Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 116 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM





NGUYỄN THỊ LOAN


CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƢỜNG CÁN BỘ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY




ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05












Hà Nội – 2008



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM





CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƢỜNG CÁN BỘ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY




ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05



Học viên: Nguyễn Thị Loan
Lớp 1, K6, Cao học Quản lý Giáo dục
Giảng viên hƣớng dẫn: PGS.TS Đặng Xuân Hải










Hà Nội - 2008


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


mở đầu
1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật ƣu đãi xã hội

4
1.1.
Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội
4
1.1.1
Định nghĩa pháp luật ưu đãi xã hội
4
1.1.2.
Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật ưu đãi xã hội
9
1.2.
Các nguyên tắc của pháp luật ưu đãi xã hội
10
1.3.
Vai trò, ý nghĩa của pháp luật ưu đãi xã hội
15
1.4.
Lược sử phát triển của pháp luật ưu đãi xã hội (từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đến nay)
18
1.4.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám-1945 đến năm 1954
19
1.4.2.
Giai đoạn từ 1954 đến 1975
20
1.4.3.
Giai đoạn từ 1975 đến 1985
23
1.4.4.

Giai đoạn từ 1986 đến 1994
24
1.4.5.
Giai đoạn từ 1995 đến nay
25

Chương 2: Quy định pháp luật ƣu đãi xã hội ở Việt nam và thực
trạng áp dụng
28
2.1.
Đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội
29
2.1.1.
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945
29
2.1.2.
Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi
nghĩa 19 tháng Tám năm 1945
29
2.1.3.
Liệt sĩ
29


2.1.4.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng
31
2.1.5.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động
31

2.1.6.
Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh
32
2.1.7.
Bệnh binh
33
2.1.8.
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
34
2.1.9.
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày
35
2.1.10.
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế
35
2.1.11.
Người có công giúp đỡ cách mạng
36
2.2.
Các chế độ ưu đãi xã hội
36
2.2.1.
Chế độ ưu đãi trợ cấp
37
2.2.1.1.
Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 01
tháng 01 năm 1945 và thân nhân của họ
38

2.2.1.2.
Đối với người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945
đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945 và thân nhân của họ
39
2.2.1.3.
Chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ
40
2.2.1.4.
Chế độ đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng
41
2.2.1.5.
Chế độ đối với Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động
41
2.2.1.6.
Chế độ đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương
binh, thương binh loại B (gọi chung là thương binh)
42
2.2.1.7.
Chế độ đối với bệnh binh
43
2.2.1.8.
Chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa
học
45
2.2.1.9.
Chế độ đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng
chiến bị địch bắt, tù đày
45
2.2.1.10.
Chế độ đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo

vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế
46


2.2.1.11.
Chế độ đối với người có công giúp đỡ cách mạng
46
2.2.2.
Chế độ chăm sóc sức khỏe
47
2.2.3.
Chế độ đảm bảo về việc làm
48
2.2.4.
Chế độ ưu đãi về giáo dục - đào tạo
50
2.2.5.
Các chế độ khác
51
2.3.
Thực trạng áp dụng pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam hiện nay
52
2.3.1.
Những thành tựu, kết quả đạt được
52
2.3.2.
Những hạn chế và tồn tại
55

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ƣu đãi xã hội

ở Việt Nam
60
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội
60
3.1.1.
Pháp luật ưu đãi xã hội phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
của đất nước
60
3.1.2.
Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính toàn diện
63
3.1.3.
Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính thực tiễn
64
3.1.4.
Xã hội hóa hoạt động ưu đãi xã hội, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ
giữa ba chủ thể Nhà nước, đối tượng được hưởng ưu đãi và cộng
đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
65
3.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội
67
3.2.1.
Về đối tượng hưởng ưu đãi xã hội
67
3.2.2.
Về các chế độ trợ cấp ưu đãi
69
3.2.3.

Hoàn thiện cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật ưu đãi xã hội
72
3.2.4.
Về việc xây dựng pháp luật ưu đãi xã hội
73

Kết luận
80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82




MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định
tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Từ xa xưa đã có nhiều quan điểm, tư
tưởng khẳng định vai trò của giáo dục đối với mỗi con người và đối với xã hội.
Giáo dục được coi là một trong những nhân tố quan trọng xây dựng xã hội an
lạc, phú cường.
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI và đang ở thiên niên kỷ thứ 8. Đây là
thời kỳ mà cuộc cách mạng khoa học-công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những
bước tiến nhảy vọt, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ
nguyên thông tin và kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới tất cả các lĩnh vực,
làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Trước đây, khoa học-kỹ thuật liên quan chủ yếu tới yếu tố năng lượng và vật

chất, thì ngày nay lại tập trung chủ yếu vào yếu tố thời gian, không gian và tri
thức con người. Điều đó càng khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của
giáo dục trong việc duy trì và phát triển nguồn cung cấp các tài sản trí tuệ.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục, nên Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển giáo dục.
Quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” được đề ra trong Đại hội Đảng
khóa VIII, được ghi vào Hiến pháp 1992 (Điều 35). Nội dung của quan điểm
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã thể hiện: giáo dục là nhân tố cơ bản quyết
định sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, giáo dục là bộ phận quan
trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đối với từng địa phương,
từng khu vực và cả nước, phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-
xã hội.


Hiện nay, trên đất nước ta, sự nghiệp đổi mới tiếp tục được phát triển cả
chiều rộng lẫn chiều sâu; công cuộc CNH-HĐH đất nước được đẩy mạnh nhằm
thực hiện mục tiêu chiến lược đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó,
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ (ĐNCB) của Đảng, trong đó cán bộ
các đoàn thể nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng, là một trong những khâu có ý
nghĩa quyết định. Lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo phong trào quần chúng, đưa chủ
trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, Đảng không những phải đào
tạo, bồi đưỡng ĐNCB làm công tác Đảng, công tác chính quyền, còn phải đào
tạo, bồi dưỡng ĐNCB làm tốt công tác vận động quần chúng và chất lượng
ĐNCB là yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả công tác vận động nông dân.
Với tư cách là một Trường của một đoàn thể chính trị-xã hội, Trường Cán bộ
Hội Nông dân Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ Hội các cấp từ T.Ư đến cơ sở đảm bảo nâng cao trình độ chuyên môn và năng
lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp.
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ CNH-

HĐH đất nước, đặc biệt là sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Trường còn nhiều bất cập. Để đạt được mục
tiêu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp có trình độ, có năng lực thực
hành, kỹ năng hoạt động thực tiễn, tự chủ, năng động, sáng tạo… phục vụ cho
sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn thì trước hết Trường Cán bộ Hội
Nông dân Việt Nam cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong bất cứ Trường đại học, cao đẳng hay Trường cán bộ nào thì đội ngũ
giảng viên đóng vai trò quan trọng và quyết định đến quy mô và chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng; là đội ngũ giữ vai trò chủ đạo trong việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực có trình độ, có năng lực, có tay nghề cho xã hội. Sau nhiều năm


xây dựng và trưởng thành, Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam đã có bước
phát triển đáng kể, đội ngũ giảng viên của Trường ngày một tăng lên cả về số
lượng và chất lượng, công tác phát triển đội ngũ này có nhiều bước tiến đáng kể,
đời sống vật chất và tinh thần của giảng viên ngày một cải thiện, nhờ đó đã góp
phần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề phát
triển đội ngũ giảng viên so với yêu cầu phát triển của Trường trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều
bất cập: Đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng và trình độ, chất lượng chưa
cao, công tác phát triển đội ngũ giảng viên chưa được quan tâm đúng mức.
Chính từ nhận thức đó, là một cán bộ quản lý cấp phòng, trực làm nhiệm
vụ xây dựng, triển khai các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Trường, tôi luôn
trăn trở, suy nghĩ tìm các biện pháp khả thi để tham mưu cho Ban Giám hiệu giải
quyết vấn đề này. Vì vậy, tôi chọn Đề tài: “Các biện pháp phát triển đội ngũ
giảng viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
làm luận văn tốt nghiệp cho mình với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường cán bộ Hội
Nông dân Việt Nam nói riêng và các Trường bồi dưỡng cán bộ nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác phát triển đội ngũ giảng viên của
Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam, đề xuất các biện pháp phát triển đội
ngũ giảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của Trường trong giai đoạn hiện
nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
3.2. Nghiên cứu thực trạng về công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường
Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam.


3.3. Đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội
Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ Hội Nông dân
Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, so sánh,
phân loại…
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát thực tiễn,
phương pháp xin ý kiến chuyên gia, phương pháp phỏng vấn, phương pháp
nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
- Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp xử lý số liệu thống kê để hỗ trợ,
bổ sung việc xử lý kết quả.
6. Giả thuyết khoa học
Đưa ra được các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán
bộ Hội Nông dân Việt Nam phù hợp, khả thi góp phần mở rộng quy mô, nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường.

7. Phạm vi nghiên cứu:
Tác giả chỉ tập trung đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên của Trường
Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam từ 2003-2008 và công tác phát triển đội ngũ
giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam từ khi thành lập đến nay.
8. Đóng góp của Đề tài
8.1. Về mặt lý luận


Tổng quan được một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác phát triển đội
ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam.
8.2. Về mặt thực tiễn
Đánh giá được thực trạng đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội
Nông dân Việt Nam; Đề xuất các biện pháp mang tính hiện thực và khả thi nhằm
phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam nói
riêng và Trường bồi dưỡng cán bộ nói chung.
9. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu; kết luận và khuyến nghị; tài liệu tham khảo và phụ
lục; luận văn dự kiến được trình bày làm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên
Chƣơng 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán
bộ Hội Nông dân Việt Nam
Chƣơng 3: Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ
Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

















Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Đội ngũ giảng viên
1.1.1.1. Giảng viên
Theo Luật Giáo dục năm 2005 thì giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ
giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong các trường cao đẳng, đại học và sau
đại học.
Giảng viên (nhà giáo) là nhân tố ảnh hưởng chính và quyết định đến chất
lượng của giáo dục. Lao động của họ tạo ra sản phẩm là con người được giáo
dục, đào tạo về kiến thức cơ bản, có chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng lao động
đáp ứng nhu cầu của kinh tế-xã hội. Trong công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập
của đất nước ta hiện nay, lao động của nhà giáo trực tiếp đáp ứng nhu cầu về
nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Lao động của nhà giáo đồng thời hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Với nguồn nhân lực hùng hậu được đào tạo sẽ góp phần vào
việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài mà Đảng và Nhà
nước đang hướng tới.
Không chỉ ý nghĩa xã hội kể trên, lao động của nhà giáo còn có ý nghĩa kinh
tế quan trọng. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất vật chất và tinh thần khiến người

lao động phải đáp ứng trước những thách thức mới. Người lao động buộc phải có
những năng lực thích ứng, phải phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của


khoa học và công nghệ; những thay đổi về môi trường lao động đến hệ thống
quản lý điều hành sản xuất. Nó buộc người lao động phải có kỹ năng lao động
sâu hơn, rộng hơn, phải có năng lực đổi mới thích ứng nhanh chóng, cập nhật
nhanh các kỹ thuật công nghệ mới. Nhà giáo sẽ góp phần không nhỏ vào việc tạo
ra sự thay đổi kỹ năng, cách tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ mới tạo ra chất
lượng giáo dục, đào tạo tốt hơn đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế ngày
một cao hơn.
Điều 14, Luật giáo dục năm 2005 nêu rõ vai trò của nhà giáo: “Nhà giáo có
vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không
ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho người học”. Hiện nay trong bối
cảnh giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu”, giáo dục phải liên tục được đổi
mới để đáp ứng với những thay đổi không ngừng trong các lĩnh vực kinh tế,
khoa học, kỹ thuật, văn hóa và xã hội thì yêu cầu đối với đội ngũ nhà giáo cũng
ngày một cao hơn.
Để làm tròn vai trò quyết định của mình đối với việc đảm bảo chất lượng
giáo dục, nhà giáo phải có tiêu chuẩn, nhiệm vụ sau:
* Tiêu chuẩn giảng viên:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng chính trị vững vàng. Phẩm
chất, lập trường tư tưởng của nhà giáo là lòng yêu nước, giác ngộ chủ nghĩa xã
hội. Nó thể hiện ở niềm tin cách mạng trong sáng và cao thượng. Tình cảm này
xuất phát từ lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh. Điều đó còn thể hiện ở lòng yêu nghề, tâm
huyết với nghề và có nhu cầu làm việc tại các cơ sở đào tạo; có trách nhiệm, yêu
thương học sinh, kiên trì, vị tha và chủ động trong mọi tình huống ứng xử với
học sinh; có lối sống giản dị, khiêm tốn, lịch sự.



- Về trình độ chuyên môn: Phải có bằng cấp đạt chuẩn, trình độ của thầy
phải tương ứng với nhiệm vụ đào tạo được giao, có chuyên môn sâu trong lĩnh
vực mình phụ trách, có khả năng truyền đạt và xử lý tình huống. Luôn luôn trau
dồi, đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung, chương trình nhằm
đạt được mục tiêu đào tạo. Đồng thời, giảng viên phải có nghiệp vụ sư phạm, thể
hiện sự độc đáo không chỉ những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn cả việc xử lý
những tình huống khó đòi hỏi có tính tâm lý giáo dục, nhân cách phát triển phù
hợp với các yêu cầu hoạt động nghề nghiệp. Muốn có chất lượng dạy học tốt thì
nhà giáo phải có trình độ sư phạm tốt, phải có hệ thống tri thức giỏi về chuyên
môn, phải nắm được một hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nhất định, phải rèn luyện
được những phẩm chất, nhân cách đặc trưng cho nghề dạy học. Điều kiện để
hình thành trình độ sư phạm là nhà giáo phải biết tích luỹ kiến thức khoa học ở
trình độ cao, phải biết nghiên cứu hoa học, phải tích cực tham gia vào các hoạt
động dạy học để tích luỹ thêm kinh nghiệm và phát huy sáng tạo trong việc giải
quyết các nhiệm vụ giảng dạy.
* Nhiệm vụ giảng viên:
- Phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước, thực hiện các quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo, điều lệ
trường cao đẳng và quy chế tổ chức và hoạt động nhà trường.
- Giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình đã được Bộ Giáo dục và Đào
tạo và nhà trường đã quy định: viết giáo trình, phát triển tài liệu phục vụ giảng
dạy, học tập theo sự phân công của nhà trường, khoa, bộ môn.
- Chịu sự giám sát của các cấp quản lý về chất lượng, nội dung, phương
pháp đào tạo và nghiên cứu khoa học.
- Tham gia hoặc chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển
giao công nghệ theo sự phân công của nhà trường, khoa, bộ môn.


- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của

người học, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người học, hướng dẫn người
học trong học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong,
lối sống.
- Không ngừng tự bồi dưỡng nghiệp vụ, cải tiến phương pháp giảng dạy để
nâng cao chất lượng đào tạo.
- Hoàn thành tốt công tác được trường, khoa, bộ môn giao.
* Quyền của giảng viên:
- Được bố trí giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo, xác định nội dung
các giáo trình giảng dạy phù hợp với quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
- Lựa chọn phương pháp giảng dạy và phương tiện giảng dạy nhằm phát
huy năng lực cá nhân, đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo.
- Được tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ; được thi nâng bậc, chuyển ngạch giảng viên,
theo quy định của pháp lệnh cán bộ, công chức.
- Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần theo các chế độ, chính
sách cho nhà giáo, được hưởng các chế độ nghỉ lễ theo quy định của Nhà nước
và được nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Được ký hợp đồng giảng dạy và NCKH tại các cơ sở giáo dục, NCKH
ngoài trường, theo quy định của Bộ Luật lao động và quy chế thỉnh giảng do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Tham gia thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường.
- Được Nhà nước xét tặng các danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo Ưu
tú, huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục” và các danh hiệu thi đua khác.
1.1.1.2. Vai trò giảng viên


Trong giáo dục, chất lượng giảng viên là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định đến chất lượng đào tạo. Giảng viên đóng vai trò của chiếc máy
cái trong quá trình đào tạo. Chất lượng giảng viên là vấn đề then chốt để nâng

cao chất lượng đào tạo của cơ sở đào tạo. Để xác định được chất lượng giảng
viên cần tiến hành đánh giá giảng viên nói chung và hoạt động giảng dạy của
giảng viên nói riêng. Vậy, cần phải có tiêu chí nào để đánh giá chất lượng giảng
viên? Đây là vấn đề không phải dễ, bởi cho đến nay, chưa có thước đo chi tiết,
mang tính chuẩn chung cho tất cả các trường cao đẳng, đại học để tiến hành đánh
giá các mặt về phẩm chất, đạo đức, trình độ chuyên môn và kỹ năng sư phạm của
người giảng viên.
Theo tác giả Nguyễn Đức Chính, để đánh giá giảng viên, trước hết cần dựa
vào chức trách, vai trò của người giảng viên. Tuy nhiên, theo thời gian, chức
trách, vai trò của người giảng viên cũng thay đổi cho phù hợp với thực tế xã hội.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu có chung quan điểm về cách xác định các
công việc thuộc chức trách giảng viên:
- Giảng dạy
- Nghiên cứu khoa học
- Phục vụ cộng đồng
- Bổn phận công dân với tư cách là nhà khoa học
Để đánh giá chất lượng giảng viên, có thể thông qua các kênh thông tin
khác nhau như căn cứ vào kết quả học tập và phát triển nhân cách của sinh viên,
kết quả đánh giá cán bộ định kỳ của nhà trường, của đồng nghiệp hoặc có thể
thông qua phiếu thăm dò ý kiến của sinh viên Vấn đề đặt ra là muốn đánh giá
chính xác, khách quan và công bằng cần xây dựng các tiêu chí chuẩn, phù hợp và
một quy trình đánh giá tốt.
1.1.1.3. Đội ngũ giảng viên


Hiện tại có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “Đội ngũ”. Các khái
niệm về đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như: đội
ngũ cán bộ công chức; đội ngũ những người tình nguyện… tất cả đều xuất phát
từ cách hiểu theo thuật ngữ “đội ngũ” thường được dùng trong lĩnh vực quân sự.
Tuy nhiên ở một nghĩa chung nhất ta hiểu: Đội ngũ là tập hợp số đông người,

hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể họ cùng
nghề nghiệp hoặc khác nghề nhưng đều có chung mục đích; họ làm việc theo kế
hoạch và gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần.
Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng rãi
như: Đội ngũ trí thức, đội ngũ thanh niên xung phong, đội ngũ tình nguyện viên,
đội ngũ cán bộ. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Đội ngũ là tập hợp một số đông
người, cùng chức năng nghề nghiệp, được tập hợp thành một lực lượng”.
Theo Webster: Đội ngũ là một nhóm người công nhân hoặc làm công cụ
thể. Ví dụ như đội ngũ giáo viên, đội ngũ nhà báo
Như vậy, khái niệm đội ngũ có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng đều
thống nhất: Đó là gồm một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành một lực
lượng để thực hiện mục đích nhất định.
Từ đó ta có thể khẳng định đội ngũ được cấu thành bởi các yếu tố sau:
- Là một tập hợp người
- Có cùng một lý tưởng, cùng mục đích
- Làm việc theo kế hoạch
- Gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần
Đối với ngành giáo dục và đào tạo, phải xây dựng, tập hợp các thành viên
để tạo ra một đội ngũ làm công tác giáo dục vừa có đức, vừa có tài. Trong đó
mỗi nhóm người có nhiệm vụ riêng tập hợp thành một khối đoàn kết thống nhất,


phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân giao phó, đó chính là Đội ngũ giảng viên.
Như vậy, ĐNGV là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên
cứu khoa học ở các trường cao đẳng và đại học họ gắn kết với nhau thực hiện
hoàn thành nhiệm vụ, theo hệ thống, mục tiêu giáo dục, cùng trực tiếp giảng dạy
và giáo dục học sinh, sinh viên, theo sự ràng buộc của những nguyên tắc có tính
chất hành chính của ngành giáo dục và của nhà nước.
Do chức năng và nhiệm vụ của giáo dục đại học, tiêu chuẩn ĐNGV của các

trường ĐH, CĐ là rất cao: thường phải tốt nghiệp ĐH loại khá giỏi và đòi hỏi
phải qua quá trình đào tạo ở mức độ cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ), có năng lực giảng
dạy, nghiên cứu khoa học và có phẩm chất đạo đức tốt. Bất kỳ GV nào không đủ
những điều kiện ấy trước sau gì cũng bị đào thải khỏi đội ngũ giảng dạy đại học,
cao đẳng. Quá trình giảng dạy ĐH, CĐ là quá trình sàng lọc khách quan nghiêm
ngặt ĐNGV.
1.1.1.4. Phát triển đội ngũ giảng viên
- Phát triển :
Theo từ điển Tiếng Việt-Viện ngôn ngữ học thì “phát triển” có nghĩa là
“Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, là sự vận động từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp”, theo đó cái mới, tiến bộ sẽ hình thành
và thay thế cho cái cũ, cái lạc hậu. Nét đặc trưng của phát triển là hình thức xoáy
trôn ốc và theo các chu kỳ. Việc hoàn thành một chu kỳ phát triển lại là cố hữu,
nền tảng cho một chu kỳ mới, chu kỳ mới có sự lặp lại một số đặc điểm của chu
kỳ trước đó.
Theo từ điển Anh-Việt, Viện Ngôn ngữ học thì “phát triển” (develop)
nghĩa là: Làm cho ai/cái gì tăng trưởng dần dần, trở lên hoặc làm cho trưởng
thành hơn, tiến triển hơn hoặc có tổ chức hơn”.


Ngày nay khái niệm phát triển được sử dụng để chỉ cả 3 mục tiêu cơ bản
của nhân loại: phát triển con người toàn diện, bảo vệ môi trường, tạo hòa bình và
ổn định chính trị.
Mọi sự vật hiện tượng trong xã hội đều luôn luôn vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng. Sự biến đổi đó hoặc do sự vận động nội tại trong chính bản
thân sự vật hiện tượng, hoặc dưới tác động của các tác nhân bên ngoài làm cho
sự vật hiện tượng biến đổi tăng tiến về số lượng và chất lượng. Tất cả những sự
tăng tiến này đều được coi là phát triển. Theo David C. Korten, nhà hoạt động xã
hội nổi tiếng người Mỹ: “Phát triển là một tiến trình qua đó các thành viên của
xã hội tăng được những khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động

và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành quả bền vững… nhằm cải
thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ”.
Như vậy, ta có thể thấy: Phát triển là tăng trưởng tiến lên tuân theo quy luật
vận động nội tại, khách quan; biểu hiện sự thay đổi tăng tiến cả về số lượng lẫn
chất lượng, cả thời gian và không gian của sự vật, hiện tượng và con người trong
xã hội.
- Phát triển đội ngũ giảng viên:
Đội ngũ giảng viên là nguồn lực cơ bản của các trường đại học và cao đẳng.
Phát triển đội ngũ giảng viên chính là phát triển nguồn nhân lực trong nhà
trường; phát triển nguồn nhân lực là việc tạo ra sự tăng trưởng bền vững của mỗi
thành viên và hiệu quả chung của tổ chức, gắn liền với việc không ngừng tăng
lên về mặt chất lượng và số lượng của đội ngũ cũng như chất lượng sống của
nhân lực. Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau về phát triển đội ngũ giảng viên dẫn
đến những quan niệm về phát triển đội ngũ giảng viên.


Theo Menges J.R. quan niệm mục tiêu của công tác phát triển ĐNGV:
“Nhằm mục đích tăng cường hơn nữa đến sự phát triển toàn diện của người giáo
viên trong hoạt động nghề nghiệp”.
Theo tác giả Nguyễn Quang Tuyền về phát triển ĐNGV: “Xây dựng đội
ngũ giảng viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, loại hình, đoàn kết, nhất trí
trên cơ sở đường lối giáo dục của Đảng và ngày càng vững mạnh về chính trị,
chuyên môn, nghiệp vụ đủ sức thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào
tạo”.
Việc phát triển ĐNGV trong nhà trường chính là xây dựng đội ngũ giảng
viên yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp GD - ĐT, gắn bó với nhà trường, có đạo
đức trong sáng, có lý tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tham gia và xây dựng
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, bổ sung nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam. Phát huy được tiềm năng con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng, có ý

thức sáng tạo, tích cực nắm bắt và làm chủ tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ
tiên tiến… ứng dụng tạo thành kỹ năng nghề nghiệp giỏi của ĐNGV.
Công tác phát triển ĐNGV là phải tăng số lượng, không ngừng nâng cao
chất lượng, và có cơ cấu hợp lý đồng bộ, để ĐNGV đủ sức thực hiện có hiệu quả
mục tiêu ĐT của nhà trường. Phát triển ĐNGV thực hiện được tốt khi gắn kết
việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý với yếu tố chính sách đãi ngộ vật chất,
tinh thần cho người GV; tạo động lực điều kiện môi trường sư phạm để người
GV đóng góp, gắn bó lâu dài với nhà trường.
Phát triển ĐNGV thực chất là phát triển nguồn nhân lực trong GD - ĐT cho
các trường cao đẳng và đại học. Trong nhà trường, quản lý phát triển ĐNGV
chính là xây dựng ĐNGV có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên
môn và năng lực sư phạm, gắn bó với nhau trong một tập thể sư phạm đoàn kết


thống nhất hỗ trợ nhau để đảm bảo thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ trong
giảng dạy và NCKH.
1.1.2. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, quản lý đội ngũ
1.1.2.1. Quản lý
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1: QL khi là động từ mang ý nghĩa:
- “Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định
- “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định
Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá trình
liên hệ chặt chẽ với nhau: “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ
gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm việc sửa sang, sắp xếp,
đổi mới đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người quản lý chỉ lo việc “quản” tức là
chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến
việc “lý” thì tức là chỉ lo việc sắp xếp, tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền
tảng của sự ổn định, thì hệ phát triển không bền vững. Nói chung, trong “quản”
phải có “lý” và trong “lý” phải có “quản”, làm cho trạng thái hoạt động của hệ
cân bằng động. Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương

tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực). Sự
quản lý đưa đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ thuật
làm cho hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau.
Có nhiều cách nhìn khác nhau về khái niệm quản lý:
- Nói đến quản lý không thể không nhắc đến tư tưởng sâu sắc của Các –
Mác, ông nhìn nhận vấn đề quản lý dưới tư tưởng phân công và hợp tác trong lao
động: “Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”.
- Theo Haror Koontz, QL là một hoạt động thiết yếu đảm bảo sự phối hợp
nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt đến mục tiêu tổ chức nhất định.


- Theo Mariparker Follit (1868 – 1933), nhà khoa học chính trị, nhà triết
học Mỹ thì: “Quản lý là một nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông
qua người khác”.
- Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo trong cuốn “ Cơ sở khoa học quản lý” thì
“ Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể QL đến
khách thể QL về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thồng các
luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”.
- Tác giả Đỗ Hoàng Toàn trong cuốn “ Lý thuyết quản lý” cho rằng: “Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống
để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường”.
Trong cuốn “Khoa học tổ chức và quản lý”, tác giả Đặng Quốc Bảo quan
niệm: “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung”; “Quản lý là một quá trình lập kế
hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong
một tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu
cụ thể”.

Từ các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, chúng ta thấy rằng tất cả
các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm quản lý, đó là trả lời câu hỏi;
Ai quản lý? (Chủ thể quản lý); Quản lý ai? Quản lý cái gì? (Khách thể quản lý);
Quản lý như thế nào? (Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái gì? (Công cụ
quản lý); quản lý để làm gì? (Mục tiêu quản lý); và từ đó chúng ta có thể đưa ra
định nghĩa:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên


kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà
hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác định
trong điều kiện biến động của môi trường.
Như vậy, quản lý là hệ thống gồm bốn chức năng:
(1) Kế hoạch: Đây là khâu đầu tiên của chu trình quản lý.
(2) Tổ chức: Sự chuyển hoá các ý tưởng trong kế hoạch thành hiện thực.
(3) Chỉ đạo: Điều khiển hệ thống là cốt lõi của chức năng chỉ đạo, nó tích
hợp với hai chức năng trên
(4) Kiểm tra: Là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý.
Trong một chu trình quản lý cả bốn chức năng trên phải được thực hiện liên
tiếp và đan xen vào nhau; phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối giữa chu
trình này sang chu trình theo hướng phát triển trong đó thông tin luôn là yếu tố
xuyên suốt không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ
sở cho việc ra quyết định trong quản lý.
1.1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau phát triển,
tinh hoa văn hoá dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không
ngừng tiến lên. Giáo dục tồn tại, vận động và phát triển với tư cách là một hệ
thống, Theo cách nói của Marx thì “dàn nhạc” giáo dục trong quá trình tồn tại và

phát triển tất yếu phải có “nhạc trưởng”. Về QLGD cũng có khá nhiều quan
điểm, được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi, từ vĩ mô đến vi mô và có nhiều
định nghĩa như sau:
Trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”, tác giả M.I
Kônđacốp định nghĩa: “Quản lý giáo dục là tập hợp các biện pháp tổ chức cán
bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường


của cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như mặt chất lượng”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính chất của
nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học
– giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái
mới về chất”.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”.
Đối với tác giả Phạm Minh Hạc thì “Quản lý giáo dục là quản lý trường
học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục
tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng
học sinh”.
Theo UNESCO: Quản lý giáo dục là cách thức điều hành hệ thống giáo dục,
nhất là các quy trình, thủ tục, quy định, quy chế… và cách thức vận hành của hệ
thống giáo dục, tất cả các cấu phần hoạt động của hệ thống.
Quản lý giáo dục gồm 3 lĩnh vực:
- Quản lý chính sách (hoạch định chính sách, lập kế hoạch, thực hiện chính
sách và phân bổ nguồn lực).

- Quản lý hành chính (sử dụng nguồn nhân lực tài chính, con người và vật
chất).
- Quản lý sư phạm (sử dụng giáo viên, tổ chức quá trình dạy học, quá trình
giáo dục, thành tích và quá trình học tập).


Ngày nay, giáo dục không còn là một thứ phúc lợi xã hội đơn thuần vì nó
được gắn với quá trình phát triển xã hội. Việc đi học của mỗi người phải là: “học
thường xuyên, học suốt đời”. Do vậy, giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ
mà là giáo dục cho mọi người, cho nên quản lý giáo dục cũng có thể hiểu là: sự
điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức điều khiển hoạt động của khách thể quản
lý thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra. Quản lý giáo dục từ cấp vĩ mô đến tầm
vi mô đều hướng tới sử dụng có hiệu quả những nguồn lực dành cho giáo dục để
đạt được kết quả (đầu ra) có chất lượng cao nhất.
Đặc điểm của quản lý giáo dục:
Hệ thống giáo dục là một bộ phận của hệ thống xã hội, do đó quản lý giáo
dục chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, các tác động của quản lý xã hội
biểu hiện ở một số đặc điểm sau:
- Quản lý giáo dục gắn liền với việc quản lý con người, đặc biệt là lao động
sư phạm của người giáo viên. Đặc thù lao động của người giáo viên mà đối
tượng lao động sư phạm là người học với những đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi
hết sức phức tạp. Người học vừa là đối tượng của hoạt động giáo dục, vừa là chủ
thể của hoạt động giáo dục, do đó kết quả giáo dục không chỉ phụ thuộc vào bản
thân nhà giáo mà còn phụ thuộc vào thái độ của ngành học. Đây chính là điểm
khác biệt của lao động sư phạm so với lao động xã hội nói chung. Mặt khác
phương tiện lao động của giáo viên chủ yếu là phương tiện tinh thần bằng lời,
bằng tấm gương, thái độ, bằng “điểm tựa”, bằng cảm hoá… Thời gian lao động

của người giáo viên cũng khác, nó không được tách bạch, rạch ròi với thời gian
không lao động sư phạm. Với bất kỳ lúc nào, ngay cả nghỉ ngơi, giải trí hay làm


việc gia đình…, người giáo viên có thể vẫn nghĩ về công việc sư phạm của mình.
Vì vậy, trong công tác quản lý giáo dục cần tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và
tinh thần cho giáo viên, đặc biệt là điều kiện nâng cao tiềm lực của họ, để họ
toàn tâm, toàn ý cống hiến cao nhất cho sự nghiệp “trồng người”.
- Sản phẩm của giáo dục có tính đặc thù nên quản lý giáo dục phải chú ý
ngăn ngừa sự rập khuôn, máy móc trong công việc tạo ra sản phẩm, cũng như
không được phép tạo ra phế phẩm.
- Quản lý giáo dục và phát triển quan điểm quần chúng, kết hợp nhân tố bên
trong và bên ngoài, trong đó nhân tố bên ngoài có tính chất quyết định. Nên cần
phải phối hợp chặt chẽ và đồng bộ các lực lượng trong nhà trường, gia đình và
xã hội.
- Quản lý giáo dục là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc, nó thu hút sự
tham gia của rất đông các thành viên xã hội và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt
đời sống xã hội.
- Quản lý giáo dục có tính xã hội rất cao, bởi vì: mọi người trong xã hội đều
tham gia vào hoạt động giáo dục, đặc biệt ở nước ta giáo dục đã phổ cập đến bậc
THCS. Tất nhiên nhà nước, các tổ chức xã hội và tư nhân phải cùng nhau tham
gia các hoạt động giáo dục thì công tác giáo dục mới có hiệu quả.
- Quản lý giáo dục là hoạt động mang tính sáng tạo vì đối tượng của hoạt
động quản lý giáo dục là con người với các mối quan hệ phức tạp của nó. Quản
lý giáo dục phải là một hoạt động mang tính sáng tạo mới phát huy được sự
sáng tạo của con người.
- Quản lý giáo dục thể hiện tính bao hàm giữa học thuật và nghệ thuật, vì
đây là dạng quản lý phức tạp, do quan hệ đa chiều với môi trường xã hội ở nhiều
phạm vi, mức độ, tầng bậc khác nhau.
Nội dung quản lý giáo dục

×