họ là
người trực tiếp thực hiện và quyết định việc đổi mới nâng cao chất lượng đào
tạo và nghiên cứu trong các trường đại học.
Vì vậy, người giảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
dạy – học. Người giảng viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức đơn
thuần mà phải thực sự trở thành một người thiết kế, điều khiển để người học tự
giác và tích cực tham gia học tập; kích thích, khơi dậy hứng thú học tập của
người học để họ phát huy sáng tạo trong học tập.
* Giảng viên trong vai trò là người thiết kế
Giảng viên giảng dạy trong các trường cao đẳng – đại học trước hết họ
là người thiết kế mà thể hiện rõ nhất trong việc soạn thảo nội dung giảng dạy,
tạo tình huống để người học tự giác trong học tập. Trong quá trình soạn thảo

nội dung giảng dạy, giảng viên phải gắn bài giảng phù hợp với mục tiêu của

×