ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ PHƢƠNG MAI
QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI VÀ DU LỊCH HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lƣu Xuân Mới
HÀ NỘI - 2009
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
4
6. Giả thuyết khoa học
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc luận văn
4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO
VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG
5
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
5
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý công tác GVCNL ở trường cao đẳng
6
1.2.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
6
1.2.2. Quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Cao đẳng
12
Tiểu kết chương 1
33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN
CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI VÀ
DU LỊCH HÀ NỘI
35
2.1. Đặc điểm, tình hình trường Cao đẳng TMDL Hà nội
35
2.1.1. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ
35
2.1.2. Tổ chức nhà trường
36
2.1.3. Qui mô đào tạo, chất lượng đào tạo
40
2.2. Thực trạng công tác GVCNL ở trường cao đẳng TMDL Hà nội
44
2.2.1. Đội ngũ GVCNL
44
2.2.2. Chất lượng và hiệu quả công tác GVCNL
46
2.3. Thực trạng quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Cao
đẳng TMDL Hà nội
54
2.3.1. Thực trạng sử dụng các biện pháp quản lý công tác GVCNL
54
2.3.2. Chất lượng và hiệu quả quản lý công tác GVCNL
58
2.4. Nhận xét, đánh giá
60
2.4.1. Những mặt mạnh
60
2.4.2. Những mặt yếu, hạn chế
62
2.4.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong quản lý công tác
GVCNL ở trường Cao đẳng
64
Tiểu kết chương 2
66
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÓ HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG CAO
ĐẲNG
68
3.1. Một số nguyên tắc để đề xuất biện pháp quản lý công tác GVCNL
68
3.1.1. Đảm bảo tính khả thi
68
3.1.2. Bám sát và hướng đến việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu giáo dục
68
3.1.3. Đảm bảo tính đồng bộ trong việc thực hiện các biện pháp đề xuất
69
3.1.4 Đảm bảo tính pháp chế.
69
3.2. Một số biện pháp quản lý có hiệu quả đối với công tác GVCNL ở
trường cao đẳng
71
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý, giảng viên về ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc quản lý công tác GVCNL
71
3.2.2. Quản lý việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch của
GVCNL
74
3.2.3. Quản lý công tác tổ chức lớp học của GVCNL
76
3.2.4. Chỉ đạo và tiến hành kiểm tra, đánh giá công tác GVCN lớp
78
3.2.5. Tạo động lực để GVCNL hoàn thành tốt nhiệm vụ
81
3.3. Khảo nghiệm mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
đề xuất
85
Tiểu kết chương 3
87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
88
1. Kết luận
88
2. Kiến nghị
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
PHỤ LỤC
DANH MỤC SƠ DỒ, BẢNG BIỂU
STT
Tên sơ đồ, bảng biểu
Trang
Sơ đồ 1.1
Chu trình quản lý
9
Sơ đồ 1.2
Vị trí của GVCNL ở trường cao đẳng, đại học
14
Sơ đồ 1.3:
Cơ sở khoa học của quản lý
27
Sơ đồ 1.4
Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp
28
Bảng 2.1
Số lượng giáo viên trường cao đẳng Thương mại và Du
lịch Hà Nội
37
Bảng 2.2
Thống kê về trình độ chuyên môn đội ngũ giảng viên
39
Bảng 2.3:
Số lượng HS-SV theo từng loại hình đào tạo của nhà
trường
41
Bảng 2.4:
Qui mô đào tạo giai đoạn 2007-2012 và 2015
42
Bảng 2.5
Kế hoạch tuyển sinh đoạn 2007-2012 và 2015
43
Bảng 2.6
Tìm hiểu về nhận thức của giáo viên trường Cao đẳng
TMDL Hà Nội
44
Bảng 2.7
Đánh giá về kỹ năng, kinh nghiệm làm công tác
GVCNL và kết quả giáo dục học sinh cá biệt của
GVCNL
45
Bảng 2.8
Đánh giá về nhận thức về nội dung công tác GVCNL
47
Bảng 2.9
Đánh giá về mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm lớp
với học sinh và gia đình học sinh
50
Bảng 2.10
Các biện pháp giáo dục của GVCNL qua nhận xét của
HS-SV
51
Bảng 2.11:
Cán bộ quản lý nhà trường đánh giá về việc chỉ đạo và
công tác GVCNL
59
Bảng 2.12
Cách thức lựa chọn, bố trí, phân công GVCNL
59
Bảng 3.1
Kết quả khảo sát mức độ cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
86
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra chủ chương đổi mới toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: “Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội
dung phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
chấn hưng nền giáo dục Việt nam” [1, tr. 95].
Hiện nay chất lượng giáo dục toàn diện của nước ta đã có chuyển biến
bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được xã hội quan tâm. Điều 9 luật Giáo
dục năm 2005 đã ghi rõ: ”Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [28, tr. 67].
Chất lượng giáo dục là vấn đề quan trọng hàng đầu của hoạt động giáo
dục. Chất lượng giáo dục phản ánh mức độ thực hiện mục tiêu giáo dục, nội
dung, phương pháp giáo dục, quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động
giáo dục. Chất lượng giáo dục không tốt thì mục tiêu giáo dục không đạt
được. Trong thời gian gần đây chất lượng giáo dục được sự quan tâm, chú ý
của mọi người trong xã hội. Giáo dục ngày càng phát triển cả qui mô, phương
thức giáo dục và mạng lưới các cơ sở giáo dục. Đối với công tác giáo dục và
đào tạo thì đội ngũ giáo viên đóng một vai trò quan trọng. Điều 15 luật Giáo
dục năm 2005 đã ghi: ”Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo
chất lượng giáo dục” [28]. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục và của tất cả
các trường học.
Ở trường cao đẳng, người GVCNL có vai trò hết sức quan trọng vì lứa
tuổi học sinh cao đẳng từ 18-22 tuổi đang rất cần có sự giúp đỡ và định hướng
2
của người lớn. Với vốn kinh nghiệm sống ít ỏi của mình, các em sẽ khó tránh
khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh, mặt trái của nền kinh tế thị trường
như ở nước ta hiện nay.
Trước hết người GVCNL là người thay mặt Hiệu trưởng làm công tác
quản lý và giáo dục học sinh, sinh viên của một lớp học, là người gần gũi,
thân mật, là người hướng dẫn, chỉ đạo, khuyên nhủ học sinh, sinh viên mỗi
khi các em gặp khó khăn, là người cố vấn tin cậy của Chi đoàn lớp.
GVCNL có trách nhiệm quản lý, điều hành mọi hoạt động của tập thể
lớp và tác động đến sự phát triển nhân cách của từng học sinh, sinh viên trong
tập thể đó, chịu trách nhiệm trước nhà trường vì chất lượng giáo dục của lớp mình.
Để tổ chức các hoạt động giáo dục đạt hiệu quả, người GVCNL cần
phải có một hệ thống các kỹ năng nhất định. Trong mỗi kỹ năng họ phải thực
hiện một chuỗi các thao tác và công việc có quan hệ mật thiết với nhau. Vì
vậy, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng trau dồi, rèn luyện thường xuyên để thực
hiện các kỹ năng một cách thành thạo.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà trường, người Hiệu
trưởng cần phải quan tâm đến đội ngũ GVCNL, đây là lực lượng chủ đạo
trong công tác giáo dục của nhà trường.
Xây dựng đội ngũ GVCNL giỏi làm lực lượng nòng cốt là công tác có ý
nghĩa quyết định trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục ở các trường cao đẳng.
Sự phát triển của nhà trường gắn liền với sự tiến bộ và trưởng thành
của đội ngũ giáo viên, đặc biệt là các GVCNL. Chất lượng giáo dục toàn diện
của nhà trường phụ thuộc phần lớn vào kết quả công tác giáo dục của từng
giáo viên chủ nhiệm đối với lớp mà họ phụ trách. Công tác GVCNL là một bộ
phận quan trọng trong tổng thể các hoạt động của trường cao đẳng nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. Chất lượng giáo
3
dục là chất lượng sản phẩm của nhà trường và chất lượng sản phẩm này phải
đáp ứng yêu cầu sử dụng của xã hội trong từng thời kỳ.
Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà nội trong những năm qua,
quản lý công tác GVCNL có nhiều nét tiến bộ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tồn tại,
bất cập. Từ những căn cứ khoa học và thực trạng đã nêu, chúng tôi nhận thấy
việc quản lý công tác GVCNL là vấn đề quan trọng, cấp thiết, góp phần thiết
thực nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Chính vì vậy, chúng tôi đã
chọn để tài: ”Quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Cao đẳng
Thương mại và Du lịch Hà Nội” với mong muốn tìm được những biện pháp
quản lý phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GVCNL trong trường cao
đẳng.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để đề xuất các biện pháp quản lý có hiệu quả công tác giáo
viên chủ nhiệm lớp ở trường Cao đẳng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác GVCNL;
- Khảo sát thực trạng quản lý công tác GVCNL ở trường cao đẳng
Thương mại và Du lịch Hà nội;
- Đề suất một số biện pháp quản lý có hiệu quả đối với công tác
GVCNL ở trường cao đẳng.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Công tác GVCNL ở trường cao đẳng.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý có hiệu quả đối với công
tác GVCNL ở trường cao đẳng.
4
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu để đề xuất những biện pháp quản lý có hiệu quả đối với
công tác GVCNL ở trường cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà nội trong các
năm học từ 2006 đến 2009.
6. Giả thuyết khoa học
Quản lý công tác GVCNL ở trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch
Hà nội một số năm gần đây có nhiều tiến bộ, song vẫn còn một số tồn tại. Nếu
áp dụng các biện pháp quản lý công tác GVCNL do tác giả đề xuất thì sẽ nâng
cao được hiệu quả quản lý công tác GVCNL và góp phần quan trọng nâng cao
chất lượng giáo dục của nhà trường.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng ba nhóm phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận (thu thập, phân tích tổng hợp tài liệu
để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài);
- Phương pháp thực tế (quan sát, điều tra, đàm thoại, chuyên gia, khảo
nghiệm, tổng kết kinh nghiệm,…)
- Phương pháp bổ trợ (thống kê toán học để xử lý các số liệu khảo sát)
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
luận văn được trình bày trong 3 chương
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
ở trường Cao đẳng.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở
trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà nội.
Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lý có hiệu quả đối với công tác giáo
viên chủ nhiệm lớp ở trường Cao đẳng.
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ
NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Tại chỉ thị số 40/CT-TƯ ngày 15/6/2004 về việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã khẳng định: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu… đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” [1].
Muốn phát triển kinh tế xã hội thì trước hết phải xây dựng và thực hiện tốt
chiến lược phát triển toàn diện con người. Nguồn lực con người là sự kết hợp hài
hòa giữa trí lực, thể lực, nhân cách và kinh nghiệm sống. Vì thế trong nhiệm vụ
phát triển nguồn nhân lực luôn đặt ra mục tiêu phát triển con người. Con người
có phát triển đầy đủ và toàn diện thì mới có nhân lực chất lượng cao.
Ở nước ta hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đời sống
vật chất của nhân dân ta được cải thiện và ngày càng được nâng cao, nhân
cách con người đã có những biến đổi, bên cạnh mặt tích cực cũng đã xuất hiện
mặt tiêu cực, có ảnh hưởng đến công tác giáo dục trong nhà trường. Tình
trạng suy thoái về đạo đức của một bộ phận học sinh, sinh viên, ảnh hưởng
của lối sống thực dụng, chỉ biết hưởng thụ, không biết cống hiến, chán học,
bỏ học, mục đích động cơ học tập chưa rõ ràng, các tệ nạn xã hội len lỏi vào
nhà trường đó là những vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây. Vì vậy, nhà
trường, gia đình, xã hội, cần có sự liên kết chặt chẽ trong việc giáo dục học
sinh; trong nhà trường vai trò chính là đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên
chủ nhiệm lớp (GVCNL).
Về công tác GVCNL đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu, tìm hiểu,
phân tích, có thể kể đến các đề tài tiêu biểu như:
6
- Cải tiến việc quản lý đội ngũ GVCNL của Hiệu trưởng trường phổ
thông (đề tài cấp trường)- của Lưu Xuân Mới (chủ nhiệm đề tài). Trường Cán
bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo, Hà nội 1998.
- Giáo dục học (chương XVI. Người GVCNL)- của Phạm Viết Vượng.
NXB Đại học Quốc gia Hà nội, 2004.
- Phương pháp công tác của người GVCN ở trường Trung học phổ
thông- của Hà Nhật Thăng (chủ biên). NXB Đại học Quốc gia Hà nội, 2004.
Một số bài báo, tư liệu khác viết về công tác GVCNL như:
- Rèn luyện một số kỹ năng làm công tác GVCNL cho sinh viên cao
đẳng Sư phạm- Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 126 (11/2005)
- Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng làm công tác GVCNL cho sinh viên
cao đẳng Sư phạm- Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 135 (kỳ 1-4/2006).
Như vậy, cho đến nay, theo những tài liệu mà chúng tôi có được vẫn
chưa có những công trình đề cập đến các biện pháp quản lý công tác GVCNL
ở trường cao đẳng một cách đầy đủ và hệ thống.
Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi muốn tập trung nghiên
cứu vấn đề trên cả cơ sở lý luận, khảo sát thực tiễn ở trường cao đẳng Thương
mại và Du lịch Hà nội, đề xuất một số biện pháp quản lý công tác GVCNL ở
các trường cao đẳng nói chung, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện trong các trường cao đẳng trên địa bàn thủ đô Hà nội, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trƣờng
Cao đẳng
1.2.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người và
hoạt động này càng ngày càng phát triển trong xã hội. Trong quá trình lao
7
động, đấu tranh với thiên nhiên, để sinh tồn và phát triển con người cần phải
hợp sức lại với nhau để tự bảo vệ và kiếm kế sinh sống. Những hoạt động tổ
chức, chỉ đạo, điều khiển,…các hoạt động của con người nhằm thực hiện
những mục tiêu chung là những dấu ấn đầu tiên của quản lý.
Có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về nội dung,
thuật ngữ “quản lý”, có thể nêu một số định nghĩa như sau:
- Theo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về quản lý: quản lý xã hội
một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn
bộ hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng đắn những qui luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo
cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra.
- Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái
đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất (William-Taylor).
- Quản lý là sự tác động của cơ quan quản lý vào đối tượng quản lý, tạo
ra sự chuyển biến của toàn bộ hệ thống, hướng vào mục tiêu nhất định (giáo
trình quản lý- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
Quản lý là dạng lao động đặc biệt của người lãnh đạo, mang tính tổng
hợp các loại lao động trí óc, liên kết các bộ máy thành chỉnh thể thống nhất,
điều hoà, phối hợp các khâu, các cấp quản lý, hoạt động nhịp nhàng để tạo
hiệu quả quản lý. (Mai Hữu Khuê- Học viện Hành chính quốc gia).
- Quản lý là một hệ thống xã hội mang tính khoa học và nghệ thuật tác
động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt mục
tiêu đã đề ra. (Nguyễn Văn Lê- Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là sự tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý)- trong tổ chức- nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. Cũng theo đó các tác giả còn
8
phân định rõ hơn về hoạt động quản lý: là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ
chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra. [7].
Như vậy có thể khái quát: Quản lý là cách thức tác động (sự tác động
có tổ chức, có mục đích…) của chủ thể quản lý lên chủ thể bị quản lý bằng
các chế định xã hội, bằng tổ chức và nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất,
uy tín của cơ quan quản lý hay người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục đích trong điều kiện
môi trường luôn biến động.
Các nhà nghiên cứu về quản lý đã đưa ra nhiều đề xuất về nội dung của
các chức năng quản lý chung:
- F.W. Taylor (1856-1915) và Henrry Fayol (1841-1925) đưa ra năm
chức năng quản lý: kế hoạch hoá- tổ chức- chỉ huy- phối hợp- kiểm tra.
- Theo sách giáo khoa của trường Đảng cao cấp Liên Xô (cũ) có nêu ra
6 chức năng quản lý chung: soạn thảo mục tiêu- kế hoạch hoá- tổ chức- phối
hợp- động viên- kiểm tra.
- Theo tài liệu tập huấn cán bộ quản lý giáo dục của UNESCO đề ra 7
chức năng: kế hoạch hoá- tổ chức- bố trí biên chế- chỉ đạo- phối hợp- tổng
kết- quyết toán ngân sách.
- Ở Việt nam, theo cuốn “Quản lý trường phổ thông cơ sở” của Viện
khoa học giáo dục Hà nội năm 1998 (nay là Viện khoa học giáo dục Việt
nam) đã đề xuất hệ thống các chức năng quản lý là: kế hoạch hoá- tổ chức-
kích thích- kiểm tra- điều phối (phối hợp và điều chỉnh).
- Gần đây ở nước ta, trong quá trình quản lý người ta sử dụng các hệ
thống phân loại chức năng quản lý nêu trên, song có thể khái quát lại chỉ còn
4 chức năng cơ bản là:
+ Kế hoạch
+ Tổ chức (bao gồm cả việc thu thập nguồn dự trữ và bố trí biên chế)
9
+ Chỉ đạo (bao gồm cả việc động viên, kích thích giám sát và phối hợp).
+ Kiểm tra (bao gồm cả tổng kết, quyết toán và đánh giá)
Bốn chức năng đó quan hệ với nhau tạo thành một chu trình quản lý,
được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Chu trình quản lý
+ Kế hoạch: là chức năng khởi đầu, là bản thiết kế, kế hoạch là tiền đề,
là điều kiện của mọi quá trình quản lý. Kế hoạch có nghĩa là xác định mục
đích, mục tiêu đối với tương lai của tổ chức và biện pháp, cách thức để đạt tới
mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của nội dung kế hoạch: (a)
xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng đối với tổ chức); (b) xác định
và bảo đảm (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức
để đạt được mục tiêu này; (c) xác định xem những hoạt động nào là cần thiết
để đạt được mục tiêu đó.
+ Tổ chức: tổ chức là quá trình hình thành cấu trúc các quan hệ giữa
các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực
hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ
Thông tin
Quản lý
Tổ chức
Kế hoạch
Chỉ đạo
Kiểm tra
10
việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các
nguồn lực.
Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận
cùng các công việc của chúng và sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ sẽ nối ngay
sau các chức năng kế hoạch và tổ chức. Công tác tổ chức bao gồm việc xác
định và nhóm gộp các hoạt động, giao phó quyền hành của người quản lý và
tạo sự liên hợp thực hiện mục tiêu của tổ chức một cách tự giác và hăng hái.
+ Chỉ đạo: sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành,
nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có người lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Dù là
chỉ đạo hay tác động thì lãnh đạo vẫn là bao hàm việc liên kết, liên hệ với
người khác và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt
được mục tiêu của tổ chức. Tuy nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi
việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất mà nó thấm vào hai chức
năng kia.
+ Kiểm tra: kiểm tra là chức năng của người quản lý nhằm đánh giá,
phát hiện và điều chỉnh kịp thời giúp cho hệ quản lý vận hành tối ưu, đạt mục
tiêu đề ra. Kiểm tra là nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch trên thực tế,
phát hiện những sai lệch, đề ra biện pháp uốn nắn, điều chỉnh kịp thời. Kiểm
tra không hẳn là giai đoạn cuối cùng của chu trình quản lý, bởi kiểm tra không
chỉ diễn ra khi công việc hoàn thành có kết quả mà nó diễn ra trong suốt quá
trình từ đầu đến cuối, từ lúc chuẩn bị xây dựng kế hoạch.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một bộ phận quan trọng của xã hội, vì vậy quản lý giáo dục
là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống quản lý xã hội.
Quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội và như
vậy giáo dục sẽ được hiểu theo nghĩa rộng nhất, tuy nhiên các nhà nghiên cứu
11
về giáo dục và quản lý giáo dục đã đưa ra nhiều định nghĩa về quản lý giáo
dục như sau:
- Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điển hình phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh hoạt động đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, hoạt động giáo dục không chỉ giới hạn ở
thế hệ trẻ cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành các cơ sở giáo
dục- đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Quản lý giáo dục, quản lý trường học là một chuỗi tác động hợp lý (có
mục đích tự giác, có kế hoạch, có hệ thống) mang tính tổ chức sư phạm của
chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và tập thể sinh viên, đến những tập thể
giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng hoạt động, tham
gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho qui trình này vận hành
tới việc hoàn thành những mục đích dự kiến.
- Phạm Viết Vượng cho rằng: mục đích cuối cùng của quản lý giáo dục
là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông
minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của
bản thân và xã hội.
- Tác giả Nguyễn Minh Đường trong chuyên luận ”Bồi dưỡng và đào
tạo đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới- thuộc chương trình khoa học công
nghệ cấp nhà nước- Hà nội (1996) thì cho rằng quản lý giáo dục được hiểu ở
hai cấp độ:
+ Theo nghĩa rộng: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động,
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội hiện nay [15, 16].
+ Theo nghĩa hẹp: Quản lý giáo dục, quản lý trường học cụ thể là một
chuỗi tác động hợp lý (có mục đích tự giác, có kế hoạch, có hệ thống) mang
12
tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh,
đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ
cùng cộng tác, phối hợp tham gia vào hoạt động của nhà trường, nhằm làm cho
qui trình này vận hành tới việc hoàn thành những mục đích dự kiến [15, 17].
Theo chúng tôi, quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo
dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất.
Như vậy, bản chất của quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức
của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý và các thành tố tham gia vào quá
trình hoạt động giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.
1.2.2. Quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Cao đẳng
1.2.2.1. Người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường cao đẳng, đại học
a. Vị trí, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường cao đẳng, đại học
Trong những năm gần đây, về lý luận cũng như trên thực tế chưa có sự
nghiên cứu đầy đủ để tạo sự định hướng thống nhất cho công tác giáo viên
chủ nhiệm lớp, nhất là trong các trường đại học, cao đẳng, vì vậy hiệu quả
hoạt động của giáo viên chủ nhiệm lớp còn bị hạn chế.
Ở trường trung học phổ thông, GVCNL có vai trò đặc biệt trong việc
giáo dục nhân cách của học sinh, sinh viên. GVCNL là nhân vật trung tâm, là
linh hồn của lớp, tập hợp và đoàn kết học sinh trong tập thể. GVCNL có vai
trò to lớn trong việc tổ chức mọi hoạt động của lớp nhằm giáo dục học sinh.
GVCNL chủ động tổ chức, phối hợp các giáo viên giảng dạy bộ môn của lớp
để điều hòa chương trình, thống nhất về phương pháp, tiến trình giảng dạy
theo mục tiêu giáo dục năm học một cách có hiệu quả.
13
Có thể khẳng định: Trong nhà trường phổ thông, GVCNL như thế
nào thì lớp học sẽ như thế. Hiệu quả công tác của người GVCNL được thể
hiện chính trong các sản phẩm giáo dục của mình.
Ở trường đại học, cao đẳng, GVCNL là cán bộ giảng dạy, được Ban
Giám hiệu, quản lý Khoa cử đến từng lớp để thay mặt nhà trường hoặc Khoa
lãnh đạo lớp về các mặt chính trị, tư tưởng, chuyên môn và sinh hoạt tập thể.
Vì vậy, GVCNL là chiếc cầu nối giữa nhà trường, Khoa và các lực lượng giáo
dục trong nhà trường (tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tổ
chức Công đoàn, tổ bộ môn,…) với sinh viên, là người nắm bắt mọi chủ
trương của nhà trường, Khoa để truyền đạt tới sinh viên. GVCNL cũng là
người phối hợp cùng với các tổ chức trong và ngoài nhà trường tiến hành giáo
dục học sinh, sinh viên trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua vai trò lãnh đạo của
ban cán sự lớp và ban chấp hành Chi đoàn, góp phần thực hiện mục tiêu đào
tạo của trường.
Dưới góc độ thông tin khoa học trong quản lý, GVCNL được xem là
một trong những nút thông tin quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống thông
tin của nhà trường.
Vị trí của GVCNL ở trường cao đẳng, đại học được biểu diễn bằng sơ
đồ sau:
14
Sơ đồ 1.2 : Vị trí của GVCNL ở trường cao đẳng, đại học
Ghi chú:
- Mũi tên có nét đứt biểu thị mức độ có quan hệ không thường xuyên
- Mũi tên có nét liền biểu thị mức độ có quan hệ thường xuyên
Từ vị trí của người GVCNL trong sơ đồ trên, chúng ta thấy sự
trưởng thành của một tập thể lớp được biểu hiện ở sự tiến bộ của mỗi thành
viên trong tập thể, là kết quả giáo dục của mọi lực lượng giáo dục trong Khoa
Khoa
Hội đồng giáo viên
Ban cán sự lớp
BCH chi đoàn
Đoàn Thanh niên
GVCNL
Tổ chuyên môn
Lớp
BAN GIÁM HIỆU
15
cũng như trong trường. Trong đó mọi hoạt động tích cực của người GVCNL
có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục và đặc biệt là
đến kết quả của việc xây dựng tập thể lớp thành tập thể sinh viên “học tập tốt,
rèn luyện tốt”.
Trong trường học, mọi tác động tích cực của người GVCNL có thể
là trực tiếp hay thông qua đội ngũ cán sự lớp và hoạt động của tập thể, đều
nhằm tác động tới mỗi thành viên của tập thể sao cho hành vi và hoạt động
của họ đáp ứng được những yêu cầu của xã hội, có lợi cho cả xã hội, tập thể
lẫn cá nhân.
Do vậy mà dưới góc độ quản lý học, công tác của người GVCNL là
công tác quản lý, người GVCNL trong trường cao đẳng, đại học giữ vai trò là
người quản lý (chủ thể quản lý) còn tập thể và mỗi thành viên trong tập thể là
khách thể quản lý. Đối tượng quản lý là hoạt động của tập thể và tư tưởng,
hành vi của mỗi thành viên trong tập thể. Tuy nhiên việc quản lý con người
trong nhà trường không chỉ có GVCNL mà tham gia vào việc quản lý con
người, bên cạnh GVCNL còn có các lực lượng khác trong nhà trường như
Ban Giám hiệu, phòng công tác học sinh, sinh viên, ban chủ nhiệm Khoa, tổ
bộ môn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, ban cán sự lớp,… song
người GVCNL là người chịu trách nhiệm chính về mọi mặt hoạt động của tập
thể và mọi hành vi của mỗi thành viên trong tập thể lớp mình phụ trách. Quản
lý tốt con người, điều đó có nghĩa là GVCNL phải có những biện pháp tích
cực nhất, phù hợp nhất để tác động đến tư tưởng của mỗi người, có thể gián
tiếp thông qua đội ngũ cán sự lớp và mỗi thành viên trong tập thể, có thể trực
tiếp giữa GVCNL và mỗi thành viên trong tập thể nhằm hình thành ở họ
những hành vi đạo đức tốt.
Mặt khác, ở trường đại học, cao đẳng, người GVCNL không chỉ là
“linh hồn”, là “người cầm lái” trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, điều khiển mọi hoạt
động của lớp như ở trường phổ thông, mà người GVCNL ở trường đại học,
16
cao đẳng còn giữ vai trò là người “cố vấn” cho ban cán sự, ban chấp hành Chi
đoàn. Với vai trò này nhiệm vụ chính của người GVCNL là chỉ đạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ lớp phương pháp công tác, phát huy khả năng độc
lập, sáng tạo trong việc tổ chức, lãnh đạo, điều khiển mọi hoạt động của tập
thể lớp. Với vai trò này, người GVCNL chỉ can thiệp vào những vụ việc xảy
ra trong tập thể khi cần thiết. Điều quan trọng là quản lý được một cách chặt
chẽ mọi hoạt động của đội ngũ cán sự lớp, biết phát huy hết khả năng, năng lực
của đội ngũ cán sự lớp trong việc tổ chức, lãnh đạo mọi hoạt động của tập thể.
b. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường cao đẳng và đại học
Trong các trường cao đẳng và đại học, người GVCNL trước hết là
một cán bộ giảng dạy như các cán bộ giảng dạy khác của tập thể sư phạm.
Ngoài vai trò là một nhà giáo dục, người GVCNL còn đóng vai trò của một
người quản lý. Ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ của một người quản lý với
mục tiêu là hình thành ở mỗi thành viên của tập thể lớp những ý thức, hành vi
đạo đức tốt, trên cơ sở đó, xây dựng thành công tập thể lớp thành tập thể “học
tập tốt, rèn luyện tốt”, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của nhà
trường. Do vậy, với vai trò của người quản lý, người GVCNL ở trường đại
học, cao đẳng cũng có những chức năng quản lý, đó là chức năng lập kế
hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo, chức năng kiểm tra.
- Chức năng lập kế hoạch: là hoạt động soạn thảo và thông qua các
quyết định đặt ra mục đích, nhiệm vụ, những biện pháp, những con đường để
hoàn thành nhiệm vụ ấy. Nâng cao hiệu quả của hoạt động, vươn tới những
mục đích đã xác định. Thực chất của nó là xây dựng và thực hiện một hệ
thống quyết định (thông tư, chỉ thị, nghị quyết,…) bao gồm việc đặt ra các
mục tiêu, các biện pháp thực hiện mục tiêu, các điều kiện cần thiết cho triển
khai các hoạt động.
- Chức năng tổ chức: là hoạt động thực hiện kế hoạch bằng tổ chức,
nó diễn ra từ sau khi ban bố các quyết định về mặt kế hoạch cho đến khi kiểm
17
tra lần cuối cùng các kết quả thực hiện. Nó bao gồm các hoạt động như: xây
dựng cấu trúc tổ chức hợp lý cho đối tượng, xây dựng cấu trúc tổ chức cho
chủ thể quản lý, tạo mạng lưới các quan hệ tổ chức giữa những con người
trong quản lý, tuyển lựa sắp xếp bồi dưỡng cán bộ trong đội ngũ quản lý và
những người được quản lý; tổ chức lao động một cách có khoa học.
- Chức năng chỉ đạo: là hoạt động lựa chọn các phương tiện, các
hình thức tác động phù hợp vào quản lý con người nhằm khích lệ con người,
nỗ lực thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ một cách sáng tạo. Nó có thể
bao gồm các công việc như: khen, chê, thưởng, phạt, thi đua, động viên, nâng
cao uy tín,… Trong chức năng này người ta coi trọng việc xây dựng hệ thống
các nhu cầu và giải quyết thỏa đáng các lợi ích và quyền lợi chính đáng cho
mọi người.
- Chức năng kiểm tra: là hoạt động nhằm rà soát lại tiến trình vận
động của hệ thống trên cơ sở đối chiếu mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch xem có
phù hợp với quyết định quản lý hay không, thu thập, hệ thống hóa, phân tích
tình hình để hiểu được thực trạng, phát hiện những sai lệch và những thiếu
sót, tìm những nguyên nhân để khắc phục, phát hiện những nhân tố mới,
những kinh nghiệm tốt để bổ sung vào việc điều hành công việc. Hoạt động
này được thực hiện trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ mà kế hoạch đề ra.
Để thực hiện được các chức năng chủ yếu trên của người GVCNL,
nhà trường cần đưa ra những nhiệm vụ cụ thể của GVCNL, có những yêu cầu
nhất định cần có chế độ chính sách hợp lý và những điều kiện tối thiểu để
giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
18
c. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm ở trường cao đẳng và đại học
GVCNL ở trường phổ thông cũng như GVCNL ở trường cao đẳng,
đại học đều có nhiệm vụ đối với công tác chủ nhiệm lớp và hoàn thiện trình
độ nhân cách của bản thân để trở thành nhà sư phạm tốt.
- Truyền đạt và hướng dẫn lớp học sinh, sinh viên thực hiện những
chủ trương công tác của Khoa, của trường bằng cách nắm vững mục tiêu giáo
dục của khóa học, lớp học và chương trình dạy học, giáo dục của trường.
Ở mỗi trường đều có các văn bản cần thiết sau:
+ Mục tiêu khóa học
+ Chương trình giảng dạy các môn học
+ Kế hoạch năm học của nhà trường
+ Các văn bản hướng dẫn các công tác liên quan đến học sinh, sinh
viên như: qui định về thu học phí, miễn giảm học phí, chế độ chính sách đối
với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách, qui chế khen thưởng, kỷ luật
học sinh, nội qui nội trú, nội qui ngoại trú,…
GVCNL phải nắm vững các văn bản trên để tổ chức tốt việc giáo dục
lớp mình chủ nhiệm.
- Nắm vững cơ cấu tổ chức của nhà trường:
+ Nắm vững sự tổ chức, phân công của ban Giám hiệu
+ Nắm vững cơ cấu tổ chức của Chi bộ, Đoàn thanh niên, Công đoàn
nhà trường sau các đại hội hàng năm.
+ Hiểu biết về đội ngũ giáo viên, các tổ chuyên môn và số giáo viên
các môn dạy ở lớp chủ nhiệm. Việc quan trọng là hiểu từng giáo viên dạy ở
lớp chủ nhiệm về hoàn cảnh, trình độ, năng lực, tính cách để thiết lập mối
quan hệ trong giáo dục.
+ Nắm vững đội ngũ giáo viên phụ trách từng mặt trong hoạt động
giáo dục của nhà trường: văn nghệ, thể dục thể thao, thư viện, y tế, bảo vệ,…
19
(cần nắm vững tên, địa chỉ) để liên hệ, phối hợp hoạt động vì công tác giáo
dục của lớp chủ nhiệm.
- Nắm vững tinh thần học tập, rèn luyện, sinh hoạt của tập thể lớp và
từng học sinh, sinh viên trong lớp.
Để thực hiện nhiệm vụ này, GVCNL phải kết hợp nhiều phương
pháp, phối hợp với nhiều lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường. Việc
nhanh chóng hiểu từng học sinh trong lớp là một nội dung và nhiệm vụ rất
quan trọng của GVCNL. Trên cơ sở đó, GVCNL xây dựng một chương trình
giáo dục, tổ chức hoạt động toàn diện các mặt nhằm phát triển năng lực, phẩm
chất, nhân cách của học sinh, sinh viên lớp chủ nhiệm trên nguyên tắc phát
triển năng lực tự quản của các em.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác GVCNL nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục toàn diện học sinh và triển khai chương trình, kế hoạch năm học
của nhà trường.
GVCNL phải tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người thày giáo;
trau dồi lòng yêu nghề, yêu thương học sinh, sinh viên. Quan tâm tới mọi mặt
của từng học sinh lớp mình chủ nhiệm, và quan trọng nhất là giúp các em
hoàn thiện ý thức, thái độ, hình thành những phẩm chất, tình cảm trong sáng,
đúng đắn, xây dựng cho các em hoài bão, lý tưởng sống cao đẹp, có bản lĩnh để
tránh xa những cám dỗ, những ảnh hưởng tiêu cực đang diễn ra xung quanh.
Chỉ có thể ảnh hưởng tốt tới học sinh, sinh viên khi bản thân GVCNL
là một nhân cách tốt. Mọi giáo viên đều có ảnh hưởng không nhỏ đối với học
sinh trong nhà trường nhưng GVCNL là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất tới
học sinh, sinh viên lớp chủ nhiệm vì giữa GVCNL với học sinh, sinh viên
trong một lớp có một mối quan hệ thường xuyên, quan hệ tình cảm đặc biệt
thân thiết trong hoạt động. Nhiều GVCNL được học sinh, sinh viên vừa coi
như thầy- người hướng đạo cho các em vào đời, đồng thời vừa coi là người
thân như anh (chị), cha (mẹ), đan xen trong đó cả tình bạn gần gũi, tâm tình.
20
+ Chỉ có thể trở thành một GVCNL tốt khi GVCNL thực sự là một tấm
gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ
với học sinh, sinh viên lớp chủ nhiệm mà còn đối với gia đình, đồng nghiệp,
với mọi người ở cộng đồng nơi ở và toàn xã hội. GVCNL phải là một hình
ảnh mẫu mực của một công dân đối với nhiệm vụ được xã hội, nhà trường
giao phó, tôn trọng các qui định của pháp luật.
Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu
hiện của người GVCNL đối với mọi hiện tượng, lúc có mặt hay không có mặt
học sinh, sinh viên đều có ảnh hưởng tới nhân cách học sinh, sinh viên lớp
chủ nhiệm.
+ GVCNL có trách nhiệm theo dõi tình hình thời sự, chính trị trong và
ngoài nước nhằm hoàn thiện nhân cách, góp phần thực hiện công tác
GVCNL.
GVCNL có nhiệm vụ chủ yếu là tự nghiên cứu những vấn đề có liên
quan đến sự phát triển của khoa học, của môn học đến việc giáo dục học sinh,
sinh viên. Tuy nhiên, sự am hiểu rộng về chính trị, thời sự, văn hóa, khoa học
kỹ thuật trong nước và những vấn đề nhân loại đang quan tâm, đang phải đối
đầu là rất cần thiết. Theo dõi kịp thời để nắm bắt những diễn biến về mọi mặt
ở địa phương. Thông qua đó, nâng cao nhận thức, hình thành thái độ đúng
đắn, đồng thời rèn luyện cho học sinh, sinh viên năng lực tư duy nhạy bén,
hoạt động sáng tạo, thích ứng với cuộc sống đa dạng, phong phú đang diễn ra
hàng ngày.
Trong sự nghiệp đổi mới, những phong trào xã hội có ý nghĩa giáo dục
như phong trào “sinh viên nghèo vượt khó”, “sáng tạo robot con”,… đã làm
nảy sinh biết bao tấm gương người tốt, việc tốt trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tích cực tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện