1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN VĂN VUI
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRỰC TUYẾN
TẠI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VIETTEL
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ QUANG SƠN
HÀ NỘI – 2012
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
CBNV : Cán bộ, nhân viên
CLDH : Chất lượng dạy học
CNTT&TT : Công nghệ Thông tin và Truyền thông
CTDH : Chương trình dạy học
ĐHSPHN : Đại học Sư phạm Hà Nội
DHTT : Dạy học trực tuyến
DHTX : Dạy học từ xa
ĐTTT : Đào tạo từ xa
HTTT : Học tập trực tuyến
KQHT : Kết quả học tập
PPDH : Phương pháp dạy học
QLGD : Quản lý giáo dục
QTDH : Quá trình dạy học
TĐVTQĐ : Tập đoàn Viễn thông Quân đội
TTĐT VT : Trung tâm đào tạo Viettel
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Phân phối thời gian và công sức cho các chức năng quản trị
của các cấp quản lý
18
Bảng 2.1: Kết quả điều tra về thực trạng dạy học trực tuyến
68
Bảng 2.2: Kết quả điều tra về thực trạng dạy học trực tuyến
70
Bảng 3.1: Kết quả thăm dò tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất
96
Bảng 3.2: Kết quả xếp hạng tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất
99
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1: Mối quan hệ biện chứng giữa Dạy và Học
21
Hình 1.2: Mô hình kết hợp giữa Hệ thống quản lý học tập và Hệ
thống quản lý nội dung học tập
27
Hình 1.3: Mô hình kiến trúc cơ bản của hệ thống dạy học trực tuyến
28
Hình 2.1: Mô hình tổ chức Tập đoàn Viễn thông Quân đội (09/2012)
47
Hình 2.2: Mô hình tổ chức Trung tâm đào tạo Viettel (06/2011)
48
Hình 2.3: Tỷ lệ đánh giá vai trò của việc triển khai và quản lý hoạt
động dạy học trực tuyến tại Trung tâm đào tạo Viettel
73
Hình 2.4: Tỷ lệ hài lòng về hỗ trợ tự học, tự kiểm tra đánh giá
74
Hình 2.5: Tỷ lệ hài lòng về mục tiêu môn học, bài học
75
Hình 2.6: Thời lượng dành cho học tập trực tuyến
76
Hình 3.1: Mối quan hệ giữa các biện pháp đề xuất
94
v
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục viết tắt
ii
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các hình
iv
Mục lục
v
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC TRỰC TUYẾN TẠI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO
6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
6
1.1.1. Trên thế giới
6
1.1.2. Ở Việt Nam
10
1.2. Một số khái niệm cơ bản
16
1.2.1. Quản lý
16
1.2.2. Quản lý giáo dục
19
1.2.3. Quản lý nhà trường
20
1.2.4. Quản lý quá trình dạy học
20
1.2.5. Chất lượng dạy học
22
1.2.6. Dạy học trực tuyến (E-learning)
23
1.3. Hoạt động dạy học trực tuyến
30
1.3.1. Đặc điểm cuả dạy học trực tuyến
30
1.3.2. So sánh hoạt động DHTT với hoạt động dạy học giáp mặt
30
1.3.3. Vai trò của dạy học trực tuyến
35
1.4. Quản lý hoạt động DHTT tại các cở sở đào tạo
37
1.4.1. Đặc điểm của quản lý dạy học trực tuyến
37
1.4.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học trực tuyến
37
Tiểu kết chương 1
44
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
TRỰC TUYẾN TẠI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VIETTEL
46
2.1.Vài nét về Trung tâm đào tạo Viettel
46
vi
2.1.1. Giới thiệu chung
46
2.1.2. Mô hình tổ chức
46
2.1.3. C hức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ
49
2.1.4. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên
50
2.1.5. Cơ sở vật chất
50
2.1.6. Tầm nhìn phát triển
51
2.2. Hoạt động dạy học trực tuyến tại Trung tâm đào tạo Viettel
52
2.2.1. Cơ sở pháp lý cho việc triển khai hoạt động DHTT tại TTĐTVT
52
2.2.2. Thực trạng triển khai dạy học trực tuyến
54
2.2.3. Yêu cầu triển khai dạy học trực tuyến
59
2.3. Quản lý hoạt động dạy học trực tuyến tại TTĐTVT
59
2.3.1. Thực trạng quản lý dạy học trực tuyến tại TTĐTVT
59
2.3.2. Điều tra, khảo sát về thực trạng công tác triển khai và quản lý
DHTT tại TTĐTVT
67
2.3.3. Phân tích kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng công tác triển
khai và quản lý dạy học trực tuyến tại TTĐTVT
72
2.3.4. Yêu cầu quản lý dạy học trực tuyến
77
Tiểu kết chương 2
78
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC TRỰC TUYẾN TẠI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VIETTEL
79
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp
79
3.1.1. Tính thực tiễn
79
3.1.2. Tính đồng bộ
79
3.1.3. Tính khả thi
80
3.2. Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học trực tuyến
80
vii
3.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên, nhân
viên và học viên về ý nghĩa của hoạt động dạy học trực tuyến
80
3.2.2. Biện pháp 2: Tăng cường xây dựng và triển khai quy trình tổ
chức DHTT
84
3.2.3. Biện pháp 3: Tăng cường xây dựng và triển khai quy trình đánh
giá kết quả DHTT
87
3.2.4. Biện pháp 4: Quản lý hồ sơ học tập trực tuyến của học viên
91
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp
93
3.4. Khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đề xuất
95
Tiểu kết chương 3
99
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
101
1. Kết luận
101
2. Khuyến nghị
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
104
PHỤ LỤC
107
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của
nước ta hiện nay, công nghệ thông tin được xem như là một lĩnh vực mũi
nhọn thúc đẩy quá trình hội nhập ngày một nhanh hơn và sâu rộng hơn. Đây
là lĩnh vực mới nổi và phát triển rất mạnh mẽ ở Việt Nam trong khoảng 15
năm trở lại đây. Nó đã và đang được ứng dụng rộng rãi vào hầu hết các lĩnh
vực của cuộc sống từ vui chơi, giải trí, học tập đến kinh doanh, nghiên cứu
khoa học, giáo dục và đào tạo v.v Hơn nữa, việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác quản lý là một xu hướng tất yếu của các ngành, các lĩnh
vực. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, hàm lượng
chất xám trong các sản phẩm công nghệ ngày càng cao do đó vai trò của
CNTT càng được thể hiện rõ. Mặt khác, thời đại ngày nay đã và đang tác
động không nhỏ tới nền giáo dục Việt Nam. Nền giáo dục Việt Nam đang
đứng trước rất nhiều thời cơ và thách thức mới, trong đó có liên quan tới phát
triển nguồn nhân lực, bởi lẽ nó sẽ quyết định sự thành công của công cuộc
phát triển đất nước.
Hoạt động dạy học trực tuyến (DHTT) đã và đang được áp dụng rộng rãi
trong số đông các cơ sở đào tạo ở Việt Nam. Hoạt động này có thể được xem
là một ví dụ hiện thực hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam trong đó đổi
mới quản lý giáo dục (QLGD) là khâu then chốt. Đây là hoạt động không chỉ
giúp người học có thể học mọi lúc, mọi nơi mà còn giúp người học tiếp cận tri
thức nhanh hơn, hiệu quả hơn và đáp ứng nhu cầu tự học, tự nghiên cứu của
người học ngày càng đa dạng.
Cũng như đa số các cơ sở đào tạo khác trong nước, Trung tâm đào tạo
Viettel (TTĐTVT) trực thuộc Tập đoàn Viễn thông Quân đội (TĐVTQĐ) đã
và đang tổ chức hoạt động DHTT nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
2
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên (CBNV) của TĐVTQĐ. Thực tế cho thấy
TTĐTVT hiện nay không chỉ dừng lại ở việc phối hợp với các cơ quan, đơn
vị tuyển dụng được nguồn nhân lực có chất lượng mà còn ở việc làm thế nào
để bồi dưỡng nâng cao chất lượng của đội ngũ CBNV, đặc biệt trong thời
điểm nhu cầu cần đào tạo đã lên đến hơn 26.000 người. Tuy nhiên quá trình
triển khai ứng dụng còn có nhiều bất cập về quy định, quy trình, hình thức tổ
chức dạy học, công tác kiểm tra, đánh giá và chưa đáp ứng được số lượng
CBNV cần bồi dưỡng thực tế. TTĐTVT mới chỉ tổ chức hoạt động dạy học
một số nội dung nghiệp vụ cơ bản và tổ chức thi trực tuyến cho một số đối
tượng chức danh với mục đích bồi dưỡng nghiệp vụ.
Trong quản lý dạy học nói chung và quản lý DHTT nói riêng, CNTT
được xem như là một công cụ quản lý rất hiệu quả, giúp xử lý nhanh chóng,
chính xác, kịp thời và đưa ra kết quả mong muốn cho nhà quản lý. Qua quá
trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy TTĐTVT đã ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý hoạt động DHTT như một công cụ để quản lý chất lượng nguồn
nhân lực hơn 04 năm trở lại đây. CNTT giúp đội ngũ lãnh đạo của TTĐTVT
nói riêng và TĐVTQĐ nói chung đánh giá kịp thời chất lượng nguồn nhân
lực, qua đó đưa ra chiến lược quản lý nguồn nhân lực hiệu quả và nâng cao
chất lượng dạy học của mình. Bên cạnh những kết quả đạt được về tổ chức và
quản lý hoạt động DHTT, công tác quản lý hoạt động DHTT của TTĐTVT
vẫn còn có nhiều khó khăn, vướng mắc tập trung chủ yếu ở:
Một số không ít cán bộ quản lý chưa nhận thức đầy đủ vai trò của hoạt
động DHTT để bồi dưỡng nguồn nhân lực nên thường coi nhẹ hoạt động này;
Hiểu biết hoạt động DHTT của một số cán bộ, nhân viên còn hạn chế;
Chưa lập kế hoạch sử dụng cơ sở vật chất và nhân lực tham gia;
Chưa ban hành quy định DHTT: dạy học – đánh giá kết quả học tập –
cấp chứng chỉ.
3
Số tài khoản kích hoạt và sử dụng thường xuyên trên hệ thống phục vụ
hoạt động DHTT bị hạn chế ở mức 5000 tài khoản. Đây là số tài khoản người
dùng chỉ bằng 1/5 nhu cầu hiện tại;
Xuất phát từ yêu cầu thực tế quản lý hoạt động DHTT nhằm khai thác
hiệu quả các nguồn lực hiện có, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác
quản lý dạy học, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý hoạt động dạy
học trực tuyến tại Trung tâm đào tạo Viettel trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động DHTT trong các cơ sở
giáo dục;
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động DHTT tại TTĐTVT;
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, đề xuất các biện pháp quản
lý hoạt động DHTT tại TTĐTVT trong giai đoạn hiện nay đáp ứng được nhu
cầu bồi dưỡng nguồn nhân lực và phù hợp với điều kiện hiện có.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động DHTT tại Trung tâm đào tạo Viettel.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý hoạt động DHTT tại TTĐTVT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về ứng dụng CNTT trong công tác quản lý
hoạt động DHTT;
Khảo sát, đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT trong công tác quản lý
hoạt động DHTT;
Đề xuất một số biện pháp phát triển ứng dụng CNTT trong công tác
quản lý hoạt động DHTT.
5. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động DHTT tại TTĐTVT trong giai đoạn hiện nay đã
đạt được kết quả nhất định song vẫn còn nhiều bất cập.
4
Nếu chọn lựa, đề xuất và áp dụng được một số biện pháp quản lý hoạt
động DHTT phù hợp với điều kiện thực tiễn thì sẽ nâng cao chất lượng dạy
học và góp phần bồi dưỡng nguồn nhân lực cho TTĐTVT và các cơ quan,
đơn vị thuộc TĐVTQĐ trong giai đoạn hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động DHTT của TTĐTVT rộng khắp các tỉnh/thành phố trong
nước. Do điều kiện về thời gian và năng lực còn hạn chế, nên tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu công tác quản lý hoạt động DHTT tại các cơ sở đào tạo do
TTĐTVT quản lý trực tiếp.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã kết hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước về định
hướng phát triển việc quản lý hoạt động DHTT;
Nghiên cứu các văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Thông tin và Truyền thông về ứng dụng CNTT vào quản lý hoạt động DHTT;
Nghiên cứu các văn bản quy định quản lý hoạt động DHTT tại
TTĐTVT;
Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu quản lý, báo cáo khoa học liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: Thiết kế và sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến, tìm
hiểu nhận thức, nguyện vọng của đội ngũ quản lý, học viên v.v để thu thập
thông tin về hiện trạng quản lý hoạt động DHTT.
7.3. Những phương pháp hỗ trợ khác
Sử dụng phương pháp thống kê toán học trong việc xử lý các số liệu thu
thập được, tổng hợp, rút kinh nghiệm.
5
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, các tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học trực tuyến tại các
cơ sở đào tạo
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học trực tuyến tại Trung
tâm đào tạo Viettel
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học trực tuyến tại
Trung tâm đào tạo Viettel trong giai đoạn hiện nay
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
TRỰC TUYẾN TẠI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Lịch sử loài người đã và đang chứng kiến sự phát triển tiến hoá ngày một
văn minh hơn của loài người. Quá trình phát triển tiến hoá ấy không thể phủ
nhận vai trò của giáo dục, bởi lẽ giáo dục là sợi dây truyền kinh nghiệm sống
của mỗi nền văn minh. Biểu hiện cụ thể của giáo dục đó chính là dạy dỗ, chỉ
bảo, hướng dẫn, dạy học nhằm truyền lại cho thế hệ sau các giá trị văn hoá, kinh
nghiệm sống, tri thức khoa học kỹ thuật v.v Dạy học vốn xưa nay được xem là
một hình thức giáo dục truyền thống. Khi nói đến hình thức dạy học truyền
thống, chúng ta thường hình dung có một lớp học được cố định ở một chỗ, có
học sinh ngồi trong lớp và có giáo viên đứng giảng. Tuy nhiên, nhờ có sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong kỷ nguyên nền kinh tế tri thức mà
con người có thể tiếp cận một hình thức dạy học khác nhằm đáp ứng nhu cầu
học tập ngày càng đa dạng, người học có nhu cầu học tập ở mọi nơi, mọi lúc,
trong nhiều hoàn cảnh. Đó chính là hình thức dạy học từ xa. Với hình thức này,
người học và người dạy không nhất thiết phải có mặt trên lớp học nhưng vẫn chủ
động truyền đạt kinh nghiệm lịch sử cho nhau được. Từ những yêu cầu mới này
của người học mà hình thức dạy học từ xa (DHTX) đã ra đời.
Có thể nói mốc thời gian được ghi nhận đầu tiên về DHTX trên thế giới
đó là việc giảng dạy cho giáo sỹ nhà thờ bằng gửi thư từ những năm 50-60
sau công nguyên. Trong lịch sử hiện đại mốc thời gian được ghi nhận bởi
Isaac Pitman dạy phương pháp ghi tốc ký bằng gửi thư ở Anh năm 1840 [48].
Trải qua lịch sử phát triển, tên của lĩnh vực này được thay đổi: học tại
nhà, học qua thư từ, học ngoại khóa, học độc lập và học mở rộng. Tất cả các
7
hình thức này đều liên quan đến các hình thức giảng dạy và cách thức học
thích hợp về thời gian và nơi học. Hình thức DHTX được hình thành với sự
tham gia của các công nghệ như công nghệ in ấn (học qua thư từ), công nghệ
phát thanh, điện tín v.v tới truyền thông đa phương tiện và liên lạc điện tử
vào những năm 90 của thế kỷ trước. Tivi cũng là một lợi thế cơ bản đã được
sử dụng trong DHTX. Sự phát triển của một mạng lưới Tivi được phủ sóng
trên phạm vi rộng trở nên phù hợp với mô hình lớp học chỉ với một giáo viên
tại chỗ và người học ở nhiều địa điểm khác nhau. Trở ngại của phương thức
dạy học này là người học phải sẵn sàng học vào giờ phát sóng. Tiếp đó là
mạng Internet và công nghệ Web, và ngày nay là hệ thống học tập điện tử và
các công nghệ DHTT đang khẳng định vị trí trong môi trường học tập. DHTX
thực tế đã bắt đầu với sự xuất hiện của “Trung tâm học tập với sự trợ giúp của
máy tính” vào năm 1982 ở Rindge, New Hampshire, Mỹ - trường học trực
tuyến đầu tiên của quốc gia ở Tây bán cầu này. Từ 1994 - 1995, khi Internet
đã trở nên phổ biến chỉ từ một mô hình nhỏ ban đầu của các nhà cung cấp
Internet nội bộ, nhờ đó giáo dục trực tuyến đã thực sự bùng nổ. Các lợi ích
của giáo dục trực tuyến ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Chính sự phát triển
của công nghệ E-Learning, khả năng tổ chức một lớp học ảo và một môi
trường học tập ảo đã dần phá vỡ tồn tại của những quan niệm trước đây chưa
thực sự coi trọng DHTX khi chuyển từ hình thức giáo dục truyền thống sang
E-Learning với sự trợ giúp của máy tính, hệ thống công nghệ thông tin và
truyền thông. Hiện nay, một chương trình đào tạo trực tuyến có cấp bằng có
thể dễ dàng được tìm thấy từ các trường cao đẳng, các trường chuyên nghiệp.
Hơn nữa các cơ hội từ giáo dục trực tuyến tăng nhanh hàng ngày và bằng cấp
trực tuyến đã được những người sử dụng lao động đón nhận một cách bình
thường [50].
Theo tác giả Natalie Aranda [49], E-Learning là một thuật ngữ rất rộng.
Nó thường được sử dụng để mô tả môi trường dạy học có sử dụng máy tính.
8
Có rất nhiều công nghệ có thể sử dụng cho E-Learning. Thuật ngữ DHTX
được sử dụng để mô tả một môi trường học tập mà địa điểm lớp học, môi
trường dạy học thay đổi so với lớp học truyền thống.
E-Learning bắt đầu xuất hiện vào khoảng thời gian máy tính được phát
triển do nhu cầu thực hành cá nhân. Trên thực tế, ý tưởng và thực hành về
DHTX xảy ra trước thời kỳ của máy tính khoảng 100 năm. Ở Anh, vào năm
1840, các lớp học tốc ký đã được đề xuất bởi các khóa học tương tự qua thư
tín. Sự phát triển của dịch vụ bưu điện đã làm cho phương thức của DHTX
này thông dụng ở giai đoạn đầu thế kỷ trước. Phương thức này đã làm xuất
hiện một số lượng lớn các chương trình giáo dục “thông qua thư tín”. Máy
tính làm cho DHTX dễ dàng hơn và tốt hơn. Tivi, băng video, radio v.v tất
cả đã góp phần thúc đẩy DHTX phát triển mạnh mẽ.
Theo tổ chức Thomson NETg [46], các làn sóng phát triển của E-
Learning được chia thành các giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn trước năm 1983 - Kỷ nguyên giáo viên làm trung tâm
Đây là giai đoạn phương pháp giáo dục “lấy giảng viên làm trung tâm” -
phương pháp phổ biến nhất trong các trường học. Nhà trường tập trung trách
nhiệm dạy học vào giáo viên, coi giáo viên là tâm điểm của hoạt động dạy
học, học viên tham gia vào hoạt động này qua lắng nghe, trao đổi tập trung
quanh giảng viên và các bạn học. Đặc điểm của phương pháp dạy học này là
chi phí tổ chức đào tạo thấp, giáo viên thì chủ động, học viên thì bị động.
+ Giai đoạn 1984-1993 - Kỷ nguyên đa phương tiện
Thời kỳ này chứng kiến sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin
trong các hoạt động của cuộc sống. Các lĩnh vực của công nghệ thông tin như
phần cứng, phần mềm được phát triển và được ứng dụng hầu khắp các nước
phát triển và lan dần sang các nước đang phát triển. Các công nghệ cơ bản
trong kỷ nguyên đa phương tiện này có thể kể đến là máy tính Macintosh, hệ
điều hành Windows 3.1, phần mềm ứng dụng văn phòng PowerPoint v.v Sự
9
kết hợp các công nghệ cơ bản này trên máy tính cho phép tạo ra bài giảng có
hình ảnh và âm thanh đầy sinh động. Đây được xem như là biểu hiện sơ khai
của dạy học có sự trợ giúp của máy tính, hay cụ thể hơn là dựa trên máy tính.
Các bài giảng được soạn thảo và phân phối qua các thiết bị lưu trữ như đĩa
CD-ROM hoặc đĩa mềm để người học có thể lựa chọn và sử dụng cho quá
trình học tập của mình vào bất cứ thời gian, địa điểm nào khi thao tác với máy
tính. Đặc điểm của hình thức dạy học này là giáo viên có thể biết hoặc không
biết người học, hạn chế sự trao đổi, hướng dẫn của giáo viên, người học phải
tự nghiên cứu nhiều hơn và phải có máy tính.
+ Giai đoạn 1994-1999 - Làn sóng E-learning thứ nhất
Khi công nghệ Web được Tim Berners Lee (người Anh) phát minh, các
nhà cung cấp dịch vụ giáo dục, đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến
phương pháp dạy học (PPDH) dựa trên nền tảng Web. Sự kỳ vọng vào E-
mail, Website, trình duyệt (Browser), ngôn ngữ HTML, truyền thông đa
phương tiện tốc độ thấp bắt đầu thâm nhập sâu rộng vào lĩnh vực giáo dục.
Tương tác, trao đổi trong QTDH giữa người dạy và người học được tăng
cường qua Email, Intranet v.v [44].
+ Giai đoạn sau năm 2000 - Làn sóng E-learning thứ hai
Hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn của làn sóng này. Giai đoạn
này chứng kiến ngôn ngữ lập trình JAVA, truyền thông đa phương tiện tốc độ
cao, các ứng dụng mạng dựa trên giao thức Internet (IP – Internet Protocol),
công nghệ truy nhập mạng di động 2G, 2,5G, 3G và các công nghệ thiết kế
Web tiên tiến. Cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo bắt đầu có nhiều giải
pháp hơn cho người học tiếp cận tri thức và người dạy hiện thực hoá ý tưởng
truyền đạt tri thức của mình. Sự kết hợp nhuần nhuyễn quan hệ của thầy và
trò trong QTDH bằng môi trường công nghệ thông tin và truyền thông đã xuất
hiện khái niệm DHTT thân thiện và dễ hiểu hơn khái niệm dạy học từ xa
(DHTX). Ngày nay thông qua DHTT giáo viên có thể hướng dẫn, dạy học
10
viên qua mạng bằng sự kết hợp tương tác giữa hình ảnh, âm thanh, các công
cụ trình diễn mà không cần phải lên lớp. Cũng chính nhờ công nghệ DHTT
mà chất lượng giáo dục ngày một nâng cao, tạo ra môi trường học tập mới,
linh hoạt và là công cụ quản lý đắc lực cho các nhà QLGD. Tất cả những
điều đó tạo ra một cuộc cách mạng trong giáo dục với chất lượng cao và
hiệu quả cao.
Cũng như tốc độ phát triển khoa học, công nghệ, tốc độ phát triển E-
learing giữa các Châu lục là không đồng đều. E-learning phát triển mạnh nhất
ở khu vực Mỹ. Tại đây, dạy và học điện tử đã nhận được sự ủng hộ của công
chúng và các chính sách trợ giúp của Chính phủ ngay từ cuối những năm 90.
Tiếp đến là các nước ở châu Âu, trong những năm gần đây đã tập trung phát
triển mạnh công nghệ dạy học qua mạng Internet ứng dụng trong hệ thống
giáo dục. Tại châu Á, E-learning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, do chưa
được xã hội công nhận, thiếu đầu tư hạ tầng, chưa có hành lang pháp lý đầy
đủ. Tuy nhiên, khái niệm E-learning đang dần dần chiếm vị thế trong môi
trường giáo dục như một PPDH hiệu quả.
1.1.2. Ở Việt Nam
Dạy học trực tuyến ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện rõ nét cách đây gần 20
năm. Tiền thân của nó là đào tạo từ xa được Đài tiếng nói Việt Nam thực hiện
qua các chương trình phát thanh dạy tiếng Việt, tiếng nước ngoài v.v Hình
thức dạy học này mới nghe chỉ là chương trình của đài phát thanh, nhưng nhìn
nhận dưới góc độ giáo dục và đào tạo thì đây là hình thức dạy học mới được
thực hiện trên môi trường công nghệ truyền thông. Vô hình chung nó trở
thành một hình thức dạy học đã giúp hàng triệu người dân Việt Nam nâng cao
dân trí.
Thuật ngữ “Giáo dục từ xa” được biết đến từ những năm đầu thập kỷ 60
của thế kỷ XX dưới những khoá học hàm thụ (vừa học vừa thực hành) theo
hình thức gửi thư của Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 1. Tuy nhiên hình
11
thức học hàm thụ này vấp phải thời kỳ nước ta rất khó khăn về kinh tế do
chiến tranh nên không được tiếp tục phát triển. Bên cạnh đó, các công trình
nghiên cứu về giáo dục từ xa không được thực hiện liên tục và kết quả học tập
bằng hình thức này còn chưa được xã hội coi trọng nên hình thức giáo dục,
đào tạo này đã bị bỏ ngỏ một thời gian rất dài.
Thuật ngữ “Đào tạo từ xa” được biết đến trong công cuộc đổi mới sự
nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta từ những năm 90 của thế kỷ trước.
Thuật ngữ này được văn bản hoá trên các quyết định của Chính phủ về việc
thành lập cơ sở đào tạo có chức năng đào tạo từ xa. Cụ thể: ngày 26/7/1993,
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 389/QĐ-TTg về việc thành lập Đại học
mở bán công thành phố Hồ Chí Minh trong đó tại điều 2 có nêu “Đại học mở
bán công thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở đào tạo đại học có các loại hình
đào tạo từ xa, đào tạo tại chỗ, đào tạo tại các điểm vệ tinh, nhằm đáp ứng
nhu cầu học tập đa dạng của xã hội, góp phần tăng cường đội ngũ cán bộ khoa
học - kỹ thuật cho đất nước”. Tiếp theo ngày 03/11/1993, Thủ tướng Chính
phủ ra quyết định số 535/QĐ-TTg về việc thành lập Viện Đại học mở Hà Nội
trong đó tại điều 2 có nêu “Viện Đại học mở Hà Nội là cơ sở đào tạo đại học
và nghiên cứu với các loại hình đào tạo từ xa, đào tạo tại chỗ nhằm đáp ứng
các nhu cầu học tập đa dạng của xã hội, góp phần tăng cường tiềm lực cán bộ
khoa học - kỹ thuật cho đất nước” [34], [35].
Hai cơ sở đào tạo này đã và đang triển khai hệ thống đào tạo từ xa dựa
trên hệ thống quản lý học tập mã nguồn mở Moodle (Modular Object
Oriented Dynamic Learning Environment) do Martin Dougiamas sáng lập vào
năm 1999 [42].
Cho tới nay đã có trên 12 trường đại học, cao đẳng được Bộ GD&ĐT
cho phép tổ chức đào tạo đại học từ xa có cấp văn bằng [25].
Cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của CNTT&TT ở Việt Nam,
hình thức dạy học qua truyền hình cũng đã phát triển rất mạnh mẽ. Cụ thể là
12
các chương trình dạy ôn thi đại học, học ngoại ngữ v.v trên kênh sóng VTV2
của Đài truyền hình Việt Nam. Bên cạnh các cơ sở đào tạo và các cơ quan nhà
nước, các doan nghiệp cũng đã bắt đầu nghiên cứu và tiến hành thử nghiệm
kinh doanh hoạt động DHTT thông qua sản xuất các băng hình, băng audio,
CD-ROM. Năm 2002 được ghi nhận là năm đầu tiên hoạt động thương mại
DHTT là một hình thức đào tạo độc lập trong lĩnh vực đào tạo qua mạng
Internet tại địa chỉ Webiste: www.truongthi.com.vn. Đến nay, hầu hết các cơ
sở đào tạo đã xây dựng Website và cung cấp dịch vụ ĐTTX, DHTT qua mạng
Internet để đào tạo cấp chứng chỉ, cấp văn bằng tốt nghiệp hoặc hỗ trợ đào tạo
truyền thống.
Một số địa chỉ Web đào tạo trực tuyến có thể được kể ra:
1)
Cổng đào tạo tiếng Anh của Công ty Global Education Việt Nam.
2)
Cổng đào tạo tiếng Anh của Công ty Cleverlearn tại Việt Nam.
3)
Cổng đào tạo trực tuyến Việt Nam.
4)
Cổng đào tạo trực tuyến của Cục Công nghệ thông tin - Bộ GD&ĐTT.
5)
Cộng đồng Moodle Việt Nam.
6)
Thư viện giáo trình điện tử - Bộ GD&ĐT.
Ngoài ra, các cơ quan hành chính nhà nước, doanh nghiệp nhà nước v.v
còn triển khai hệ thống hội nghị truyền hình (Video Conferencing) để tổ chức
chỉ đạo ngành dọc, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.
Ngày nay song song với hình thức dạy học truyền thống, DHTT đã và
đang khẳng định vị trí trong hệ thống giáo dục bởi những ưu điểm vượt trội
13
như tiết kiệm thời gian, chi phí đào tạo, người học không phải tập trung đến
lớp nhưng vẫn có thể tham gia học. Để có được ưu thế này, công nghệ
Internet đóng vai trò vô cùng quan trọng. Internet đang được phổ cập rộng rãi
tới các trường học ở vùng sâu, vùng xa. Mặt khác tốc độ truyền dữ liệu không
ngừng tăng lên trên các công nghệ ADSL, LeasedLine, Wireless, WiMax, 3G
v.v đang góp phần đáng kể thúc đẩy sự phát triển của DHTT.
Có thể nói dạy học qua mạng thông tin, truyền thông đã dần không còn xa
lạ trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên, DHTT là hình thức đào tạo
mới được đưa vào và phát triển tại các cơ sở đào tạo trong vài năm trở lại đây.
Đặc biệt, công tác quản lý hoạt động DHTT còn nhiều vướng mắc, chưa có chế
tài cụ thể phù hợp với thực tiễn. Cho đến nay chỉ có một vài công trình nghiên
cứu liên quan tới ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và QLGD nhằm
nâng cao chất lượng DHTT. Một số đề tài nghiên cứu trong chương trình đào
tạo thạc sỹ QLGD được triển khai gần đây như:
Năm 2007, học viên Nguyễn Đăng Châu đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sỹ QLGD với đề tài “Một số biện pháp quản lý việc thiết kế và sử dụng
trang Web học tập trong môi trường dạy học đa phương tiện ở trường Cao
đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội”. Tác giả đã nghiên cứu và đề xuất một
số biện pháp quản lý liên quan tới xây dựng giao diện Web để triển khai hoạt
động dạy học trên mạng, trong đó có các nội dung học tập bao gồm âm thanh,
hình ảnh được đưa lên trang Web để làm nội dung dạy học.
Năm 2008, học viên Lê Khắc Quyền đã bảo vệ thành công luận văn thạc
sỹ QLGD với đề tài “Biện pháp quản lý công tác đánh giá kết quả học tập của
học viện trong đào tạo trực tuyến ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”. Tác giả
đã nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác đánh giá kết quả học tập của
học viên trong đào tạo từ xa và đã đề xuất 04 biện pháp quản lý công tác này.
Các biện pháp đề xuất gồm có: Xây dựng quy chế đào tạo từ xa; Hoàn thiện cơ
sở vật chất trong đào tạo từ xa; Xây dựng quy trình và quản lý quy trình đánh
14
giá kết quả học tập của học viên trong đào tạo từ xa; và Nâng cao năng lực
đánh giá kết quả học tập của học viên trong đào tạo từ xa cho đội ngũ cán bộ
quản lý và giáo viên
Năm 2010, học viên Đào Quang Chiểu đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sỹ QLGD với đề tài “Biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy
học trực tuyến tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông”. Tác giả đã
nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức, quản lý dạy học trực tuyến trong giáo
dục từ xa, giáo dục đại học và đề xuất 06 biện pháp quản lý bao gồm:
(1) Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý, giảng viên về dạy học trực
tuyến.
(2) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.
(3) Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý dạy học trực tuyến.
(4) Xây dựng kế hoạch dạy học trực tuyến.
(5) Tăng cường hệ thống thiết bị, phần mềm hỗ trợ dạy học trực tuyến.
(6) Kiểm tra, đánh giá việc tổ chức dạy học trực tuyến.
Năm 2011, học viên Phạm Minh Cường đã bảo vệ thành công đồ án
“Nghiên cứu hệ thống elearning, xây dựng Trung tâm đào tạo và giáo trình
điện tử trên nền chuẩn SCORM” tại Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin -
Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã nghiên cứu chuẩn
SCORM dùng để biên soạn bài giảng, giáo trình trực tuyến mã nguồn mở.
Về mặt quản lý, có thể phân loại các cơ sở ĐTTT thành Hệ thống các cơ
sở đào tạo chính quy có cấp bằng theo hệ thống giáo dục quốc dân và Hệ
thống các cơ sở đào tạo không chính quy. Có nhiều cơ sở đào tạo không chính
quy đã thành công với các mô hình đào tạo ngoại ngữ, luyện thi đại học, đào
tạo bồi dưỡng kiến thức, v.v qua mạng Internet. Cơ sở ĐTTT chính quy có
cấp bằng theo hệ thống giáo dục quốc dân phải kể đến Trường Đại học Công
nghệ thông tin – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường đại
học công lập chuyên ngành công nghệ thông tin được thành lập theo quyết
15
định số 134/2006/QĐ-TTg ngày 08/06/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện
nay, nhà trường đang tổ chức ĐTTT và cấp bằng theo quy định của Bộ GD&ĐT
đối với hệ cử nhân chuyên ngành công nghệ thông tin (mạng, ứng dụng) [41].
Ngoài ra, Viện Công nghệ thông tin – Đại học Quốc gia Hà Nội cũng là một đơn
vị triển khai và ứng dụng E-Learning khá hiệu quả thông qua hệ thống sát hạch
trực tuyến (CmTest) sử dụng sát hạch cho mọi hình thức đào tạo.
Về ứng dụng công nghệ trong DHTT, nhiều hệ thống DHTT được triển
khai trên nền mã nguồn mở Moodle. Moodle được đưa vào Việt Nam năm
2005 bởi Cộng đồng Moodle Việt Nam với mục đích xây dựng phiên bản
tiếng Việt và hỗ trợ các cơ sở đào tạo, các tổ chức triển khai một hệ thống đào
tạo trực tuyến. Có thể nói Moodle là một trong các hệ thống quản lý học tập
thông dụng nhất tại Việt Nam. Cộng đồng Moodle Việt Nam giúp người sử
dụng giải quyết các khó khăn về cài đặt, kinh phí, hướng chỉnh sửa và phát
triển. Trang chủ của Cộng đồng Moodle Việt Nam cũng được xây dựng bằng
chính phần mềm Moodle [47].
Theo thống kê công bố trên Website của Cộng đồng Moodle Việt Nam,
hiện nay đã có 50 tổ chức và cá nhân Việt Nam dùng phần mềm mã nguồn
mở Moodle. Cơ quan chuyên ngành điển hình của Bộ GD&ĐT là Cục Công
nghệ thông tin cũng đã và đang nghiên cứu giải pháp ĐTTT áp dụng cho Việt
Nam sử dụng hệ thống quản lý học tập mã nguồn mở Moodle [43].
Một số cuộc hội thảo, hội nghị đã đề cập tới nội dung liên quan tới E-
Learning như:
Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông ICT/RDA 2/2003. Các báo cáo
khoa học trình bày tại hội thảo phản ánh các kết quả nghiên cứu, phát triển và
ứng dụng của 20 đề tài cấp nhà nước thuộc Chương trình Khoa học - Công
nghệ trọng điểm cấp Nhà nước về CNTT&TT giai đoạn 2001-2005. Hội thảo
cũng đề ra một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển CNTT&TT;
16
Hội thảo khoa học Quốc gia lần II về nghiên cứu phát triển và ứng
dụng CNTT&TT ICT/RDA 9/2004. Các vấn đề chính được thảo luận tại Hội
thảo bao gồm giáo dục điện tử và đào tạo từ xa, công nghệ đa phương tiện,
mạng IP và Internet thế hệ mới, thương mại điện tử, an toàn và an ninh thông
tin trên mạng;
Hội thảo xây dựng hệ thống đào tạo E-learning và Quản lý an toàn dữ
liệu Hiệp hội Cao đẳng Cộng đồng Việt Nam phối hợp với Tổ chức Hỗ trợ đại
học thế giới tổ chức ngày 05/01/2012 v.v
Điều này cho thấy công tác nghiên cứu và ứng dụng loại hình đào tạo
này đang được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay chưa có nghiên
cứu nào đề cập đến phát triển và quản lý một cách toàn diện hệ thống đào tạo
E-Learning.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một khái niệm đã được rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học
đưa ra các định nghĩa khác nhau từ cách cách tiếp cận khác nhau. Về mặt ngữ
nghĩa của thuật ngữ “Quản lý”, đây là danh từ ghép của từ “quản” và từ “lý”.
Từ “quản” nghĩa là cai quản, trông nom, coi sóc, giữ gìn. Từ “lý” nghĩa là
sửa sang, chỉnh sửa, làm cho tốt lên. Có thể tiếp cận khái niệm “quản lý” từ
các cách sau:
Theo quan niệm truyền thống: “Quản lý là quá trình tác động có ý thức
của chủ thể vào một bộ máy (đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu
cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã
xác định” [23].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo,“Quản lý” nghĩa là giữ ổn định để phát
triển, trong ổn định tạo mầm mống cho sự phát triển và trong phát triển giữ
được hạt nhân cho ổn định.
17
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, quản lý là quá
trình “tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản
lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ chức - nhằm làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [2, tr.9].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì cho rằng “Quản lý là sự tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động
(khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [17, tr.14].
Theo tác giả Mai Quang Huy, thuật ngữ “quản lý” gồm hai quá trình tích
hợp nhau: “Quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng
thái ổn định; quá trình “lý” là sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế phát
triển" [13, tr.4].
Frederick Winslow Taylor (1856-1915) – người được cho là cha đẻ của
thuyết quản lý khoa học với tác phẩm “The principles of scientific
management” xuất bản năm 1911, cho rằng quản lý là biết được chính xác
điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành
công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
Về chức năng của quản lý, Henry Fayol (1841-1925) cho rằng hoạt động
quản lý gồm có 5 chức năng: Xây dựng kế hoạch, Tổ chức, Chỉ huy, Phối hợp
và Kiểm tra. Còn tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì phân
chia quản lý có bốn chức năng cơ bản: Kế hoạch hóa (Planning), Tổ chức
(Organizing), Chỉ đạo - Lãnh đạo (Leading) và Kiểm tra (Controlling). Cụ thể:
Kế hoạch hóa (Planning): Là xác định mục tiêu, mục đích cho những
hoạt động trong tương lai của tổ chức và xác định các biện pháp, cách thức để
đạt được mục đích đó.
Tổ chức (Organizing): Khi tổ chức triển khai kế hoạch, người quản lý
cần phải chuyển hóa những ý tưởng trong kế hoạch thành những hoạt động
thực tiễn. Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các
thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện
18
thành công kế hoạch và đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Người quản lý
phải điều phối tốt các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, tài chính, công
nghệ v.v
Chỉ đạo - Lãnh đạo (Leading): Sau khi cơ cấu bộ máy đã hình thành,
nhân sự đã được sắp xếp cho kế hoạch thì phải có người đứng ra lãnh đạo, dẫn
dắt tổ chức. Đó là quá trình liên kết với người khác, hướng dẫn và động viên
họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Kiểm tra (Controlling): Đây là hoạt động theo dõi, giám sát các thành
quả hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn khi cần thiết
của người quản lý.
Mỗi cấp quản lý (cấp cao, cấp trung và cấp thấp) có sự phân phối tầm
hiểu biết, thời gian và công sức cho các chức năng quản trị khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Hải Sản, biểu đồ và tỷ lệ phân phối thời gian và
công sức cho các chức năng quản trị của các cấp quản lý như sau: [20]
Bảng 1.1. Phân phối thời gian và công sức cho các chức năng quản trị
của các cấp quản lý
Stt
Cấp quản lý
Kế hoạch
Tổ chức
Điều khiển
Kiểm tra
1
Cao cấp
28%
36%
22%
14%
2
Trung gian
18%
33%
36%
13%
3
Cơ sở / thấp
15%
24%
51%
10%
Như vậy, quản lý là quá trình tác động có định hướng, có chọn lựa phù
hợp với đối tượng và môi trường nhằm hướng đối tượng trong thế vừa ổn
định, vừa phát triển theo mục tiêu đề ra. Quản lý được thực hiện thông qua
các hoạt động chức năng như lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bổ nhân lực và các nguồn lực
khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức
hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục tiêu ổn định, thích ứng, tăng trưởng và
phát triển thông qua hệ thống các quyền lực đảm bảo của người quản lý như