Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Ôn thi tố nghiệp môn Văn Hóa Chính Trị có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.34 KB, 10 trang )

1
Câu hỏi 1 : “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH” (Đảng Cộng sản Việt Nam - văn kiện ĐH
VIII – Trang 110). Bằng lý luận văn hóa đã học, đồng chí hãy phân tích nhận định
trên.
Bài làm
Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng
ta luôn coi văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan
điểm này được đề cập trong Cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng và đã
được Nghị quyết Hội nghị TW 5 Khóa VIII khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đầy sự phát triển KT-XH”.
1. Trình bày ngắn gọn khái niệm, bản chất của văn hóa :
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho đến
nay văn hóa là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Song, có thể
định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những
năng lực bẩm sinh và bản chất của con người để sáng tạo ra các giá trị vật chất và
tinh thần dựa trên các chuẩn mực : chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn tài và phát
triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm tạo ra
những giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự
hình thành nhân cách con người.
Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO thì văn hóa là tổng thể sống động
các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá
trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân
tộc.
Hoạt động văn hóa là hoạt động sản xuất ra các giá trị vật chất và giá trị tinh
thần nhằm giáo dục con người khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và
khả năng sáng tạo ra chân, thiện, mỹ trong đời sống. Với ý nghĩa đó thì văn hóa có
mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất
và sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp, ứng xử xã hội trong thái độ ứng
xử với thiên nhiên.


Văn hóa có 7 thuộc tính : một là văn hóa mang tính lịch sử, hai là văn hóa
mang tính truyền thống do những giá trị văn hóa được lưu giữ, phát triển và truyền
bá qua các giai đoạn lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác, ba là văn hóa mang
tính dân tộc thể hiện rõ ở bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa nói lên đặc điểm của
một dân tộc, biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của 1 dân tộc, bốn là văn hóa
mang tính giá trị (vật thể, phi vật thể, vật chất hoặc tinh thần), năm là văn hóa bao
giờ mang tính nhân sinh, chỉ có con người mới sáng tạo văn hóa và hoàn thiện
mình thông qua môi trường văn hóa, sáu là văn hóa mang tính phát sinh và bảy là
trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Tóm lại, nói đến văn hóa là nói đến vai trò chủ thể của con người đồng thời
thông qua hoạt động văn hóa, con người cũng là sản phẩm của văn hóa. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói : “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở
1
2
và các phương thức sử dụn g. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi sự sinh tồn”. Như vậy, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn,
nhân bản.
2. Phân tích các nội dung: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH.
a- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội :
Ta biết rằng, đời sống xã hội có hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là
nền tảng vật chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời
sống xã hội. Đó là một khái quát khoa học không những cho thấy hết tầm quan
trọng của văn hóa, mà từ đó còn dẫn đến nhiều khía cạnh lý luận cùng những kết
luận thực tiễn hết sức quan trọng.
Ví dụ:

- Vì văn hóa là ''nền tảng tinh thần của xã hội'', nên khái niệm văn hóa không
thể hiểu theo nghĩa hẹp mà phải được hiểu theo nghĩa rộng (tuy chưa phải rộng
nhất), ngang với ''nền tảng vật chất của xã hội''. Xã hội phải đứng hai chân trên hai
''nền tảng'', nếu chỉ có một nền tảng thì xã hội không thể đứng vững. Đương nhiên,
đây là xét vấn đề trong giới hạn nặng về thực tiễn, không bước sang lĩnh vực triết
luận nhất nguyên hay nhị nguyên về xã hội.
- Là “nền tảng tinh thần của xã hội”, văn hoá không chỉ nằm ở một số người, ở
lớp “tinh hoa”, mà nằm trong toàn xã hội và không phải nằm ở một số ngành, nghề
mà có mặt ở tất cả các lĩnh vực sinh hoạt, hoạt động và quan hệ con người. Nghị
quyết Trung ương 5 chỉ rõ. Phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống
và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng,
từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người''.

Đời sống xã hội có hai mặt : vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội có nghĩa là văn hóa góp phần tạo nền móng của xã
hội. Nền móng có vững chắc thì sự phát triển của đất nước mới lành mạnh. Nói
văn hóa là nền tảng tinh thần có nghĩa là coi văn hóa là tổng thể các giá trị, các
tiềm năng sáng tạo của đất nước. Muốn phát triển cần phải dựa vào các giá trị đó,
cần khai thác và phát huy các giá trị đó. Thông qua thực tế kiểm nghiệm, Đảng ta
chỉ ra rằng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa thể hiện sức sống,
sức sáng tạo phát triển và bản lĩnh của một dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vị trí quan trọng.
Cũng như kinh tế tạo nên giá trị vật chất, nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần
tạo những điều kiện cần và đủ để xã hội tồn tại và phát triển. Thiếu điều kiện vật
chất thì không có sự tồn tại của con người, nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì xã
hội không thể phát triển được. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ
sở vật chất và tinh thần thường xuyên thấm lẫn vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau.
Chừng nào nền tảng tinh thần suy yếu, chừng đó xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng,
các tệ nạn xã hội xuất hiện và sự phát triển kinh tế sẽ gặp khó khăn.

2
3
Mỗi một quốc gia, dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển, cải tạo tự
nhiên, lao động sản xuất, tổ chức xã hội … đã hình thành và tích lũy một hệ thống
những kinh nghiệm, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mỗi dân tộc, và nhân loại trong quá trình hình thành và phát triển cho mình
những giá trị xã hội, những truyền thống, chuẩn mực xã hội. Giá trị là kết quả hoạt
động sáng tạo của con người và nó được coi là giá trị có ý nghĩa được cộng đồng
khẳng định, bảo vệ, có vai trò liên kết cộng đồng và định hướng cho hoạt động của
cộng đồng. Còn chuẩn mực xã hội là sự cụ thể hóa giá trị những quy định nhằm
điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Chuẩn mực đạo đức thông qua xã hội
tác động đến lương tâm, không bị phát luật điều chỉnh nhưng qua dư luận xã hội
tác động làm điều chỉnh những hành vi ấy đúng chuẩn mực của xã hội.
- Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH.
Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Nghị quyết Trung ương 5 viết:
''Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng
tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững.
Trong mỗi chính sách KT-XH luôn đòi hỏi phải bao hàm nội dung và mục tiêu
văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn
lực quyết định sự phát triển xã hội. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng
với kinh tế, chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng
là văn hóa.
- Với tính cách là ''nền tảng tinh thần của xã hội'', văn hóa phải được coi vừa là
mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, “vì xã hội công
bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện''.
Văn hóa không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế.

Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên
nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là nguồn lực
con người. Tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đao đức, tâm hồn,
nhân cách, lối sống, ý chí, nghị lực, tài năng và sự thành thạo của mỗi cá nhân và
cả cộng đồng. Chung quy lại, tài nguyên quý nhất, cái vốn quý nhất là con người,
là văn hoá.
Nói văn hóa là mục tiêu của phát triển KT-XH, có nghĩa là sự phát triển kinh tế
phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã hội, tạo cơ sở vật chất cho
sự phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần. Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự
phát triển của kinh tế, phải gắn sự phát triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục
tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo của con người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn,
nhân đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở
thành giá trị cao quý và chuẩn mực của toàn xã hội.
Phát triển KT-XH dân tộc chính là để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc, Văn
kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII viết: “Về đời sống vật chất và văn
hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về
đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành
mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong
đường lối văn hóa của Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Đó là, mục tiêu của
3
4
sự nghiệp cách mạng là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, vì mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố
nội sinh. Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người,
phát huy năng lực bản chất người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền

nhau, văn hóa vừa thể hiện trong con người, đồng thời văn hóa là môi trường, là
điều kiện cho sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp
phần vào điều tiết quá trình phát triển KT-XH.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều
hay ít lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy
tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn,
đạo lí, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mĩ của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm
lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng
cao thì khả năng phát triển KT-XH càng lớn và hiện thực.
Đối với một quốc gia, phát triển và tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với
nhau. Muốn phát triển bền vững và toàn diện thì động lực không thể thiếu là phát
triển văn hóa. Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng có khả năng phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách và chủ quan của các điều
kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển của xã hội được hài hòa,
cân đối, lâu bền. Văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất
lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Văn hóa còn góp phần phần
tăng cường sự hiểu biết, mở rộng sự giao lưu hợp tác giữa nước ta và các nước
khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Các giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc
văn hóa truyền thống là cơ sở tinh thần để ngăn chặn, hạn chế các tệ nạn xã hội,
xu hướng “sùng ngoại”, sùng bái tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ
quốc tế, để mở cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn
hóa với nước ngoài mà không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi
cung cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp
nhận những công nghệ lạc hậu, những ảnh hưởng văn hóa độc hại.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng còn có khả năng ngăn chặn, khắc
phục được những ham muốn quá mức dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
và gây ô nhiễm môi trường sinh thái, cổ vũ xây dựng một lối sống có điều độ và

hướng đến những hành vi ứng xử có văn hóa của con người đối với con người và
đối với thiên nhiên.
3. Những giải pháp cơ bản để thực hiện quan điểm của Đảng:
Ngày nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đứng trước xu thế
toàn cầu hóa, trong khi nền kinh tế nước ta còn thấp kém so với một số nước trong
khu vực và trên thế giới. Để văn hóa phát huy đúng nghĩa là nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, cần có những biện
pháp:
Một là, mở rộng, vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu
nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, bằng nhiều
hình thức phong phú. Phát động phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa,
hướng vào cuộc thi đua yêu nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Hai là, Nhà nước cần ban hành các luật, chính sách về phát triển văn hóa dân
tộc ở trên các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Hoàn chỉnh các quy chế, quy định
4
5
về tổ chức và hoạt động lễ hội, việc tang, việc cưới, cúng điếu phù hợp với giá trị
văn hóa truyền thống. Từng bước xây dựng các chuẩn mực văn hóa mới ở cơ sở.
Khuyến khích, huy động mọi nguồn lực, nhất là các nguồn lực trong nhân dân
nhằm phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Có chính sách
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, đặc biệt lưu ý sưu tầm, lưu truyền
nền văn hóa phi vật thể. Xây dựng chính sách đặc thù phù hợp, khuyến khích các
hoạt động văn hóa, như chế độ nhuận bút cũng như cách đánh giá các tác phẩm
văn hóa, nghệ thuật trong tình hình mới. Ban hành chính sách cụ thể về hợp tác
quốc tế về văn hóa.
Ba là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. Tăng
cường mức chi cho hoạt động văn hóa từ nguồn ngân sách nhà nước, cả về chi
thường xuyên và chi cho phát triển văn hóa. Nâng cao trình độ mọi mặt cho cán
bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý và nghiệp vụ ở các cơ quan

quản lý văn hóa. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ các cơ quan quản lý
văn hóa; các trường, khoa đào tạo về văn hóa
Bốn là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Trong giai
đoạn xây dựng và phát triển đất nước ngày nay, yêu cầu Đảng ta phải tăng cường
nâng cao vai trò lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa. Nhận thức đúng đắn về vai trò văn
hóa cần làm tốt hơn nữa công tác bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Các
tổ chức cơ sở Đảng cần thực hiện thường xuyên việc giáo dục lý tưởng cách
mạng, về chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước cho cán bộ, đảng viên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, theo hướng
nắm bắt được các nhu cầu văn hóa lành mạnh của quần chúng, nhằm định hướng
đúng cho các hoạt động văn hóa từ khâu nhận thức, sáng tạo, bảo quản, đến phổ
biến, phân phối và tiêu dùng sản phẩm văn hóa của giới văn nghệ sĩ và quần
chúng nhân dân. Không ngừng mở rộng dân chủ để phát huy vai trò các hoạt động
sáng tạo và tiêu dùng văn hóa trong nhân dân.
Năm là, Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Nhà
nước thể chế hóa đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng bằng các văn bản pháp
quy. Và quản lý Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để điều tiết các hoạt động
văn hóa, văn nghệ. Tăng cường giám sát, kiểm tra tất cả các hoạt động liên quan
đến văn hóa, văn nghệ. Ngăn ngừa, đối phó với âm mưu “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch đang tìm cách thẩm thấu, du nhập các loại văn hóa độc hại,
đồi trụy vào các thế hệ người Việt Nam ta hôm nay.
Tóm lại, xác định văn hóa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, một mặt đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng
của văn hóa; mặt khác, cũng để khẳng định một chân lý là chỉ có đặt văn hóa trong
sự phát triển, gắn văn hóa với sự phát triển, nghĩa là văn hóa phải bén rễ trong
kinh tế thì kinh tế mới phát triển được. Sự nghiệp văn hóa, suy cho cùng là vì con
người, như nhận định của Đảng ta: Nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn hóa là
bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối
sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan XHCN, hướng

con người tới những giá trị Chân - Thiện – Mỹ. Vì vậy trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, cần coi trọng chính sách đầu tư cho văn hóa, đầu tư cho con người,
khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia phát triển và sáng tạo văn
hóa, đồng thời hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn./.
5
6
Câu 2: Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Bài làm
Như chúng ta đã biết, đời sống xã hội có 2 mặt : vật chất và tinh thần, nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của nó. Với cách diễn đạt như vậy, văn hóa rõ
ràng vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển KTXH. Xác định đường lối chiến lược về phát
triển văn hóa của nước ta trong giai đoạn hiện nay, Nghị quyết hội nghị TW 5 khóa VIII đã xác dịnh : nền
văn hóa của ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” . Đây là một nội dung quan
trọng của Đảng và nhân dân ta trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay
1. Giải thích thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc - Mối quan hệ giữa tính chất
này (tiên tiến với đậm đà bản sắc dân tộc)
Nghị quyết TW 5 xác định rõ vấn đề tập trung xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt, không chỉ cho hiện tại mà cho cả tương lai, cho cả quốc gia,
dân tộc.
Vậy như thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ? Có rất nhiều ý kiến xoay
quanh vấn đề thế nào “bản sắc dân tộc” của nền văn hóa ? Có ý kiến cho rằng nói đến bản sắc dân tộc
của nền văn hóa chính là nói đến một nền văn hóa có gốc rễ, cội nguồn dân tộc. Có ý kiến cho rằng nói
bản sắc văn hóa dân tộc thực chất là nói đến “thẻ căn cước” của một dân tộc, nó chỉ rõ dân tộc ấy là ai,
những truyền thống gì do dân tộc tạo nên và đã thâm nhập vào tâm hồn của dân tộc, đươc nhân dân
nuôi dưỡng và thường xuyên bồi bổ, phát triển trong đời sống của mình. Theo ý kiến này, bản sắc dân
tộc của văn hóa khẳng định sự tồn tại của dân tộc, phân biệt sự khác nhau giữa các dân tộc và nó biểu
hiện tính độc đáo của dân tộc.
Theo Hiến pháp thì nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc tức là nền văn hóa mang đầy đủ các nội
dung về yếu tố dân tộc, dân chủ, nhân văn và hiện đại. Tính dân tộc thể hiện qua 3 khía cạnh : là nền

văn hóa có cội nguồn, gốc rễ dân tộc, phát triển dựa trên điều kiện sức mạnh của dân tộc và phát triển
luôn luôn vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc, phồn vinh của dân tộc. Tính dân chủ được biểu hiện thông qua
sự mở rộng và phát triển dân chủ để khẳng định chủ thể của nền văn hóa thuộc về nhân dân, để khai
thác triệt để tiềm nặng văn hóa dân tộc, phát hiện và phát triển những tài năng văn hóa. Tính nhân văn
của nền văn hóa biểu hiện sự trân trọng những giá trị của con người, nền văn hóa thấm nhuần những giá
trị nhân đạo sâu sắc và phát triển nhấn mạnh quy luật quan hệ nhân tính, khẳng định vai trò văn hóa ở
con người, khoan dung và mang nặng tính người. Tính hiện đại của nền văn hóa thể hiện qua việc phát
triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và
phục vụ cho việc đào tạo, giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng tiến bộ
xã hội.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một nền văn hóa có bản lĩnh và chứa
đựng tâm hồn của dân tộc. Theo quan điểm của Đảng tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 khóa
VIII (7/1998), những nội dung của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được biểu hiện qua
những đặc trưng sau đây :
a. Nền văn hóa tiên tiến :
Nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu : Đó là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ xã hội mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ, nền văn hóa mà trong đó dân chủ là yếu tố làm
6
7
thay đổi nhiều mặt của đời sống văn hóa dân tộc, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa, tạo
động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân. Đó là nền văn hóa
mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và con người,
giữa con người với tự nhiên, phát triển vì sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người. Đó là nền
văn hóa mang tính hiện đại về trình độ dân trí, khoa học, công nghệ Nền văn hóa tiên tiến không chỉ
trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Tóm lại, nền văn hóa tiên tiến có thể được cụ thể hóa bằng những khía cạnh cơ bản như sau: tiên tiến
về trình độ học vấn, về dân trí, về trình độ khoa học và công nghệ; tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tâm
hồn, tình cảm, lối sống; tiên tiến do sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, cả về hình thức và về nội
dung. Nền văn hóa tiên tiến Việt Nam còn là sự kết hợp truyền thống dân tộc với chủ nghĩa Mác – Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh
b. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất dân tộc luôn luôn
gắn bó với tính chất tiên tiến của nền văn hóa và hai mặt này liên quan biện chứng với nhau.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời sống tinh thần dân tộc
ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa, về cách sống và sức sáng tạo để phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác. Mất bản sắc văn hóa dân tộc tức là dân tộc đã bị đồng hóa chỉ còn lại cái
vỏ bề ngoài. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc, truyền từ
đời này sang đời khác, được làm giàu thêm bằng kinh nghiệm cuộc sống và sự sáng tạo của các thế hệ.
Đó là truyền thống được tạo ra và hun đúc trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện qua các mặt như sau :
- Đó là nền văn hóa bao gồm sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của nền văn hóa
của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, của các vùng, các địa phương trong nước. Văn hóa
Việt Nam là thành quả của tất cả các dân tộc Việt Nam trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, được hun đúc
qua hàng nghìn năm lịch sử gắn liền với công cuộc dựng nước và giữ nước. Việt Nam có 54 dân tộc,
mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, khi tất cả hội nhập nền văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam thì
nó trở nên hết sức phong phú đa dạng.
- Đó là nền văn hóa mà tính phong phú đa dạng được nhân lên gấp nhiều lần do có bề dày hàng
nghìn năm lịch sử và được trãi nghiệm qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giải phóng đất nước.
- Bản sắc văn hóa dân tộc còn biểu hiện cụ thể ở những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc
Việt Nam, là tổng hợp các giá trị tinh thần tiêu biểu của dân tộc, bao gồm 6 giá trị : Một là tinh thần yêu
nước, yêu quê hương nồng nàn. Hai là tinh thần đoàn kết dân tộc. Ba là tính cộng đồng gắn kết giữa cá
nhân, gia đình, quê hương, tổ quốc. Bốn là tinh thần nhân nghĩa, nhân ái thấm nhuần chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo sâu sắc của con người Việt Nam : sống có tình nghĩa, thủy chung trong gia đình, với làng
xóm, với cộng đồng, yêu thương quý trọng con người, tinh thần trọng lẽ phải, trọng đạo đức, học thức,
yêu cái đẹp, cái hay. Năm là tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân ta. Sáu là lối sống tinh tế,
khiêm tốn, giản dị và trung thực của con người Việt Nam, sự tế nhị trong tâm hồn, trong phong cách giao
tiếp. Trong 6 giá trị tinh thần của dân tộc ấy, qua các thời đại lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước,
yêu nước đã trở thành một giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc và chủ nghĩa yêu nước đã trở thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả tiến trình lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nó trở thành giá trị cao nhất trong các

thang bậc giá trị văn hóa Việt Nam và là một động lực cực kỳ to lớn. Chính vì vậy, nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc trước hết là nền văn hóa yêu nước. Có thể nói yêu nước và tiến bộ vừa là đặc trưng bao
quát nhất của nền văn hóa tiên tiến, vừa là đặc trưng của bản sắc dân tộc.
Nói nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam cũng là nói về các hoạt động văn hóa, sinh
hoạt văn hóa, sáng tạo văn hóa, tác phẩm văn hóa phải thể hiện rõ nét và sâu sắc các giá trị tinh thần
của dân tộc. Những giá trị ấy dến nay còn được lưu lại và giữ gìn trong nhân dân, trong xã hội qua các di
sản lịch sử và văn hóa.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc này chỉ có thể phát triển bền
vững và phát huy đầy đủ bản sắc của nó trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của loài người,
nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi quan hệ
với thế giới. Bởi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra là tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính thời đại,
trước hết trong lĩnh vực kinh tế, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một quốc gia có thể đứng biệt
lập mà có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác, phải nhận thức được rằng toàn cầu hóa là một quá trình
đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu kỹ thuật, kinh tế là mặt tích cực có lợi ta phải tận dụng, song cũng
không thể bỏ qua mặt xã hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa
2. Lý do đưa đến những lý luận trên
Việc xây dựng đường lối phát triển một văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng
được dựa trên nền tảng cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc
7
8
Về cơ sở lý luận, đường lối phát triển văn hóa của Đảng ta xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa Mác
Lênin. Như chúng ta đã biết văn hóa là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người tức là thuộc
về kiến trúc thượng tầng. Theo học thuyết Mác Lênin, kiến trúc thượng tầng chịu sự quy định của cơ sở
hạ tầng, vì vậy sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là
muốn phát triển văn hóa phải phát triển kinh tế vì kinh tế là nền tảng sự phát triển, là cơ sở vật chất của
xã hội và vì vậy nó cũng là tiền đề để tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật phát triển văn hóa. Tuy nhiên thừa
nhận văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế nhưng chúng ta cũng phải thấy tính độc lập tương đối
của văn hóa so với kinh tế. Điều đó có nghĩa là cơ sở kinh tế không tác động trực tiếp tức khắc tới văn
hóa, không phải cứ hễ kinh tế cao thì văn hóa phải cao và ngược lại.
Mặt khác, nói đến văn hóa cũng tức là nói đến con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra

văn hóa, đồng thời thông qua hoạt động văn hóa, con người trở thành sản phẩm của văn hóa. Văn hóa
chính là phương thức để con người tồn tại và phát triển, là cách thức để con người tách mình ra khỏi
động vật. Như vậy, đến lượt mình, văn hóa - với tư cách là hoạt động tinh thần mang tính sáng tạo - lại
trở thành động lực của phát triển. Trong thời đại ngày nay chúng ta thấy rằng sự phát triển của mỗi quốc
gia không phải do vấn đề vấn đề tài nguyên, dân số, điều kiện địa lý quy định mà là do nhân tố con
người quyết định. Động lực của sự phát triển ấy nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, lối
sống, ý chí nghị lực, sự thành thạo tài năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Mà văn hóa chính
là yếu tố tạo ra con người, vì vậy xét cho cùng văn hóa cũng chính là động lực phát triển xã hội.
Cách mạng văn hóa là một quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng CNXH bởi vì cách mạng
văn hóa là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa, như Lênin đã từng khẳng định : giai cấp công
nhân sau khi đã hoàn thành cách mạng thì khâu cuối cùng có xây dựng được CNXH hay không là tùy
thuộc vào cuộc cách mạng văn hóa
Có thể thấy rằng Nghị quyết TW 5 về văn hóa chính là sự tiếp tục triển khai tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa : gốc của văn hóa chính là dân tộc, văn hóa phải soi đường cho quốc dân, dân tộc và
văn hóa là một mặt trận, văn nghệ sỹ là các chiến sỹ trên mặt trận này.
Đường lối phát triển văn hóa tại Nghị quyết TW 5 là sự tiếp nối ở một thời kỳ lịch sử mới với
những nội dung mới của Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng Cộng sản Đông Dương theo 3 nguyên
tắc : dân tộc, khoa học và đại chúng. Nghị quyết TW 5 về văn hóa còn chứa đựng các quan điểm coi
văn hóa là nền tảng tinh thần, coi giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nói
như vậy để khẳng định nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là sự phát triển lên một nấc thang
mới, cao hơn của nền văn hóa dân tộc khoa học và đại chúng.
- Về cơ sở thực tiễn, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là hết sức
cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước bởi những lý do sau :
- Sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng ta và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy cao độ năng
lực của con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, thực hiện 2
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; là một sự nghiệp sáng tạo to lớn cùa nhân dân ta đồng thời là quá trình cải biến sâu sắc, đòi
hỏi phát huy nguồn lực trí tuệ và năng lực bản lĩnh của mỗi con người Việt Nam. Mà con người Việt Nam
chính là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam, vì thế quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng
chính là quá trình góp phần quan trọng thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực

con người, nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển . Đảng ta coi đây là trung tâm của sự
nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực xã hội xã hội chủ nghĩa
- Mặt khác, cùng với tiến trình đổi mới đất nước, chấp nhận nền kinh tế thị trường là sự thay đổi
về cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu tăng nhanh về văn hóa của mọi tầng lớp dân cư, quá trình dân
chủ hóa xã hội những yếu tố này làm thay đổi đời sống văn hóa dân tộc. Khi tiếp xúc với nền văn
minh vật chất, con người dễ nảy sinh tâm lý sùng bái kỹ thuật, chạy theo cái mới, cái hiện đại và đối lập
với cái truyền thống. Khi con người đối lập với truyền thống đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, coi kỹ thuật
thống trị con người thì sự trống rỗng trong tâm hồn và suy thoái trong bản chất nhân văn là điều không
tránh khỏi. Bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường và của quá trình mở cửa đã tác động xấu đến đời
sống tinh thần của dân tộc, đặc biệt là ở thế hệ trẻ. Tâm lý tiêu dùng vật chất, chạy theo đồng tiền, làm
mờ nhạt các giá trị tinh thần vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc. Thực trạng suy thoái về tư tưởng,
đạo đức lối sống ở một bộ phận “không nhỏ” cán bộ, Đảng viên và quần chúng ngày càng phổ biến hơn,
tinh vi hơn, nghiêm trọng hơn, đòi hỏi chúng ta phải chấn hưng nền văn hóa dân tộc thông qua sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Ngoài ra, việc mở cửa để hội nhập với khu vực và các nước trên thế giới, tiếp thu những thành
tựu văn hóa văn minh của nhân loai đòi hỏi chúng ta phải có một trình độ văn hóa tương ứng để tiếp
biến các thành tựu đó và làm chủ được những quá trình công nghệ để CNH-HĐH đất nước. Mở
cửa hội nhập, văn hóa Việt Nam được tiếp cận ngày càng nhiều hơn các giá trị (tinh hoa) văn hóa nhân
loại, làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc và giúp nhanh chóng xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc Mặt khác, trong quá trình toàn cầu hóa, lợi thế đang nghiêng về các nước phát
triển; các nước giàu đang có xu hướng áp đặt giá trị văn hóa của họ cho các nước nghèo. Dòng chảy
văn hóa đang có xu thế từ nước mạnh sang nước yếu, từ nước giàu sang nước nghèo. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, nếu không có ý thức đầy đủ sẽ dẫn tới đánh mất đi bản sắc dân tộc trước sự
8
9
''quốc tế hóa'' của văn hóa, khoa học và công nghệ. Cần thấy rằng, sự hội nhập và phát triển mà không
xuất phát từ đặc điểm lịch sử và truyền thống dân tộc thì sẽ không bền vững. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa
tạo khả năng quốc tế hóa cả các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội. Những ấn phẩm văn hóa phản
động, đồi truỵ, làn sóng tội phạm, bạo lực và ma túy từ nước ngoài tràn vào đã góp phần làm lan tràn
thêm các tệ nạn xã hội ở nước ta trong những năm gần đây, cộng với âm mưu ''diễn biến hòa bình'' của

các thế lực thù địch và sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
thật sự là một nguy cơ làm suy yếu nền tảng tinh thần của đất nước, làm suy yếu ngay cả chế độ.
Từ những phân tích trên cho thấy nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc là hết sức cần thiết và cấp bách.
3. Những nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
Để thực hiện những nội dung, nhiệm vụ trên của Đảng về cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực tư tưởng văn hóa, văn kiện Hội nghị TW 5 (khóa VIII) đã xác định 10 nhiệm vụ cụ thể như sau :
1. Xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
HCM, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo trong đời sống
tinh thần của xã hội ta. .
2. Xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa với các tiêu chí phát triển về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức. Chỉ với những đức tính trên,
con người Việt Nam mới thật sự là chủ thể của văn hóa, giàu tiềm năng sáng tạo và là nguồn nội lực
quan trọng của đất nước, đáp ứng được sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
3. Xây dựng lối sống mới - lối sống có văn hóa : lối sống tốt đẹp, tiến bộ và đậm đà bản sắc dân
tộc, dựa trên các điều kiện về mức sống và chất lượng sống ngày càng được nâng cao.
4. Xây dựng gia đình văn hóa, hướng vào các tiêu chí gia đình no ấm, thuận hòa, dân chủ, bình
đẳng, tiến bộ và hạnh phúc và dựa trên 2 quan hệ cơ bản của hôn nhân và huyết thống.
5. Xây dựng môi trường văn hóa trong lành bao gồm cả sinh thái tự nhiên và sinh thái xã hội. Bảo
đảm đời sống văn hóa được duy trì, phát triển liên tục và không ngừng gắn kết nhân tố con người văn
hóa, hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa
6. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu hoạt động sáng tạo cũng như
hưởng thụ các giá trị, các sản phẩm văn hóa cho quần chúng nhân dân ở cơ sở
7. Giữ gìn và phát huy các giá trị, các di sản văn hóa của các dân tộc ít người trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam
8. Xây dựng các thiết chế văn hóa đủ mạnh để tổ chức các hoạt động văn hóa, xây dựng nền
văn hóa dân tộc.
9. Tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa trên cơ sở để phát triển nền văn
hóa dân tộc, giữ gìn độc lập tự chủ với phương châm mở cửa phải có điều kiện, giao lưu phải giữ vững
nguyên tắc

10. Phát triển văn hóa khoa học, văn hóa giáo dục và văn hóa nghệ thuật đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới của đất nước. Về khoa học: xây dựng lực lượng đội ngũ trí thức công nhân lành
nghề, cán bộ đầu đàn khoa học cả về số lượng lẫn chất lượng; nghiên cứu ứng dụng những thành tựu
khoa học hiện đại của thế giới, xây dựng cơ sở vật chất kinh tế hiện đại đảm bảo cho khoa học phát triển
lâu dài và mang tính chiến lược.…Về giáo dục : quán triệt mục tiêu giáo dục của thời đại “học để biết,
học để làm, học để chung sống và học để làm người “; quán triệt nội dung giáo dục toàn diện của Đảng
CS VN : giáo dục trị thức, tay nghề, phương pháp làm người, phẩm chất đạo đức kiến thức lịch sử dân
tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin là tư tưởng Hồ Chí Minh … khắc phục những mâu
thuẩn và xóa bỏ những tiêu cực trong giáo dục. + Về văn hóa nghệ thuật: đánh giá lại văn học nghệ
thuật trước cách mạng, trong kháng chiến và trong quá trình đổi mới nhằm phản ánh đúng hiện thực sôi
động của đất nước trong tình hình mới. Thực hiện chế độ chính sách tôn giáo.
11. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa và văn
nghệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực xã hội.
Tiếp tục thực hiện đòi hỏi phải nghiêm túc thực hiện 10 nhiệm vụ cụ thể do Nghị quyết Trung
ương 5 đề ra, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 10 (khóa IX) đã nhấn mạnh ba nhiệm
vụ trọng tâm, coi đó là khâu đột phá để tiến lên làm tốt các nhiệm vụ khác. Ðó là:
9
10
1- Nhiệm vụ hàng đầu vẫn là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành
mạnh. Ðây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài. Ðể làm tốt nhiệm vụ này
đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, phải nghiêm chỉnh thực hiện cuộc vận động lớn
về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Ðảng và cải cách hành chính, phát triển văn hóa trong Ðảng, trong Ðoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh. Kiên quyết đưa những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức đảng và cơ quan
Nhà nước.
2- Chăm lo xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính đã được Nghị quyết Trung ương 5
xác định; hình thành những chuẩn mực, những tiêu chí cụ thể phù hợp với từng ngành, giới; không
ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ và đạo đức, lối sống cho mỗi công dân; coi
trọng bồi dưỡng trong thanh thiếu niên lòng yêu nước, ý thức sáng tạo, tinh thần dân chủ, biết sống và
làm việc với mọi người và thế giới hiện đại.

3- Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, phát triển môi trường văn hóa cộng đồng lành
mạnh, phong phú đi đôi chăm sóc, phát huy các tài năng văn hóa, nghệ thuật, tạo được nhiều công
trình có giá trị.
Tóm lại, thực hiện câu nói của Bác Hồ: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", việc xây dựng và
phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới là khát vọng to lớn và quyết tâm chiến lược của
Ðảng ta nhằm phát triển mạnh mẽ văn hóa dân tộc, chấn hưng đất nước, đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, vươn lên sánh vai với các nước trên thế giới. Đây là sự nghiệp lâu dài của cả quốc gia, dân
tộc và để sự nghiệp thành công, đòi hỏi phải có nghị lực phi thường, sức đóng góp sáng tạo của toàn
dân, đặc biệt là các thế hệ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động văn hóa - thông tin, của mọi
cấp, mọi ngành liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước.
10

×