1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
ĐINH VIẾT XUÂN
QUẢN LÝ CÔNG TÁC BỒI DƢỠNG ĐỘI NGŨ GIẢNG
VIÊN TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KỸ THUẬT
CÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS: TRẦN KHÁNH ĐỨC
HÀ NỘI - 2009
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển giáo dục là bí quyết thành công, là con đường ngắn nhất, đi tắt,
đón đầu trong công cuộc CNH - HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh tạo điều kiện cho mỗi quốc
gia đào tạo ra nguồn nhân lực và là nguồn gốc để bồi dưỡng nhân tài, làm giàu
thêm “nguyên khí của quốc gia” là nguồn tài sản vô giá của dân tộc và nhân loại.
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Khoá VIII Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: để nâng cao chất lượng Giáo dục - Đào tạo thì
giải pháp có tính quyết định là xây dựng phát triển đội ngũ nhà giáo. Ngày 15
tháng 6 năm 2004 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 40-CT/TW về
việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục. Trong Chỉ thị này Ban Bí thư đã nhấn mạnh: “ phải tăng cường xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là
nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài,
nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 và chấn
hưng đất nước”.
Trong hệ thống giáo dục đại học nói, chất lượng đội ngũ giảng viên có
ảnh hưởng to lớn và mang tính quyết định đến chất lượng đào tạo. Do vậy
công tác quản lý phát triển đội ngũ giảng viên về quy mô, cơ cấu, chất lượng
luôn giữ vị trí quan trọng có tính sống còn của Nhà trường và hiện nay mang
tính thời sự và cấp thiết.
Đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt về các lĩnh vực
kỹ thuật và công nghiệp, ngày 17 tháng 02 năm 2004 Bộ Công nghiệp đã có
công văn số 660/CV-TCCB ban hành đề án “quy hoạch, sắp xếp, nâng cấp các
trường thuộc Bộ Công nghiệp giai đoạn 2004 - 2020” nhằm tập trung phát triển
nâng cao chất lượng đào tạo để có được một nguồn nhân lực có đủ phẩm chất
đạo đức cách mạng, có trí tuệ, năng lực đáp ứng cho yêu cầu sự nghiệp đẩy
5
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước những đòi hỏi này, những
năm qua đội ngũ giảng viên Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp đã
thực sự là nòng cốt trong việc hoàn thành tốt các nhiệm vụ đào tạo thế hệ sinh
viên mới. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới về nâng cao chất lượng đào tạo
của bản thân nhà trường cũng như những đòi hỏi của quá trình xây dựng nền
kinh tế ở nước ta, đội ngũ giảng viên Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công
nghiệp tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục để thực sự đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục - đào tạo như đề án:
“Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
giai đoạn 2005 - 2010” của Chính phủ phê duyệt ngày 11 tháng 01 năm 2005
theo quyết định số 09/2005/QĐ-TTg.
Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp cũng nằm trong tình trạng
nói trên, còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng và cơ cấu chưa thật hợp
lý, còn nhiều bất cập. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang
đòi hỏi nền giáo dục quốc dân nói chung, giáo dục đại học nói riêng phải
nhanh chóng khắc phục những mặt yếu kém, khiếm khuyết, phải “thực hiện
chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá giáo dục” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, trang 190), nhanh chóng củng cố, “phát triển đội ngũ giáo
viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm”.
Trong bối cảnh chung cũng như trong điều kiện phát triển của Nhà
trường, chất lượng đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng, trong đó không thể
không kể đến vai trò của đội ngũ cán bộ QLGD và đội ngũ giảng viên trực tiếp
tham gia giảng dạy. Chất lượng đội ngũ giảng viên phụ thuộc vào trình độ
chuyên môn của họ cùng với việc rèn luyện năng lực sư phạm. Tuy nhiên
trước những yêu cầu ngày càng cao của sự đổi mới thì đội ngũ giảng viên còn
bộc lộ một số mặt hạn chế như chất lượng đội ngũ giảng viên chưa mạnh, công
tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế chưa chủ động được kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng nâng chuẩn đội ngũ giảng viên
6
Hơn nữa, chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhiều công nghệ sản xuất mới, hiện đại được đưa vào áp dụng sản xuất.
Bởi vậy đội ngũ giảng viên nếu không được nhanh chóng bồi dưỡng nâng cao
trình độ thì không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và đương nhiên với trình độ, kiến thức
cũ của họ sẽ không đáp ứng được với những yêu cầu mới của sự phát triển, của
những thiết bị mới, hiện đại. Vấn đề quản lý đội ngũ giảng viên trong các
trường đại học, cao đẳng đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn.
Trong những năm qua Trường đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp đã có
nhiều cố gắng trong công tác quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. Song trên
thực tế vấn còn có nhiều bất cập về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực sư phạm của đội ngũ giảng viên.
Xuất phát từ những lý do trên, để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên cũng như giúp đội ngũ giảng viên hoàn thiện và nâng cao trình độ
tiến tới đạt chuẩn về đội ngũ, tôi chọn đề tài:
"Quản lý công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại trường Đại học
Kinh tế kỹ thuật Công nghiệp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn công tác bồi dưỡng và quản lý công
tác bồi dưỡng nâng cao trình độ giảng viên tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ
thuật Công nghiệp giai đoạn 2008 – 2015. Trên cơ sở đó nghiên cứu, đề xuất
một số biện pháp quản lý bồi dưỡng theo quan điểm quản lý nhân sự tổng thể
để chuẩn hoá, nâng cao trình độ chuyên môn của giảng viên tại Trường Đại
học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp giai đoạn 2008 - 2015
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ
thuật Công nghiệp (cơ sở lý luận và thực tiễn)
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng giảng viên.
7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý giảng viên (quản lý nhân sự) nói
chung và quản lý hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của
đội ngũ giảng viên nói riêng tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công
nghiệp giai đoạn 2008 - 2015
4.2. Xác định thực trạng công tác bồi dưỡng và quản lý công tác bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên và quản lý hoạt động bồi dưỡng giảng viên ở trường Kinh
tế Kỹ thuật Công nghiệp. Đánh giá mặt mạnh, mặt tồn tại và nguyên nhân
4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giảng viên để
chuẩn hoá và nâng cao trình độ giảng viên
5. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện tốt một số biện pháp bồi dưỡng giảng viên trên cơ sở phân
tích tình hình thực tế, đánh giá đúng thực trạng và theo quan điểm quản lý
nhân sự tổng thể thì sẽ đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá và nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ
thuật Công nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đề tài xây dựng cơ sở khoa học - thực tiễn và đề xuất một số biện pháp
quản lý bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật
Công nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển đội ngũ giảng viên của nhà trường
trong thời gian tới
- Đưa vào áp dụng thử nghiệm một vài biện pháp tại Trường Đại học
Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Xác định cơ sở lý luận về bồi dưỡng
giảng viên và quản lý hoạt động bồ dưỡng giảng viên tại trường Đại học Kinh
tế Kỹ thuật Công nghiệp thông qua các Văn kiện của Đảng, Nhà nước, nghiên
cứu sách báo, tài liệu và các báo cáo khoa học trong và ngoài nước có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu
8
Phương pháp điều kiện khảo sát: Đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên
và công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng giảng viên tại trường Đại học Kinh tế
Kỹ thuật Công nghiệp
Phương pháp chuyên gia: Tham khảo lấy ý kiến một số chuyên gia ở các
đơn vị (các cơ quan nghiên cứu, các đơn vị khác, cán bộ chỉ đạo ) về các vấn
đề được đề xuất.
Phương pháp tổng kết các kinh nghiệm: Trên cơ sở thực tiễn về công tác bồi
dưỡng và quản lý bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
giảng viên của trường, tổng kết kinh nghiệm để đề xuất các biện pháp quản lý nhằm
nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu trong điều kiện mới.
8. Giới hạn và phạm vi đề tài
8.1. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp quản lý bồi dưỡng
giảng viên đang trực tiếp giảng dạy tại trường Đaị học Kinh tế Kỹ thuật Công
nghiệp
8.2. Đề tài chỉ giới hạn ở những biện pháp quản lý bồi dưỡng về chuyên
môn cho đội ngũ giảng viên gồm: Bồi dưỡng chuyên môn chuyên ngành và
nghiệp vụ sư phạm
9. Kế hoạch thực hiện
Bắt đầu từ tháng 3 năm 2008, kết thúc tháng 12 năm 2008
Quý 1: Xác định đề tài, viết bản thảo thông qua thầy hướng dẫn
Quý 2: Thu thập tài liệu, nghiên cứu lý luận, khảo sát các số liệu
Quý 3: Nghiên cứu tài liệu, tổng hợp số liệu khảo sát, viết bản thảo thông
qua thầy hướng dẫn.
Quý 4: Hoàn chỉnh và bảo vệ luận văn
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về công tác bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên
9
Chƣơng 2: Thực trạng công tác bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên ở Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ giảng viên tại Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC BỒI DƢỠNG VÀ QUẢN
LÝ BỒI DƢỠNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Quản lý
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Từ khi xuất hiện hoạt động lao động tạo ra các giá trị phục vụ cuộc sống
đã hình thành sự phân công lao động, sự hợp tác lao động trong một tổ chức
nhất định nhằm đạt hiệu quả và năng suất lao động cao hơn. Do đó cần có
người đứng đầu để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh…, xuất hiện người
quản lý và sự quản lý.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1: QL khi là động từ mang ý nghĩa:
- “Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định
- “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định
Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá
trình liên hệ chặt chẽ với nhau: “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm sự coi
sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm việc sửa
sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế “vận động và phát triển”. Nếu người
quản lý chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì
trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến việc “lý” thì tức là chỉ lo việc sắp xếp, tổ
chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì hệ vận động và
phát triển không bền vững. Nói chung, trong “quản” phải có “lý” và trong “lý”
phải có “quản”, làm cho trạng thái hoạt động của hệ ở thế cân bằng động. Hệ
vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân
10
tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực). Sự quản lý đưa
đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ thuật làm cho
hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau.
Có nhiều cách nhìn khác nhau về khái niệm QL:
- Nói đến QL không thể không nhắc đến tư tưởng sâu sắc của Các-
Mác, ông nhìn nhận vấn đề QL dưới ý tưởng phân công và hợp tác trong lao
động: “Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng”
- Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Khổng Tử (551 - 479 TCN) cũng đã xác
định vai trò của người quản lý, đó là người quản lý mà chính trực thì không
cần phải tôn nhiều công sức mà vẫn khiến người ta phải làm theo trong việc
“chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
- Warren Bennis, một chuyên gia nổi tiếng về nghệ thuật lãnh đạo đã
từng nói rằng: “ Quản lý là một cuộc thử nghiệm gắt gao trong cuộc đời mỗi cá
nhân, và điều đó sẽ mài giũa họ trở thành các nhà lãnh đạo”. Tiếng Việt cũng
có từ “quản lý” và “lãnh đạo” riêng rẽ giống như “manager” và “leader” trong
tiếng Anh. Trong thực tế chúng ta vẫn thường lẫn lộn hai khái niệm . Không
phải nhà quản lý nào cũng là nhà lãnh đạo và không phải nhà lãnh đạo nào
cũng là nhà quản lý.
- Theo Haror Koontz, QL là một hoạt động thiết yếu đảm bảo sự phối
hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt đến mục tiêu tổ chức nhất định.
- Theo Mariparker Follit (1868 - 1933), nhà khoa học chính trị, nhà triết
học Mỹ thì: “Quản lý là một nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông
qua người khác”.
- Tư tưởng và quan điểm “quản lý” đã có từ cách đây hơn 2500 năm
nhưng cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề quản lý theo khoa học
mới xuất hiện. Người khởi xướng là Fredrich Winslow Taylor với cuốn sách
11
“Các nguyên tắc quản lý theo khoa học”. Theo ông thì người quản lý phải là
nhà tư tưởng, nhà lên kế hoạch chỉ đạo tổ chức công việc.
- Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo trong cuốn “Cơ sở khoa học quản
lý” thì “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ
thể QL đến khách thể QL về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế,… bằng
một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp
và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát
triển của đối tượng”.
- Tác giả Đỗ Hoàng Toàn trong cuốn “Lý thuyết quản lý” cho
rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến
động của môi trường”.
- Trong cuốn “Khoa học tổ chức và quản lý”, tác giả Đặng Quốc Bảo
quan niệm: “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung”; “Quản lý là một quá
trình lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của các thành
viên trong một tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt dược
những mục tiêu cụ thể”.
Khi bàn đến hoạt động QL và người QL cần khởi đầu từ khái niệm “tổ
chức”. Do tính đa nghĩa của thuật ngữ này nên ở đây chúng ta chỉ nói đến tổ
chức như một nhóm có cấu trúc nhất định những con người cùng hoạt động vì
một mục đích chung nào đó mà để đạt được mục đích đó một con người riêng
lẻ không thể đạt đến. Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và qui mô ra
sao đều cần phải có sự QL và có người QL để tổ chức hoạt động và đạt được
mục đích của mình.
Từ các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, chúng ta thấy rằng tất
cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm QL, đó là trả lời câu hỏi:
12
Ai quản lý? (Chủ thể quản lý); Quản lý ai? Quản lý cái gì? (Khách thể quản
lý); Quản lý như thế nào? (Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái gì? (Công
cụ quản lý); quản lý để làm gì (Mục tiêu quản lý) và từ đó chúng ta có thể đưa
ra định nghĩa:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển,
liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất,
điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục
tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý là hệ thống gồm bốn chức năng:
(1) Kế hoạch: Đây là khâu đầu tiên của chu trình quản lý.
(2) Tổ chức: Sự chuyển hóa những ý trưởng trong kế họach thành hiện thực.
(3) Chỉ đạo: Điều khiển hệ thống là cốt lõi của chức năng chỉ đạo, nó tích
hợp với hai chức năng trên.
(4) Kiểm tra: Là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý.
Trong một chu trình quản lý cả bốn chức năng trên phải được thực hiện
liên tiếp và đan xen vào nhau; phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối giữa
chu trình này sang chu trình theo hướng phát triển trong đó thông tin luôn là
yếu tố xuyên suốt không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng QL và là
cơ sở cho việc ra quyết định trong QL.
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có
giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc,
nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không ngừng tiến lên. Giáo
dục tồn tại, vận động và phát triển với tư cách là một hệ thống. Theo cách nói
của Marx thì “dàn nhạc” giáo dục trong quá trình tồn tại và phát triển tất yếu
phải có “nhạc trưởng” là QLGD. Về QLGD cũng có khá nhiều quan điểm,
13
được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi, từ vĩ mô đến vi mô và có nhiều định
nghĩa như sau:
Trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”, tác giả M.I
Kônđacốp định nghĩa: “ Quản lý giáo dục là tập hợp các biện pháp tổ chức cán
bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường
của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ
thống cả về mặt số lượng cũng như mặt chất lượng”.
Theo X.T.Groupe Lewin trong cuốn “Hỗ trợ từ xa - Giải thích thuật ngữ
tâm lý giáo dục” của Dự án Việt Bỉ thì “Quản lý giáo dục là quá trình nghiên
cứu khoa học về các sự kiện và phương pháp tham gia và quyết định tổ chức
hoạt động giáo dục và khoa học quản lý chương trình giáo dục”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho
hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất”.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát
là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”.
Đối với tác giả Phạm Minh Hạc thì “Quản lý giáo dục là quản lý trường
học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục
tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với
từng học sinh”.
Theo UNESCO: QLGD là cách thức điều hành hệ thống giáo dục, nhất là
các quy trình, thủ tục, quy định, quy chế… và cách thức vận hành của hệ thống
giáo dục, tất cả các cấu phần hoạt động của hệ thống.
14
Quản lý giáo dục gồm 3 lĩnh vực:
- QL chính sách (hoạch định chính sách, lập kế hoạch, thực hiện chính
sách và phân bổ nguồn lực).
- QL hành chính (sử dụng nguồn lực tài chính, con người và vật chất).
- QL sư phạm (sử dụng giáo viên, tổ chức quá trình dạy học, quá trình
giáo dục, thành tích và quá trình học tập
Ngày nay, GD không còn là một thứ phúc lợi xã hội đơn thuần vì nó được
gắn với quá trình phát triển xã hội. Việc đi học của mỗi người phải là: “học
thường xuyên, học suốt đời”. Do vậy GD không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà là
GD cho mọi người, cho nên QLGD cũng có thể hiểu là: sự điều hành hệ thống
giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài.
Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức điều khiển hoạt động của khách thể
quản lý thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra. QLGD từ cấp vĩ mô đến tầm vi
mô đều hướng tới sử dụng có hiệu quả những nguồn lực dành cho giáo dục để
đạt được kết quả (đầu ra) có chất lượng cao nhất.
Đặc điểm của quản lý giáo dục:
Hệ thống giáo dục là một bộ phận của hệ thống xã hội, do đó quản lý giáo
dục chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, các tác động của quản lý xã hội
biểu hiện ở một số đặc điểm sau:
- QLGD gắn liền với việc quản lý con người, đặc biệt là lao động sư
phạm của người giáo viên. Đặc thù lao động của người giáo viên mà đối
tượng lao động sư phạm là người học với những đặc điểm về tâm sinh lý lứa
tuổi hết sức phức tạp. Người học vừa là đối tượng của hoạt động giáo dục,
vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục, do đó kết quả GD không chỉ phụ
thuộc vào bản thân nhà giáo mà còn phụ thuộc vào thái độ của ngành học.
Đây chính là điểm khác biệt của lao động sư phạm so với lao động xã hội
15
nói chung. Mặt khác phương tiện lao động của giáo viên chủ yếu là phương
tiện tinh thần bằng lời, bằng tấm gương, thái độ, bằng “điểm tựa”, bằng cảm
hóa… Thời gian lao động của người giáo viên cũng khác, nó không được
tách bạch, rạch ròi với thời gian không lao động sư phạm. Với bất kỳ lúc
nào, ngay cả khi nghỉ ngơi, giải trí hay làm việc gia đình…, người giáo viên
có thể vẫn nghĩ về công việc sư phạm của mình. Vì vậy trong công tác quản
lý giáo dục cần tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho giáo
viên, đặc biệt là tạo điều kiện để nâng cao tiềm lực của họ, để họ toàn tâm,
toàn ý cống hiến cao nhất cho sự nghiệp “trồng người”.
- Sản phẩm của GD có tính đặc thù nên QLGD phải chú ý ngăn ngừa sự
rập khuôn, máy móc trong công việc tạo ra sản phẩm, cũng như không được
phép tạo ra phế phẩm.
- QLGD đòi hỏi cao về tính toàn diện, tính thống nhất, tính liên tục, tính
kế thừa, tính linh hoạt và tính phát triển.
- QLGD và phát triển quan điểm quần chúng, kết hợp nhân tố bên trong
và bên ngoài, trong đó nhân tố bên trong có tính chất quyết định. Nên cần phải
phối hợp chặt chẽ và đồng bộ các lực lượng trong nhà trường, gia đình và xã hội.
- QLGD là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc, nó thu hút sự tham
gia của rất đông các thành viên xã hội và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt đời
sống xã hội.
- Quản lý giáo dục có tính xã hội rất cao, bởi vì: mọi người trong xã hội
đều tham gia vào hoạt động GD, đặc biệt ở nước ta GD đã phổ cập đến bậc
THCS. Tất nhiên nhà nước, các tổ chức xã hội và tư nhân phải cùng nhau tham
gia các hoạt động GD thì công tác GD mới có hiệu quả.
- QLGD là hoạt động mang tính sáng tạo vì đối tượng của hoạt động
QLGD là con người với các mối quan hệ phức tạp của nó. QLGD phải là một
hoạt động mang tính sáng tạo mới phát huy được sự sáng tạo của con người.
16
- QLGD thể hiện tính bao hàm giữa học thuật và nghệ thuật, vì đây là
dạng quản lí phức tạp, do quan hệ đa chiều với môi trường xã hội ở nhiều
phạm vi, mức độ, tầng bậc khác nhau.
Nội dung quản lý giáo dục
Nội dung QLGD là QL các yếu tố cấu thành của hệ thống giáo dục bao gồm:
- Mục tiêu giáo dục
- Nội dung giáo dục
- Phương pháp giáo dục
- Tổ chức giáo dục
- Người dạy
- Người học
- Trường sở và trang thiết bị dạy học
- Môi trường giáo dục, các lực lượng giáo dục
- Kết quả giáo dục
Bản chất của quản lý giáo dục: là QL quá trình sư phạm, quá trình dạy và
học diễn ra ở các cấp học, bậc học và tất cả các cơ sở giáo dục. Từ góc độ tổ
chức và QL, quá trình sư phạm là quá trình tạo ra các điều kiện và cơ hội, đồng
thời tổ chức việc sử dụng, tận dụng chúng làm cho người học tiếp thu, chiếm
lĩnh, lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội để phát triển nhân cách tốt nhất. Nơi thực
hiện QL quá trình sư phạm có hiệu quả nhất là nhà trường, một tổ chức giáo
dục cơ sở trực tiếp thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo nhân cách bằng việc
truyền thụ những tri thức đạo đức mà nhân loại đã sàng lọc chiết suất được cho
thế hệ trẻ.
1.1.1.3. Hoạt động quản lý
Trong giáo dục đó là tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giảng
viên, học sinh và các lực lượng khác nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu
giáo dục.
17
- Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức;
Trong các trường nghề chính là Hiệu trưởng, phụ trách các phòng khoa ; các
tổ chức đảng, công đoàn, các hội đồng
- Khách thể quản lý là những con người cụ thể và sự hình thành tự nhiên
các mối quan hệ giữa những con người, giữa các nhóm người với nhau. Trong
các cơ sở đào tạo chính là đội ngũ giảng viên.
- Nội dung quản lý là các yếu tố cần quản lý của khách thể, đối tượng
quản lý như quản lý đội ngũ giảng viên, trong đó bao gồm tuyển dụng, sử
dụng, đào tạo
- Công cụ quản lý là phương tiện tác động của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý như mênh lệnh, quyết định, chính sách, điều lệ
- Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý
- Mục tiêu của quản lý là cái đích cần đạt tới để thực hiện nhiệm vụ của
quản lý, được xác định theo nhiều cách khác nhau, nó có thể do nhà quản lý áp
đặt hoạc do sự cam kết giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý, là những kết
quả mà chủ thể quản lý dự kiến sẽ đạt được do quá trình vận động của đối
tượng quản lý dưới sự điều khiển của chủ thể quản lý
1.1.1.4. Chức năng cơ bản của quản lý
Thông thường quản lý có các chức năng cơ bản sau: Lập kế hoạch, Tổ
chức, Lãnh đạo (chỉ đạo), Kiểm tra
- Theo Stoner và Freemance: “Chức năng quản lý là quá trình lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các công việc của các thành viên trong tổ
chức và của việc sử dụng tất cả các khả năng, cách tổ chức để đạt được mục
tiêu mà tổ chức đã đề ra”
Kế hoạch
Kiểm tra
Tổ chức
Thông tin
Chỉ đạo
18
Sơ đồ 1.1: Sự liên kết các chức năng quản lý
- Lập kế hoạch: Lập kế hoạch là vấn đề cơ bản nhất trong các chức năng
của quản lý vì nó gắn liền với viẹc lựa chọn chương trình hành động trong
tương lai. Có thể nói lập kế hoạch là xác định rõ mục tiêu của một tổ chức nào
đó, đề ra được những quy định, thể thức để đạt được những mục tiêu. Có thể
hiểu lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu, hệ thống các hoạt động và
các điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đó.
- Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các
nguồn lực cho các thành viên của tổ chức, để họ có thể đạt được các mục tiêu
của tổ chức một cách có hiệu quả. Tổ chức là một công cụ của quản lý. Thành
tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ
thể quản lý, vào việc huy động các nguồn lực, cũng như tạo động lực, đặc biệt
là năng lực nội sinh của tổ chức.
Là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các nguồn lực
cho các thành viên của tổ chức một cách có hiệu quả
Đối với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc tổ chức của đơn vị
cũng khác nhau. Người quản lý cần có quyền lựa chọn cấu trúc tổ chức cho
phù hợp với những mục tiêu và nguồn lực hiện có. Quá trình đó được gọi là
quá trình thiết kế tổ chức. Tổ chức là một công cụ của quản lý.
- Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người, huy động và giúp đỡ cán
bộ và nhân viên dưới quyền, khơi dậy lòng nhiệt tình, tinh thần tự giác phấn
đấu tích cực cho mục tiêu của tổ chức. Như vậy lãnh đạo chính là quá trình ra
19
quyết định, truyền đạt, hướng dẫn và thuyết phục về các mục tiêu cần đạt
được, tác động, thúc đẩy các thành viên trong tổ chức làm cho họ nhiệt tình, tự
giác nỗ lực phần đấu đạt được các mục tiêu chung của tổ chức.
Là quá trình tác động đến con người làm cho họ nhiệt tình, tự giác, nỗ lực
phấn đấu đạt các mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra là chức năng của quản lý nhằm tìm ra những mặt ưu điểm, mặt
hạn chế để điều chỉnh phù hợp quá trình quản lý, làm cho mục đích của quản ký
đựơc thực hiện một cách đúng hướng và có hiệu quả. Chúng ta có thể hiểu kiểm
tra là quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp nhằm theo dõi, giám sát
các thành quả hoạt động của các bộ phận và tiến hành những hoạt động sửa chữa,
uốn nắn khi cần thiết để đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Là những hoạt động của chủ thể quản lý, nhằm đánh giá và xử lý những
kết quả của quá trình vận hành tổ chức.
- Các chức năng cơ bản của quá trình quản lý có quan hệ mật thiết với
nhau và cùng với các yếu tố khác có liên quan tới 4 chức năng đó là thông tin
kích thích và ra quyết định.
Hệ thống thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, là sức mạnh của công tác
quản lý, nếu thiếu hoặc sai thông tin thì công tác quản lý gặp khó khăn, tạo nên
những quyết định sai lầm, công tác quản lý kém hiệu quả và thất bại. Thông tin là
mạch máu của chu trình quản lý, lưu thông tin tức giữa các bộ phận đảm bảo cho
toàn bộ hệ thống hoạt động, đảm bảo sự thống nhất trong quản lý. Quá trình quản
lý phụ thuộc chặt chẽ vào các thông tin. Các thông tin quản lý là các tin tức về
chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, các yếu tố chi phối qúa trình quản lý đảm
bảo cho quản lý có hiệu quả.
Vai trò của thông trong quản lý rất quan trọng: Là cơ sở, chất liệu hình
thành và quyết định quản lý. Chất lượng hiệu quả của quyết định quản lý phụ
thuộc vào tính đầy đủ, chính xác, kịp thời của thông tin và ngược lại chất
lượng hiệu quả của quyết định quyết định quản lý chi phối thông tin. Hoạt
20
động thông tin quản lý tác động và chi phối toàn bộ hoạt động của hệ thống, nó
thu hút và điều chỉnh hoạt động của hệ thống, vừa giúp nhà quản lý nâng cao
năng lực quản lý vừa rèn luyện ý chí nhà quản lý.
1.1.2. Bồi dưỡng
Theo Từ điển Tiếng Việt (của Viện khoa học và xã hội Việt Nam xuất bản
năm 1992) thì bồi dưỡng là tiềm năng thêm năng lực hoặc phẩm chất.
Theo UNESCO thì bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá
trình bồi dưỡng chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao
kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp của bản thân nhằm đáp ứng
yêu cầu nghề nghiệp.
Một số nhà khoa học bàn luận về hoạt động bồi dưỡng với đại ý như sau:
- Bồi dưỡng được coi là một quá trình dạy học, với mục đích cập nhật hóa
kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc
củng cố và mở rộng một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng, chuyên
môn, nghiệp vụ nghề nghiệp hoặc hoạt động quản lý sẵn có để những người
được bồi dưỡng hành nghề có hiệu quả hơn và thường được xác nhận bằng một
chứng chỉ.
- Bồi dưỡng thực chất là quá trình dạy học nhằm làm giàu vốn kiến thức,
từ việc bồi đắp những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở nuôi
dưỡng, giữ gìn những cái cũ còn phù hợp để mở mang một cách có hệ thống
những tri thức kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề.
- Giống như quá trình đào tạo, bồi dưỡng cũng được qui định về mục tiêu,
nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức, phạm vi thời gian và
đánh giá để chứng nhận kết quả; nhưng khác với đào tạo về đối tượng (những
người đã qua đào tạo, đã có quá trình hành nghề) và về mục đích, quy mô tổ
chức, cấp độ hình thức tổ chức và về chứng nhận kết quả (chứng chỉ).
Bồi dưỡng là quá trình quản lý việc bổ xung kiến thức, kỹ năng đạo đức
nghề nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý tưởng nghề
21
nghiệp so với yêu cầu mới họ còn hẫng hụt, còn bất cập trong lĩnh vực người
lao động đang hoạt động.
Tại điều 80 của Luật Giáo dục đã nêu rõ: “Nhà nước có chính sách bồi
dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ và chuẩn hoá nhà giáo. Nhà giáo
được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ được
hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ”
Như vậy bồi dưỡng là quá trình nhằm nâng cao năng lực chuyên môn
giúp cho người lao động củng cố kiến thức, mở rộng kiến thức hoặc nâng
cao kiến thức một cách có hệ thống những tri thức mới. Bồi dưỡng là hoạt
động mang sắc thái của quá trình dạy học – giáo dục nhằm cập nhật hoặc
bổ sung kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu cho những người
lao động đã qua đào tạo để họ nâng cao được chất lượng và hiệu quả hoạt
động nghề nghiệp.
1.1.3. Giảng viên
1.1.3.1. Khái niệm giảng viên
Theo Luật Giáo dục 2005 thì GV là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu khoa học trong các trường cao đẳng, đại học. GV có nhiệm vụ
quyền hạn theo luật định. Điều lệ trường Đại học cũng đã xác định tiêu chuẩn,
nhiệm vụ, quyền hạn của ĐNGV.
* Tiêu chuẩn giảng viên
- Có phẩm chất đạo đức, tư tưởng sức khỏe tốt và lý lịch bản thân rõ ràng.
- Tối thiểu phải có bằng tốt nghiệp đại học và phải được bồi dưỡng về
nghiệp vụ sư phạm.
* Quyền của giảng viên
- Được bố trí giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo, xác định nội dung
các giáo trình giảng dạy phù hợp với qui định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Lựa chọn phương pháp giảng dạy và phương tiện giảng dạy nhằm phát
huy năng lực cá nhân, bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo.
22
- Được tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng để nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; được thi nâng bậc, chuyển ngạch giảng
viên, theo qui định của pháp lệnh cán bộ, công chức.
- Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần theo các chế độ chính
sách cho nhà giáo, được hưởng các chế độ nghỉ lễ theo qui định của Nhà nước
và được nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ học kì theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
- Được kí hợp đồng giảng dạy và NCKH tại các cơ sở giáo dục, NCKH
ngoài trường, theo qui định của Bộ luật lao động và quy chế thỉnh giảng do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Tham gia thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường.
- Được Nhà nước xét tặng các danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo
Uu tú, huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục” và các danh hiệu thi đua khác.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của giảng viên trong trường đại học
Căn cứ vào những quy định về chức trách, hiểu biết và yêu cầu về trình
độ của giảng viên giảng dạy ở bậc đại học và cao đẳng trong các văn bản pháp
luật hiện hành của Nhà nước như: Luật Giáo dục, Pháp lệnh cán bộ công chức,
Quy định về tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch trong trường đại học, cao đẳng
ban hành theo quyết định số 538/TCCP-TC của Bộ trưởng - Trưởng ban Tổ
chức - cán bộ Chính phủ thì giảng viên có các nhiệm vụ sau:
- Giảng dạy cao đẳng, đại học; giảng dạy và bồi dưỡng sau đại học, hướng
dẫn nghiên cứu sinh, thực tập sinh và bồi dưỡng cán bộ giảng dạy theo mục
tiêu, nguyên lý và chương trình giáo dục.
- Nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy dịnh pháp luật và điều
lệ nhà trường.
23
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích
chính đáng của người học.
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người đọc.
Nhiệm vụ học tập và bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và chuyên môn
nghiệp vụ của giảng viên không chỉ được thực hiện theo chương trình và kế
hoạch của Bộ Giáo dục & Đào tạo, nhà trường mà mỗi giảng viên cần phải tích
cực, thường xuyên tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao sự hiểu biết về chính trị,
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm không ngừng nâng cao về
chất. Đây cũng là điều kiện cần thiết để xây dựng đội ngũ giảng viên ngày
càng hoàn thiện và đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất
lượng đào tạo của xã hội.
- Tham gia quản lý công tác đào tạo của nhà trường.
Việc quản lý công tác đào tạo của nhà trường được thực hiện thông
qua các tổ chức chuyên môn như: Khoa, bộ môn, hội đồng khoa học, các
phòng ban chức năng và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường; và dưới
các hình thức như: Xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện kế
hoạch giảng dạy, học tập và nghiên cứu; đánh giá kết quả giảng dạy và học
tập, chất lượng đào tạo.
- Tham gia các hoạt động xã hội và hoàn thành nghĩa vụ của một công
dân và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các nhiệm vụ của giảng viên có liên quan chặt chẽ với nhau. Người giảng
viên phải đồng thời thực hiện chức năng giảng dạy, giáo dục, nghiên cứu và
quản lý. Với ý nghĩa đó, cần phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên giỏi về chuyên môn, có lương tâm nghề nghiệp, có đạo đức trong
sáng để xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội.
1.1.3.3. Vai trò của đội ngũ giảng viên trong nhà trường đại học
24
Đội ngũ giảng viên có vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn lực
con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện địa hóa đất nước. Họ là lực
lượng trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực chất lượng cao, bồi
dưỡng và phát triển nhân tài – lực lượng giữ vai trò quyết định trong việc
thực hiện chuyển giao và đổi mới công nghệ, bảo tồn và phát triển những
giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu có hiệu quả những giá trị văn hóa tiên tiến
trên thế giới. Thông qua hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, đội
ngũ giảng viên đã đào tạo được những lớp người lao động mới, hữu ích
cho sự phát triển xã hội, có năng lực làm chủ những công nghệ tiên tiến, có
khả năng đổi mới và hiện đại hóa những công nghệ truyền thống, từng
bước sáng tạo những công nghệ mới, hiện đại phù hợp với con người, điều
kiện và môi trường Việt Nam.
Đội ngũ giảng viên còn là lực lượng trực tiếp thực hiện các mục tiêu giáo
dục - đào tạo, từng bước nâng cao trình độ dân trí, tạp đỉnh cao trí tuệ, phát
triển nhân tài cho đất nước.
Đội ngũ giảng viên gồm những Giáo Sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên
giàu kinh nghiệm và tâm huyết nghề nghiệp có vai trò to lớn trong việc bồi
dưỡng nhân tài, phát triển tài năng cho đất nước.
Đội ngũ giảng viên là lực lượng trực tiếp góp phần làm tăng hàm lượng chất
xám, tiềm năng trí tuệ của quốc gia – yếu tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững
của dân tộc. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, đội ngũ giảng viên đã
thực hiện đổi mới công nghệ, tạo bước nhảy vọt về năng suất và chất lượng sản
phẩm, bảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế một cách nhanh chóng và ổn định.
Có thể nói, đội ngũ giảng viên là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo,
họ là người trực tiếp thực hiện và quyết định đổi mới nâng cao chất lượng đào
tạo và nghiên cứu trong nhà trường đại học.
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên không chỉ là người truyền thụ kiến
thức đơn thuần mà còn là một người thiết kế, điều khiển để sinh viên tự giác và
25
tích cực tham gia học tập, kích thích, khơi dậy hứng thú học tập của sinh viên
để họ phát huy tính sáng tạo trong học tập.
Đội ngũ giảng viên có vai trò to lớn trong nhà trường đại học, bởi vậy,
trong công tác quản lý cần phải có giải pháp hợp lý để phát triển đội ngũ giảng
viên lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề.
1.2. Cơ sở pháp lý và các đặc điểm công tác bồi dƣỡng đội ngũ giảng
viên đại học
1.2.1. Đặc điểm giảng viên đại học
* Là người góp phần trực tiếp, tích cực vào việc hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh sinh viên
“Dạy người” hay “học lễ” là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhất,
có tính tiên quyết của giáo dục - đào tạo Việt Nam đối với học sinh
sinh viên – những chủ nhân tương lai của đất nước. Dù HS, SV có học
giỏi, có kiến thức chuyên môn cao mà nhân cách đạo đức kém, động cơ
học tập và lao động mơ hồ, không đúng đắn… thì khó trở thành những
con người hữu ích cho xã hội. Điều này phù hợp với truyền thống tốt đẹp
của nhân dân ta: coi trọng đạo đức, nhân cách con người: “cái nết đánh
chết cái đẹp”. Đảng và Nhà nước ta đòi hỏi phải đào tạo và xây dựng một
đội ngũ cán bộ công chức “vừa hồng vừa chuyên”.
Nhân cách, đạo đức của HS, SV hình thành và phát triển như thế nào, tốt
hay xấu chịu sự chi phối, tác động của nhiều nhân tố, nhiều lực lượng, tổ chức
xã hội tham gia: gia đình, làng xóm, bạn bè, đoàn thể, môi trường sống… và nhà
trường. Từ khi sinh ra đến khi đi vào cõi vĩnh hằng, con người chịu tác động của
ba hình thức giáo dục: giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục của xã
hội. Mỗi loại giáo dục này chi phối, tác động đến con người ở một giai đoạn
nhất định: giáo dục gia đình chủ yếu chi phối con người ở tuổi ấu thơ và một
phần trong giai đoạn học đường; giáo dục nhà trường gắn với giai đoạn con
người đang trên bước đường đi đến trưởng thành, giai đoạn đi học; giáo dục xã
hội gắn với giai đoạn con người đã vào đời, đã trưởng thành. Trong ba hình thức
26
giáo dục này, giáo dục nhà trường đóng vai trò quyết định vì đây là giai đoạn
nhân cách và tri thức của con người mới hình thành, phát triển và dần được hoàn
thiện. Đây chính là giai đoạn “trồng người”
Trong suốt thời gian dài ngồi ghế nhà trường (10-12 năm phổ thông, 4-6
năm đại học), nhân cách và tri thức của HS, SV gắn chặt với nhà trường, bạn
bè và đặc biệt với thầy giáo. Người thầy không chỉ trang bị kiến thức khoa học
(tự nhiên và xã hội) mà còn là người xây dựng nhân cách, đạo đức cho HS,
SV, nuôi dưỡng ước mơ hoài bão, lý tưởng cho họ. Nếu như người thầy với
lương tâm nghề nghiệp của mình, với tư cách là một “kỹ sư tâm hồn” xây dựng
được, hình thành và hoàn thiện những nhân cách cao đẹp, trong sáng, xây dựng
được đạo lý làm người và đạo lý xã hội ở HS, SV, thì có nghĩa là người thầy đã
ươm được mật ngọt cho đời, đã “trồng” được cho xã hội những công dân hữu
ích.
Có nhiều cách thức, nhiều con đường để người thầy hình thành, hoàn
thiện và phát triển nhân cách cho HS, SV. Có thể thông qua việc “tự làm
gương”, “tự nêu gương” của chính người thầy; có thể thông qua bằng hình
thức trình độ chuyên môn cao, sâu sắc, qua khả năng vượt khó vươn lên, qua
năng lực sáng tạo của người thầy. Gắn chặt với những cách thức trên, người
thầy bằng năng lực của mình làm cho HS, SV biết cách chuyển tất cả những
kiến thức đã được truyền thụ thành tri thức, khả năng của người học, làm cho
người học biết vận dụng một cách sáng tạo và đưa những gì được truyền thụ
vào cuộc sống, vào lao động sản xuất. Nói khác đi, người thầy phải làm sao
cho người học tiếp nhận đầy đủ, sâu sắc tri thức khoa học kỹ thuật và công
nghệ trên cơ sở một quan niệm, động cơ, nhân sinh quan đúng đắn, từ đó sáng
tạo nên nhứng sản phẩm, của cải… phục vụ cho xã hội.
* Là người trực tiếp trang bị tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ cho
học sinh, sinh viên, từ đó góp phần tạo nên nguồn nhân lực cao cho đất nước
Mỗi loại lao động xã hội đều tạo ra những sản phẩm với những công
dụng khác nhau. Lao động của người nông dân tạo ra lúa gạo để nuôi sống
27
con người; lao động công nhân tạo ra vải vóc, nhà cửa phục vụ cho cái mặc,
cái ở của con người…; lao động của người thầy tạo ra những con người,
những chủ nhân tương lai của đất nước. Lao động của người thầy là lao
động đặc thù và đặc biệt quan trọng. Đặc thù bởi lao động của người thầy
không tạo ra của cải vật chất cụ thể, mà lại tạo ra con người và chính những
con người - sản hẩm lao động của người thầy - lại tạo ra của cải vật chất. Do
đó chất lượng, hiệu suất của cải làm ra phụ thuộc vào chính tri thức khoa
học của người lao động - những người đã qua lao động sáng tạo cuẩ người
thầy. Chính GD-ĐT và người thầy đã đào tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng cao, để rồi nguồn nhân lực ấy trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho xã hội.
Nói đến nhà trường là nói đến hai lực lượng: người học và người dạy.
Nếu người học là trung tâm của nhà trường thì người dạy là lực lượng quyết
định nội dung, chất lượng của người học, của quá trình GD-ĐT. Vai trò to lớn
của người thầy là ở đấy.
Thông qua ĐNGV, ngành giáo dục - đào tạo thực hiện chức năng nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Cả ba chức năng này có
quan hệ chặt chẽ với nhau và đều quan trọng. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
VII đã chỉ rõ điều này: “mục tiêu của giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, hình thành một đội ngũ tri thức, có tay
nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, có đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”.
1.2.2. Chủ trương, chính sách và cơ sở pháp lý bồi dưỡng giảng viên đại học
* Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu
Trong văn kiện Hội nghị TW2 khoá VIII ghi nhận “Giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu”. Tại Đại hội Đảng khoá IX quan điểm này được tiếp tục
phát triển: “Phát triển Giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, là điều kiện để phát