Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Biện pháp quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 131 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





PHÙNG KHÁNH TÀI




BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TÁC ĐỘNG CỦA INTERNET
ĐỐI VỚI THANH NIÊN HỌC SINH, SINH VIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI





LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa








HÀ NỘI – 2010






DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ADSL
:
Internet băng thông rộng
BBC
:
Thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh
và Bắc Ireland
CMND
:
Chứng minh thư nhân dân
ĐHQGHN
:
Đại học Quốc gia Hà Nội
GDĐT

:
Giáo dục đào tạo
GDP
:
Tổng thu nhập quốc nội
GO
:
Trò chơi trực tuyến (Game online)
HSSV
:
Học sinh, sinh viên
IP
:
Nghi thức Internet
ISP
:
Nhà cung cấp dịch cụ Internet
ITU
:
Liên minh Viễn thông quốc tế
IXP
:
Nhà cung cấp dịch vụ kết nối đường truyền
NICS
:
Khối các nước công nghiệp phát triển mới
OSP
:
Nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến
RFA

:
Đài Châu Á tự do
TCCN-DN
:
Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
TCP
:
Nghi thức điều khiển truyền tin
THPT
:
Trung học phổ thông
TNHSSV
:
Thanh niên học sinh, sinh viên
TV
:
Ti vi
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
VNNLC
:
Trung tâm thông tin mạng Internet Việt Nam
VOA
:
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ
WAIS
:
Dịch vụ tìm kiếm tài nguyên theo thực đơn
WWW

:
Dịch vụ thông tin đa phương tiện
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Mô hình quản lý tác động của Internet đối với TNHSSV…………… 27
Bảng 2.1. 20 quốc gia có nhiều người sử dụng Internet nhất trên thế giới……… 37
Bảng 2.2. Số người dùng Internet tại Việt Nam từ năm 2003-2010……………….39
Bảng 2.3. Tỷ lệ TNHSSV truy cập Internet hàng ngày tính theo độ tuổi………….42
Bảng 2.4. So sánh tần suất truy cập Internet hàng ngày giữa nam và nữ TNHSSV……43
Bảng 2.5. Tỷ lệ TNHSSV truy cập Internet hàng ngày tính theo địa bàn cư trú… 44
Bảng 2.6. Tần suất truy cập Internet của TNHSSV……………………………… 44
Bảng 2.7. Mục đích truy cập Internet của thanh niên học sinh, sinh viên……… 46
Bảng 2.8. Các thông tin TNHSSV muốn tìm kiếm khi truy cập Internet………….47
Bảng 2.9. Đánh giá của TNHSSV về nâng cao kiến thức, hiểu biết khi
sử dụng Internet…………………………………………………………………….49
Bảng 2.10. Đánh giá của TNHSSV về tình trạng lợi dụng Internet để tuyên truyền
tư tưởng phản động chống lại Nhà nước ta……………………………………… 51
Bảng 2.11. Đánh giá của TNHSSV đối với các thông tin về Việt Nam đăng tải trên
các trang web nước ngoài………………………………………………………….53
Bảng 2.12. Đánh giá về tác động của Internet làm thay đổi quá trình học tập
của HSSV………………………………………………………………………… 55
Bảng 2.13. Ý kiến của TNHSSV theo bậc học về việc thu thập thông tin mới,
nhanh hơn, đầy đủ hơn, nhiều chiều hơn để phục vụ việc học tập………… ……57
Bảng 2.14. Đánh giá của TNHSSV về hưởng thụ văn hóa tinh thần qua Internet………62
Bảng 2.15. Đánh giá của TNHSSV về mức độ lợi dụng Internet để truyền bá
văn hóa phẩm đồi trụy………………………………………………………… …66

Bảng 2.16. Đánh giá mức độ TNHSSV truy cập các trang websex………… 68
Bảng 2.17. Ý kiến của TNHSSV về tác động của Internet đến hoạt động giao tiếp
trong thanh niên học sinh, sinh viên……………………………………… …… 70
Bảng 2.18. Ý kiến của TNHSSV về tác động của các trò chơi trực tuyến……… 74
Bảng 2.19. Ý kiến của TNHSSV về tác động của Internet đối với vấn đề tình bạn,
tình yêu trong TNHSSV……………………………………………………………77
Bảng 2.20. Đánh giá của TNHSSV về tính phù hợp của các biện pháp
quản lý Internet…………………………………………………………………….82
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 2.1. Tỷ lệ TNHSSV truy cập Internet hàng ngày tính theo độ tuổi………… 42
Biểu 2.2. So sánh tần suất truy cập Internet giữa nam và nữ TNHSSV………… 43
Biểu 2.3. Tỷ lệ TNHSSV truy cập Internet hàng ngày tính theo địa bàn cư trú… 44
Biểu 2.4. Tỷ lệ tính theo tần suất truy cập mạng Internet của TNHSSV………….45
Biểu 2.5. Tỷ lệ TNHSSV truy cập Internet hàng ngày tính theo bậc học……… 45
Biểu 2.6. Tỷ lệ tính theo mục đích truy cập Internet của TNHSSV……………….46
Biểu 2.7. Tỷ lệ TNHSSV tìm kiếm các thông tin trên Internet………………… 48
Biểu 2.8. Tỷ lệ đánh giá của TNHSSV về nâng cao kiến thức, hiểu biết
khi sử dụng Internet……………………………………………………………… 50
Biểu 2.9. Tỷ lệ các mức độ đánh giá của TNHSSV về tình trạng lợi dụng Internet
để chống lại Nhà nước…………………………………… ………………………52
Biểu 2.10. Tỷ lệ TNHSSV nhận thức về sự chống phá của các thế lực thù địch…52
Biểu 2.11. Tỷ lệ TNHSSV đánh giá các thông tin về Việt Nam đăng tải trên các
web nước ngoài………………………………………….…………………………54
Biểu 2.12. Tỷ lệ đánh giá tác động của Internet làm thay đổi quá trình học tập
của HSSV………………………………….……………………………………….56
Biểu 2.13. Tỷ lệ tương quan theo đối tượng bậc học và nhận định Internet
giúp thu thập nhiều thông tin mới, nhanh hơn, đầy đủ hơn để phục vụ việc
học tập của HSSV……………………………………………………… ……… 58
Biểu 2.14. Tỷ lệ tương quan tuổi và nhận định Internet giúp tăng cường khả năng
tự nghiên cứu của học sinh, sinh viên…………………………………….……….58

Biểu 2.15. Ý kiến về việc Internet giúp TNHSSV hưởng thụ nhiều hơn những
sản phẩm văn hóa tinh thần của nhân loại…………………………………………63
Biểu 2.16. Ý kiến của TNHSSV về Internet làm thay đổi cách thức, thời gian,
không gian hưởng thụ âm nhạc của thanh niên…………………………………….64
Biểu 2.17. Ý kiến về việc Internet giúp TNHSSV được thưởng thức nhiều
bộ phim, vở kịch hay mà không cần đến rạp, nhà hát………………… …………65
Biểu 2.18. Tỷ lệ TNHSSV đánh giá mức độ lợi dụng Internet để truyền bá VH
phẩm đồi trụy…………………………………………………………….…….… 66
Biểu 2.19. So sánh tỷ lệ nhận định truy cập thường xuyên các trang websex theo
đánh giá của bản thân HSSV được hỏi và về bạn bè của họ………………………68
Biểu 2.20. Tỷ lệ TNHSSV đánh giá Internet làm cho cách viết thư truyền thống
không còn…………………………………………………………………….…….71
Biểu 2.21. Đánh giá của TNHSSV về Internet làm thay đổi ngôn ngữ giao tiếp
thông thường………………………………………………………………….……73
Biểu 2.22. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của trò chơi trực tuyến đến việc
học tập ………………………………………………………………………… …76
Biểu 2.23. Đánh giá của TNHSSV về Internet dễ gây kích động và làm gia tăng
bạo lực trong giới trẻ…………………………………………………………… 76
Biểu 2.24. Mức độ đánh giá Internet giúp TN hiểu rõ hơn kiến thức về tình dục…… 79
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
5. Giả thuyết khoa học
4
6. Phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc luận văn
5
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÁC ĐỘNG CỦA INTERNET
ĐỐI VỚI THANH NIÊN HỌC SINH, SINH VIÊN

6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
1.1.1. Một số nghiên cứu trong nước
6
1.1.2. Một số nghiên cứu ngoài nước
8
1.2. Một số vấn đề về quản lý
9
1.2.1. Khái niệm quản lý
9
1.2.2. Đặc điểm và chức năng của quản lý
11
1.3. Một số vấn đề về thông tin, truyền thông và Internet
15
1.3.1. Thông tin và quản lý thông tin
15

1.3.2. Internet
17
1.3.3. Xu thế phát triển và tác động của Internet đến sự phát triển xã hội
20
1.4. Quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên
25
1.4.1. Mối quan hệ của Internet và thanh niên học sinh, sinh viên
25
1.4.2. Quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên
26
1.5. Một số đặc điểm tâm lý lứa tuổi thanh niên học sinh, sinh viên
31
Chương 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ TÁC ĐỘNG
CỦA INTERNET ĐỐI VỚI THANH NIÊN HỌC SINH, SINH VIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


26
2.1. Khái lược về địa bàn nghiên cứu
26
2.2. Quá trình phát triển Internet
37
2.2.1. Quá trình phát triển Internet trên thế giới và tại Việt Nam
37
2.2.2. Các chính sách của Nhà nước về phát triển Internet tại Việt Nam
40
2.2.3. Kết cấu hạ tầng viễn thông cho phát triển Internet tại Việt Nam
41
2.3. Thực trạng việc sử dụng Internet của thanh niên học sinh, sinh viên trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay


41
2.3.1. Độ tuổi
41
2.3.2. Giới tính
42
2.3.3. Địa bàn cư trú
43
2.3.4. Tần suất truy cập Internet
44
2.3.5. Mục đích và các nội dung quan tâm khi truy cập Internet
45
2.4. Thực trạng tác động hai mặt của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh
viên trên địa bàn thành phố Hà Nội

48
2.4.1. Tác động của Internet đến nhận thức chính trị, tư tưởng và tiếp cận
thông tin trong thanh niên và thanh niên học sinh, sinh viên

48
2.4.2. Tác động của Internet tới việc học tập của thanh niên học sinh, sinh viên
55
2.4.3. Tác động của Internet đối với việc hưởng thụ văn hóa nghệ thuật, hoạt
động giao tiếp và giải trí trong thanh niên học sinh, sinh viên

61
2.4.4. Tác động của Internet đối với vấn đề tình bạn - tình yêu trong thanh niên
học sinh, sinh viên

77

2.5. Đánh giá thực trạng vai trò quản lý của các cơ quan chức năng, gia đình,
nhà trường và xã hội trước những tác động của Internet đối với thanh niên học
sinh, sinh viên


79
2.5.1. Thực trạng vai trò quản lý của các cơ quan chức năng Nhà nước
79
2.5.2. Thực trạng vai trò quản lý của gia đình
83
2.5.3. Thực trạng vai trò quản lý của nhà trường
84
2.5.4. Thực trạng vai trò quản lý của cộng đồng xã hội
86
Chương 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TÁC ĐỘNG CỦA INTERNET ĐỐI
VỚI THANH NIÊN HỌC SINH, SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI


88
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp
88
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý tác động của Internet đối với
thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn Hà Nội

89
3.3. Biện pháp quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh
viên trên địa bàn thành phố Hà Nội

93

3.3.1. Nâng cao nhận thức về Internet và tác động của Internet đối với thanh
niên học sinh, sinh viên trên địa bàn Hà Nội

93
3.3.2. Nâng cao kiến thức, trang bị kỹ năng và bản lĩnh cho thanh niên học
sinh, sinh viên Hà Nội trong khai thác, sử dụng Internet

96
3.3.3. Tăng cường công tác quản lý, đầu tư phát triển cơ sở vật chất, các giải
pháp kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sử dụng Internet lành mạnh và kiểm soát những
tác động tiêu cực của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên trên địa
bàn Hà Nội



97
3.3.4. Biện pháp thu hút, tập hợp, định hướng cho thanh niên học sinh, sinh
viên trên địa bàn Hà Nội thông qua Internet bằng các nội dung, phương thức
và hoạt động hấp dẫn, hữu ích


103
3.3.5. Biện pháp phối hợp gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội trong
quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên trên địa
bàn Hà Nội


107
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
109

1. Kết luận
109
2. Khuyến nghị
112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
114
PHỤ LỤC





1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Mạng thông tin điện tử toàn cầu (Internet) là thành tựu khoa học và công
nghệ to lớn của nhân loại đã và đang làm thay đổi nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Nhu cầu khai thác, sử dụng thông tin trên mạng Internet và các ứng
dụng của nó hiện nay ngày càng trở nên phổ biến, thường xuyên hơn trong xã hội,
đặc biệt là trong giới trẻ.
Internet với những lợi thế và tiện ích của nó đã đóng góp rất lớn cho sự phát
triển của xã hội hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Bên
cạnh đó, lợi dụng tính thông dụng, phổ biến và sự phức tạp trong quản lý thông tin
trên mạng cũng như như những hạn chế trong kiến thức và nhận thức của người sử
dụng, Internet đã bị lợi dụng làm công cụ để tuyên truyền, lôi kéo thanh niên, truyền
bá những giá trị phi văn hóa, phi đạo đức, tác động tiêu cực đến một bộ phận thanh
niên.
Trước tốc độ phát triển nhanh và ảnh hưởng ngày càng lớn của Internet ở
Việt Nam hiện nay, sự nhìn nhận, thừa nhận và đánh giá của xã hội về vấn đề này

cũng còn nhiều khác biệt, chưa đầy đủ, thậm chí là thiên lệch về những lợi ích cũng
như những hệ luỵ, tác động tiêu cực của Internet đối với xã hội nói chung và đối với
lối sống của thanh niên, thanh niên học sinh, sinh viên nói riêng. Hiện nay, khi đề
cập đến Internet, trong xã hội đang tồn tại hai khuynh hướng chủ yếu: một là đề cao
vai trò, những tiện ích của Internet mang lại, coi đó là một phương tiện quan trọng,
thậm chí có vai trò chi phối trong cuộc sống hiện đại; hai là quá nhấn mạnh tới
những tác động tiêu cực, coi Internet là một phương tiện để các thế lực thù địch
chống phá chế độ, là nơi truyền bá những giá trị phi văn hoá, phi đạo đức, không
phù hợp với bản sắc văn hoá và truyền thống của người Việt Nam, cần phải ngăn
chặn, cấm đoán để nó không ảnh hưởng tới lớp trẻ.
Thanh niên là những người nhanh nhạy, thích khám phá và tìm hiểu cái mới,
nhất là những thành tựu về khoa học và công nghệ. Sự ra đời và phát triển của hệ
thống Internet ở nước ta hiện nay đã tác động mạnh mẽ và nhiều mặt đến thanh niên.
Trong đó, thanh niên trong lứa tuổi học sinh, sinh viên chiếm một tỷ lệ khá cao trong
số những người thường xuyên truy cập và sử dụng Internet. Đây là lứa tuổi của sự

2
phát triển phức tạp và nhiều mặt của cá thể, đang trong giai đoạn trưởng thành và
thay đổi nhanh chóng về tâm, sinh lý, là thời kỳ biến đổi từ tuổi thiếu niên thành
thanh niên và người trưởng thành. Trong giai đoạn này, người thanh niên luôn muốn
được tự khẳng định mình, khẳng định “cái tôi” của mình trong xã hội. Đồng thời,
đây cũng là thời kỳ mà con người có sự phát triển về trí tuệ, khả năng tư duy mạnh
mẽ, tích cực và độc lập hơn, luôn khát khao khám phá, sáng tạo, học hỏi không
ngừng để bổ sung vốn tri thức và kinh nghiệm của bản thân. Tuy nhiên, do tuổi đời
còn trẻ, thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống nên trước tác động của Internet, nếu
không có đủ bản lĩnh và kinh nghiệm sẽ khó nhận thức đầy đủ, đúng đắn được cái
lợi và cái hại để sử dụng nó một cách hữu ích hay hạn chế được những tác động tiêu
cực phục vụ cho sự phát triển của bản thân thanh niên học sinh, sinh viên và sự phát
triển của xã hội.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, cơ quan liên quan

cũng như các nhà trường và gia đình đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm quản
lý, định hướng tác động của Internet đến xã hội, đến lớp trẻ nhằm vừa khai thác hiệu
quả, vừa đấu tranh ngăn chặn những tác động tiêu cực của nó. Tuy nhiên, do tính
rộng mở và tính ảo của mạng Internet nên việc quản lý còn gặp rất nhiều khó khăn,
bất cập. Vì thế, việc quan tâm nghiên cứu để có những biện pháp quản lý tác động
của Internet đối với xã hội, thanh niên nói chung, thanh niên học sinh, sinh viên nói
riêng là một đòi hỏi cấp bách và cần thiết nhằm góp phần phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nước, đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Với bản thân tác giả - là người có nhiều năm gắn bó với công tác thanh niên
và nhất là đối tượng thanh niên học sinh, sinh viên - thấy rằng Internet với thanh
niên nói chung và thanh niên học sinh, sinh viên nói riêng là một chủ đề mới, đang
thu hút sự quan tâm của xã hội cũng như giới trẻ; đây cũng là vấn đề tác giả có hứng
thú nghiên cứu và quan tâm đặc biệt trong thời gian vừa qua; đồng thời, với chuyên
ngành được đào tạo là “quản lý giáo dục”, tác giả chọn nghiên cứu về các biện pháp
quản lý tác động của Internet đến thanh niên học sinh, sinh viên để có thể đề xuất,
kiến nghị những biện pháp quản lý phù hợp, đồng bộ của nhà nước, gia đình, nhà
trường và xã hội để khai thác những ưu thế vượt trội, đồng thời khắc phục những tác
động, ảnh hưởng tiêu cực của Internet đối với nhóm đối tượng thanh niên đang ngồi
trên ghế nhà trường này. Thêm vào đó, với trách nhiệm và tình cảm của người cán

3
bộ chuyên trách làm công tác thanh niên lâu năm, tác giả muốn có được những đóng
góp cụ thể, có ý nghĩa trong công tác định hướng, giúp đỡ và hỗ trợ thanh niên nói
chung, thanh niên học sinh, sinh viên nói riêng trong học tập và cuộc sống thông qua
một phương tiện thú vị và đầy tính khám phá như Internet.
Trên cơ sở nhận thức của bản thân về những tác động của Internet đối với
thanh niên, thanh niên học sinh, sinh viên (TNHSSV) nói chung và trên địa bàn
thành phố Hà Nội nói riêng, tác giả chọn đề tài “Biện pháp quản lý tác động của
Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở khuyến nghị và đề xuất một số giải pháp

đối với các cơ quan chức năng nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng, các lực
lượng xã hội, trong đó có vai trò quan trọng của gia đình, nhà trường và các tổ chức
đoàn thể trong việc phát huy những lợi thế, tác động tích cực cũng như khắc phục,
hạn chế những tác động tiêu cực của Internet góp phần định hướng, giúp đỡ cho sự
phát triển toàn diện của thanh niên học sinh, sinh viên.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lý tác động của Internet nhằm phát huy có
hiệu quả những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của Internet
đối với thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý tác động của Internet đối với thanh
niên học sinh, sinh viên.
- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng việc sử dụng và những tác động của
Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên; đồng thời đánh giá thực trạng công
tác quản lý Internet và quản lý những tác động của Internet đối với thanh niên học
sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý để phát huy những tác động tích cực và hạn
chế những tác động tiêu cực của Internet đối với cuộc sống và học tập của thanh
niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Đưa ra các khuyến nghị tới cơ quan quản lý, các tổ chức và cá nhân liên
quan để kêu gọi, thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành và xã hội trong việc
quản lý, định hướng và hỗ trợ thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố
Hà Nội sử dụng và kiểm soát tác động của Internet một cách hiệu quả.

4
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Tác động của Internet đối với thanh niên học sinh,
sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý tác động của Internet đối với
thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.

5. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng các biện pháp nâng cao nhận thức, kiến thức cho thanh niên học
sinh, sinh viên khi truy cập, sử dụng Internet; hoàn thiện các quy định của pháp luật
và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quản lý
Internet; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật bảo đảm cung cấp dịch vụ cũng
như khả năng kiểm soát tốt hơn thông tin trên Internet; đáp ứng tốt hơn nhu cầu
chính đáng của thanh niên học sinh, sinh viên thông quan hoạt động hấp dẫn, lành
mạnh trên Internet; phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội
trong quản lý việc sử dụng và những tác động của Internet đối với thanh niên học
sinh, sinh viên… sẽ phát huy được những tác động tích cực và hạn chế được những
tác động tiêu cực của Internet, mang lại hiệu quả thiết thực cho cuộc sống và học tập
của thanh niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng khảo sát: các đối tượng là thanh niên học sinh, sinh viên các
trường THPT Nhân Chính, Xuân Đỉnh; Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, Đại
học Sư phạm thể dục thể thao; Đại học Bách khoa và Cao đẳng Sư phạm Hà Tây
(Hà Nội); các nhà quản lý về thông tin, truyền thông, nhà quản lý giáo dục, giáo
viên, phụ huynh học sinh, các chủ quán Internet công cộng…
- Về nội dung nghiên cứu: Tác giả dự kiến nghiên cứu tác động hai mặt tích
cực và tiêu cực của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên ở bốn lĩnh vực cơ
bản là: 1) Nhận thức chính trị, tư tưởng và tiếp cận thông tin; 2) Học tập; 3) Hưởng
thụ văn hóa nghệ thuật, giao tiếp và giải trí; 4) Tình bạn - tình yêu và đề xuất các
biện pháp quản lý những tác động này.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ
thống hóa các văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

5
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát bằng
phiếu hỏi, phỏng vấn…

- Nhóm phương pháp thống kê toán học và phân tích thống kê.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Tiến hành nghiên cứu các tài liệu, đề tài khoa học, các bài báo, tạp chí, bài
viết của các tác giả có liên quan đến Internet và tác động của Internet đối với thanh
niên học sinh, sinh viên, nhất là trên phạm vi địa bàn Hà Nội.
- Nghiên cứu nội dung, hình thức chuyển tải của một số trang web hiện có
trên Internet.
- Nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước, của thành phố Hà Nội về
quản lý Internet.
* Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tiến hành thu thập thông tin qua bảng
hỏi (số lượng khảo sát tương đương giữa khu vực các quận nội thành và khu vực các
huyện ngoại thành).
* Phương pháp phỏng vấn:
- Phỏng vấn nhóm tập trung: Tác giả tổ chức phỏng vấn 03 nhóm tập trung
(từ 5-10 người) phân theo từng đối tượng cụ thể (cán bộ; sinh viên, học sinh THPT;
chủ đại lý Internet…) về vấn đề liên quan đến Internet .
- Phỏng vấn sâu: Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 10 người, trong đó có: cán
bộ quản lý; giáo viên; cán bộ Đoàn, Hội; HSSV; chủ đại lý Internet và phụ huynh
học sinh.
* Phương pháp quan sát: Tác giả tiến hành quan sát số thanh niên sử dụng
Internet tại 05 đại lý Internet công cộng; quan sát các trang web (nội dung và hình
thức chuyển tải) mà thanh niên hay khai thác sử dụng.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và danh mục các tài liệu tham
khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tác động của Internet đối với thanh niên
học sinh, sinh viên.
- Chương 2: Thực trạng tác động và quản lý tác động của Internet đến thanh
niên học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Biện pháp quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học

sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÁC ĐỘNG
CỦA INTERNET ĐỐI VỚI THANH NIÊN HỌC SINH, SINH VIÊN

1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu trong nước
Internet đã xuất hiện tại Việt Nam từ gần hai mươi năm qua (từ 1993), và cho
đến nay đã có một số bài báo, chuyên đề nghiên cứu của vài bộ, ngành hoặc một số
nghiên cứu của sinh viên ngành xã hội học về tác động của Internet đối với từng
mặt trong đời sống xã hội và đời sống của thanh niên, sinh viên. Chưa có đề tài nào
nghiên cứu sâu về biện pháp quản lý tác động của Internet đối với thanh niên học
sinh, sinh viên, nhất là tập trung trên phạm vi địa bàn thành phố Hà Nội.
Một số đề tài nghiên cứu tập trung vào những tác động, ảnh hưởng của
Internet đối với sự phát triển kinh tế xã hội như: "Nghiên cứu phương pháp đánh giá
tác động của viễn thông và Internet đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam" của KS. Đỗ Tiến Thăng; đề tài: "Nghiên cứu phương pháp đánh giá tác động
của ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam" của KS. Cao Trần Việt Nga. Trong các đề tài này, các tác giả chủ
yếu tập trung vào giải quyết và kết luận các vấn đề như: đầu tư viễn thông và
Internet tác động đến tăng trưởng GDP (GDP tăng trưởng do đầu tư vào viễn thông
và Internet) và tăng trưởng của lao động toàn xã hội do tăng đầu tư cho viễn thông
và Internet hoặc đề ra phương pháp luận và mô hình đánh giá tác động của ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong các doanh nghiệp; đề xuất phương thức
tiếp cận đánh giá tác động của ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
các doanh nghiệp tới sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Các đề tài này chủ

yếu nghiên cứu tác động của Internet đối với các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội
nói chung, trong đó đi sâu vào tác động của Internet đối với phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tác giả cũng nhận thấy có những đề tài đã nghiên cứu về các vấn đề
liên quan đến sự phát triển công nghệ thông tin và truyền thông ở Việt Nam trước
những tác động của môi trường thể chế, pháp lý hiện nay, như đề tài "Nghiên cứu
phương pháp đánh giá tác động của môi trường thể chế và pháp lý trong lĩnh vực

7
công nghệ thông tin và truyền thông đối với sự phát triển công nghệ thông tin và
truyền thông ở Việt Nam" của TS. Phạm Mạnh Lâm. Đề tài đã tiến hành tổng kết các
nghiên cứu đánh giá tác động của môi trường thể chế và pháp lý trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông đối với sự phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam và
đề xuất phương pháp đánh giá tác động của môi trường thể chế và pháp lý đối với sự
phát triển công nghệ thông tin và truyền thông ở Việt Nam. Đây là đề tài nghiên cứu
về đánh giá tác động, nhưng là tác động của môi trường thể chế, pháp lý đối với sự
phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. Vì thế công nghệ thông tin và truyền
thông (trong đó có Internet) được xem như là đối tượng tiếp nhận, bị tác động.
Qua tìm hiểu, tác giả cũng được tiếp cận với một số đề tài có nhiều nét tương
đồng với đề tài tác giả lựa chọn để viết luận văn này, đó là các đề tài: "Tác động xã
hội của Internet đến lối sống của sinh viên", của TS. Nguyễn Quý Thanh, "Tác động
của Internet đối với lối sống của thanh niên" của tác giả Dương Quốc Hưng. Đề tài
của TS. Nguyễn Quý Thanh tập trung nghiên cứu sự tác động tích cực và tiêu cực
của Internet đến hoạt động học tập của sinh viên; việc sử dụng thời gian rỗi của sinh
viên; tác động đến quan niệm sống cơ bản của sinh viên, nhưng chưa đưa ra những
giải pháp để phát huy tính tích cực, hạn chế tiêu cực đối với sự tác động của Internet
trong sinh viên; hoặc đề tài của tác giả Dương Quốc Hưng đi sâu nghiên cứu, đánh
giá những tác động của Internet đối với lối sống của thanh niên và đề xuất một số
biện pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích
cực nhằm góp phần định hướng, giáo dục lối sống cho thanh niên.
Nhìn chung, các đề tài trên chủ yếu nghiên cứu khía cạnh về sự tác động của

Internet đối với phát triển kinh tế- xã hội; hoặc là nghiên cứu ở góc độ đánh giá
những tác động của Internet đối với thanh niên, học sinh, sinh viên nhưng ở một
khía cạnh là lối sống của thanh niên hoặc của thanh niên học sinh, sinh viên trên
phạm vi cả nước. Đồng thời, nội dung nghiên cứu của một số đề tài chỉ tập trung vào
đánh giá những tác động của Internet mà không đi sâu và các biện pháp quản lý tác
động của Internet nhằm khai thác lợi thế, khắc phục bất lợi, thu hút sự quan tâm của
các lực lượng trong xã hội (cơ quan quản lý nhà nước, gia đình, nhà trường và xã
hội…) trong mục tiêu và cái đích hướng tới là những sự thay đổi tích cực của mỗi
thanh niên học sinh, sinh viên trong môi trường tương tác ngày càng thường xuyên
với phương tiện Internet. Vì vậy, ngoài việc tiến hành nghiên cứu về những tác động

8
của Internet, nhiệm vụ của luận văn này là đề ra những biện pháp phù hợp, hiệu quả
để quản lý những tác động của Internet đối với thanh niên học sinh, sinh viên trên
địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Một số nghiên cứu ngoài nước
Qua tìm hiểu, có một số các đề tài nghiên cứu, các bài viết về Internet và tác
động của Internet như: nghiên cứu về Chứng nghiện Internet; tác động tiêu cực của
Internet và những giải pháp; tác động của Internet tới kết quả học tập của sinh viên;
tác động của Internet đối với việc giảng dạy và học tập; tác động của Internet đến
sinh viên…
Trong nghiên cứu về Chứng nghiện Internet (Research on Internet Addiction)
của các tác giả Chien Chou, Linda Condron, and John C. Belland đã tập trung
nghiên cứu và đề cập đến thời gian sử dụng Internet; các vấn đề liên quan đến
nghiện Internet; sự khác biệt giới tính trong nghiện Internet; nghiện Internet và các
vấn đề về tâm lý xã hội; nghiện Internet và thái độ đối với máy tính…
Nghiên cứu về Tác động tiêu cực của Internet và những giải pháp của Trung
tâm thông tin khoa học công nghệ quân đội Ru Guangrong, Trung Quốc (The
Negative Impact of the Internet and Its Solutions) đã đề cập đến hàng loạt các tác
động tiêu cực của Internet như: ảnh hưởng chính trị của những tư tưởng phản động;

xâm chiếm về văn hóa; đe dọa về an ninh; “bội thực” thông tin dẫn tới lãng phí về
nguồn lực và thời gian… Các giải pháp để giảm thiểu những tác động tiêu cực của
Internet được đề ra là: Tăng cường giáo dục lòng yêu nước; xây dựng tư tưởng và
đạo đức trong sáng; tăng cường giáo dục cá nhân và sự tự chủ của mỗi cá nhân; tổ
chức các chương trình chống lại sự xâm chiếm và phản truyên truyền trên mạng; chủ
động học cách đối mặt với xâm nhập trực tuyến trên mạng Internet; hoàn thiện hệ
thống luật pháp chống tội phạm trên mạng Internet; tăng cường phát triển hệ thống
truyền thông và tạo ảnh hưởng trên Internet; phát triển các phần mềm tìm kiếm
thông tin hữu ích để tránh lãng phí nguồn lực và thời gian…
Với một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Awais, Bilal, M.Usman,
M.Waqas, Sehrish với chủ đề Tác động của việc sử dụng Internet đối với kết quả
học tập của sinh viên (Impacts of Internet Usage on Students’ Academic
Performance), đã kết luận: Internet là một công cụ hữu ích trong thời đại công nghệ
thông tin. Nó không chỉ phục vụ tốt cho các hoạt động kinh doanh mà còn hữu ích

9
cho việc học tập, giúp sinh viên nâng cao kỹ năng và khả năng của của mình trong
học tập kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ. Những sinh viên có được kết quả học
tập tốt đã sử dụng nhiều hơn Internet cho mục đích học tập, nghiên cứu và đã thu
nhận được nhiều kiến thức và thông tin trên khắp thế giới…
Nghiên cứu của tác giả Hossein Arsham với đề tài Tác động của Internet đối
với việc giảng dạy và học tập (Impact of the Internet on Learning and Teaching) đề
cập đến việc giảng dạy - học tập thông qua mạng Internet và sử dụng Internet phục
vụ cho mục đích nâng cao hiệu quả dạy - học. Những vấn đề tác giả quan tâm đi sâu
phân tích như: Internet - vấn đề chi phí và lợi ích; chia nhóm để đạt hiệu quả học tập
tối ưu; phương thức giảng dạy và học tập; việc hiểu rõ và đáp ứng các nhu cầu học
tập của người học; sự bảo đảm về kết quả đạt được; khắc phục khoảng cách về
không gian; đánh giá chất lượng thường xuyên; bảo đảm chất lượng bằng các công
cụ đánh giá; bảo đảm bằng quyền lợi của người học; đáp ứng yêu cầu phản hồi
nhanh chóng và đầu tư về thời gian dạy - học qua mạng; tạo cho người học những cơ

hội và thử thách; sự tin cậy; thách thức với việc dạy học sinh ảo; quan hệ đối tác với
người học; sự lựa chọn khó khăn đối với người dạy và dễ dàng với người học; người
học không chỉ là khách hàng; thầy trò là một; sự cam kết của người học bảo đảm sự
thành công; làm sao tăng cường sự giao tiếp người dạy - người học…
Có thể nhận thấy, một số nghiên cứu của tác giả nước ngoài đã không chỉ
quan tâm đến vấn đề quản lý sử dụng Internet, mà đi sâu nghiên cứu những tác động
của Internet tới xã hội, tới giới trẻ, tới việc dạy và học… ở góc nhìn của một tổ chức
đại diện cho quốc gia cũng như của một nhóm tác giả hay một cá nhân (Chứng
nghiện Internet, Tác động tiêu cực của Internet và những giải pháp, Tác động của
việc sử dụng Internet đối với kết quả học tập của sinh viên…). Tuy nhiên, các
nghiên cứu cũng không đề cập nhiều và sâu trong việc đánh giá tác động cũng như
quản lý những tác động của Internet trong đối tượng thanh niên học sinh, sinh viên.
1.2. Một số vấn đề về quản lý
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người
quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn
hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc,
các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự

10
phát triển của đối tượng. Đối tượng quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực,
quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người cụ thể, sự vật cụ thể.
Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người, công cụ, phương tiện
tài chính… để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục tiêu định trước. Chủ thể
muốn kết hợp được các hoạt động của đối tượng theo một định hướng quản lý đặt ra
phải tạo ra được “quyền uy” buộc đối tượng phải tuân thủ.
Quản lý nền sản xuất - xã hội là loại hình quản lý đặc biệt phát sinh từ tính
chất xã hội hóa lao động. Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng

chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những
khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn
một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Các nhà lý luận quản lý quốc tế như: Fredrich Wiliam Taylor người Mỹ;
Henri Fayol người Pháp; Max Weber người Đức đều đã khẳng định: Quản lý là khoa
học và đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Về nội dung, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách hiểu không hẳn như nhau.
Trong giáo trình Khoa học quản lý (Tập 1. Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội,
1999) đã ghi rõ: “Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn
thành công việc qua những nỗ lực của người khác. Quản lý là công tác phối hợp có
hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu để đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm
đạt được các mục đích của nhóm. Quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó…”.
Đồng thời cũng có những quan điểm và định nghĩa khác nhau như:
 Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ
thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
 Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các
thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.

11
 Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý (mà trực tiếp là tập thể những người lao động) nhằm thực
hiện mục tiêu đề ra.
 Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến
động của môi trường.
Những định nghĩa trên đây khác nhau về cách diễn đạt, nhưng đều gặp nhau ở
những nội dung cơ bản, quản lý phải bao gồm các yếu tố (các điều kiện) sau:

 Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và ít nhất là
một đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý
tạo ra và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể quản lý.
Tác động có thể chỉ là một lần, mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
 Phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục
tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
 Tác động của chủ thể phải có kế hoạch và có tính mục đích.
 Chủ thể có thể là một người, nhiều người, còn đối tượng có thể là một hoặc
nhiều người (trong tổ chức xã hội).
Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải có
sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của
mình.
Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: quản lý là quá trình đạt
đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch
hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
Như vậy có thể khái quát: quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích
đã đề ra. Sự tác động quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn
hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho
tổ chức và cho cả xã hội.
Quản lý là một môn khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học tự
nhiên và xã hội nhân văn khác nhau như: toán học, thống kê, kinh tế, tâm lý và xã

12
hội học… Nó còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao để đạt tới
mục đích.
1.2.2. Đặc điểm và chức năng của quản lý
* Đặc điểm của quản lý:
- Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý.
Đây là đặc điểm cơ bản, đầu tiên của quản lý đã được đề cập sơ bộ ở trên.

Nếu chủ thể quản lý không có thì việc quản lý đặt ra là vô nghĩa. Thực tế chỉ rõ,
nhiều tổ chức mặc dù có tồn tại chủ thể quản lý trên danh nghĩa, như do bất lực về
tiềm năng, về lực lượng vật chất, về pháp lý, về nhân cách…, khái niệm quản lý trở
thành hình thức và phù phiếm. Hoặc cũng có trường hợp ngược lại, có những tổ
chức do xuất hiện quá nhiều chủ thể quản lý mà các chủ thể này thế lực lại tương
đồng nhau, trong khi những mục tiêu của họ khác nhau, thì việc quản lý sẽ rất phức
tạp, đối tượng bị quản lý sẽ gặp muôn vàn trở ngại, khó có thể tồn tại và phát triển
bình thường.
Tất cả các tình huống trên đều có thể diễn ra trên thực tế do sự tác động biến
đổi của môi trường xung quanh với tư cách là các khách thể. Rõ ràng là việc quản lý
của một tổ chức trong thời đại ngày nay không thể nào không tính đến sự chi phối từ
nhiều phía của nhiều tổ chức khác nhau và từ các lực lượng chi phối của tự nhiên.
Điều này khẳng định quản lý là một diễn trình năng động.
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối
liên hệ ngược.
Đây là đặc điểm thứ hai của quản lý. Quản lý được diễn ra nhờ các tín hiệu
của mình, đó là thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới, được thu nhận, được
hiểu và được đánh giá là có ích cho các hoạt động quản lý (tức cho cả chủ thể quản
lý và đối tượng bị quản lý). Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng thì phải
đưa ra các thông tin (chỉ thị, mệnh lệnh, nghị quyết, quyết định…), đó chính là
thông tin điều khiển. Còn đối tượng muốn định hướng hoạt động của mình thì phải
tiếp nhận các thông tin điều khiển của chủ thể cùng các bảo đảm vật chất khác để
tính toán và tự điều khiển lấy mình (nhằm thực thi mệnh lệnh của chủ thể).
Chính vì lý do kể trên, người ta kết luận quá trình quản lý là quá trình thông
tin.

13
Đối với chủ thể quản lý, sau khi đưa ra các quyết định cùng các bảo đảm vật
chất cho đối tượng thực hiện, thì họ phải thường xuyên theo dõi kết quả thực hiện
các quyết định của đối tượng thông qua các thông tin phản hồi (được gọi là các mối

liên hệ ngược) của quản lý.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi). Đây là đặc
điểm thứ ba của quản lý.
Khi đối tượng quản lý mở rộng về quy mô, phức tạp về các mối quan hệ thì
không phải chủ thể quản lý chịu bó tay, mà nó vẫn tiếp tục quản lý có hiệu quả nếu
nó đổi mới quá trình quản lý thông qua việc cấu trúc lại hệ thống và việc ủy quyền
quản lý cho các cấp trung gian.
Trường hợp ngược lại, khi chủ thể quản lý trở nên xơ cứng, quan liêu, đưa ra
những tác động quản lý độc đoán, lỗi thời, phi lý thì không phải tất cả các đối tượng
quản lý đều chịu bó tay, mà họ vẫn có thể thích nghi tồn tại theo hai cách: i) họ phải
tồn tại tương ứng với các tác động quản lý của chủ thể; ii) họ biến đổi cấu trúc của
bản thân để thích nghi với các mệnh lệnh quản lý phi lý của chủ thể.
- Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
Đây cũng là đặc điểm quan trọng của quản lý. Nói quản lý là một khoa học vì
quản lý như đã xét ở trên, có đối tượng nghiên cứu riêng là các mối quan hệ quản lý.
Quản lý còn có phương pháp luận nghiên cứu riêng và chung, đó là quan điểm triết
học Mác - Lênin, là quan điểm hệ thống. Quản lý có những phương pháp cụ thể
được được sử dụng để nghiên cứu như các phương pháp phân tích, các phương pháp
toán kinh tế, các phương pháp tổ chức-hành chính, các phương pháp xã hội học, các
phương pháp tâm lý, các phương pháp lịch sử… Quản lý đồng thời còn là một nghệ
thuật vì nó còn tùy thuộc một phần vào tài nghệ, bản lĩnh, trí tuệ, nhân cách, bề dày
kinh nghiệm của người lãnh đạo của tổ chức. Quản lý còn là một nghề với nghĩa các
nhà lãnh đạo tổ chức phải có tri thức quản lý (qua tự học, tự tích lũy và qua các quá
trình được đào tạo ở các cấp độ khác nhau, hoặc ít nhất họ phải có các chuyên gia về
quản lý trợ giúp cho họ).
- Quản lý gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
Người lãnh đạo có ưu thế quan trọng trong tổ chức, họ có khả năng điều
khiển người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức. Người lãnh đạo
còn là người có điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của mình


14
thông qua việc sử dụng các con người khác trong quá trình dẫn dắt, thu hút, lôi kéo
họ nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Người lãnh đạo đồng thời dễ để lại
danh tiếng cho người khác và cộng đồng nếu họ lãnh đạo tổ chức của mình phát
triển và đạt được mục tiêu của tổ chức.
* Chức năng của quản lý:
Bàn về hoạt động quản lý và người quản lý, chúng ta cần tìm hiểu người quản
lý - cũng chính là tìm hiểu các chức năng của quản lý; và họ làm công việc ấy như
thế nào; nói cách khác, cần xem xét họ phải sắm những vai trò quản lý nào.
Trong phần này, chúng ta đề cập đến bốn chức năng quản lý chủ yếu, cơ bản,
đó là: kế hoạch hóa (planning), tổ chức (organizing), chỉ đạo-lãnh đạo (leading) và
kiểm tra (controlling).
- Chức năng kế hoạch hóa: Kế hoạch hóa là một chức năng quản lý. Kế
hoạch hóa có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ
chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Có
ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hóa: i) xác định, hình thành mục tiêu,
phương hướng đối với tổ chức; ii) xác định và bảo đảm (có tính chắc chắn, có tính
cam kết) về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu này; iii) và quyết
định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó.
- Chức năng tổ chức: Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải
chuyển hóa những ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Một tổ chức lành
mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự chuyển hóa như thế. Xét về mặt chức năng
quản lý, tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành
viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các
kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả,
người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực.
Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý sử
dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả.
- Chức năng lãnh đạo (chỉ đạo): Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ
máy đã hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có ai đó đứng ra lãnh đạo,

dẫn dắt tổ chức. Một số học giả gọi đó là quá trình chỉ đạo hay tác động. Dù gọi tên
thế nào, lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động viện họ hoàn
thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên việc

15
lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất,
mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia.
- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng quản lý, thông qua đó một
cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và
tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Một kết quả hoạt động
phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến hành những
hành động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh, diễn ra có tính
chu kỳ như sau: i) người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động;
ii) người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với chuẩn mực đã đặt
ra; iii) người quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch; iv) người quản lý hiệu
chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu cần.
1.3. Một số vấn đề về thông tin, truyền thông và Internet
1.3.1. Thông tin và quản lý thông tin
- Thông tin là sự phản ánh sự vật, sự việc, hiện tượng của thế giới khách
quan và các hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Điều cơ bản là con
người thông qua việc cảm nhận thông tin làm tăng hiểu biết cho mình và tiến hành
những hoạt động có ích cho cộng đồng.
Thông tin được lưu trữ trên nhiều dạng vật liệu khác nhau như được khắc trên
đá, được ghi lại trên giấy, trên bìa, trên băng từ, đĩa từ Ngày nay, thuật ngữ "thông
tin" (information) được sử dụng khá phổ biến. Thông tin chính là tất cả những gì
mang lại hiểu biết cho con người. Con người luôn có nhu cầu thu thập thông tin
bằng nhiều cách khác nhau: đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, giao tiếp với người
khác Thông tin làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn gốc của nhận thức và là
cơ sở của quyết định.
Môi trường vận động thông tin là môi trường truyền tin, nó bao gồm các kênh

liên lạc tự nhiên hoặc nhân tạo như sóng âm, tia sáng, dây dẫn, sóng điện từ (sóng
âm thanh, sóng hình ). Kênh liên lạc thường nối các thiết bị của máy móc với nhau
hay nối với con người. Con người có hình thức liên lạc tự nhiên và cao cấp là tiếng
nói, từ đó nghĩ ra chữ viết. Ngày nay nhiều công cụ phổ biến thông tin đã xuất hiện:
bút viết, máy in, điện tín, điện thoại, phát thanh, truyền hình, phim ảnh và Internet…
Về nguyên tắc, bất kỳ cấu trúc vật chất nào hoặc bất kỳ dòng năng lượng nào
cũng có thể mang thông tin. Các vật có thể mang thông tin được gọi là giá mang tin

16
(support). Thông tin luôn mang một ý nghĩa xác định nhưng hình thức thể hiện của
thông tin thì rõ ràng mang tính quy ước. Chẳng hạn ký hiệu “V” trong hệ đếm La
Mã mang ý nghĩa là 5 đơn vị, nhưng trong hệ thống chữ La tinh nó mang nghĩa là
chữ cái V. Trong máy tính điện tử, nhóm 8 chữ số 01000001 nếu là số sẽ thể hiện số
65, còn nếu là chữ sẽ là chữ “A”.
Có nhiều cách phân loại thông tin. Chúng ta quan tâm đến cách phân loại dựa
vào đặc tính liên tục hay rời rạc của tín hiệu vật lý. Tương ứng, thông tin sẽ được
chia thành thông tin liên tục và thông tin rời rạc.
- Quản lý thông tin: Xuất phát từ sự đa dạng, phức tạp và tính phổ biến của
thông tin nên quản lý thông tin là một việc làm vô cùng khó khăn. Nguồn cung cấp
thông tin có thể từ trong tự nhiên hay trong xã hội; nhiều thông tin có thể đến cùng
một thời điểm hay vào những thời điểm khác nhau; thông tin có thể là thông tin chủ
quan hay khách quan, có thể có chủ định hay không có chủ định; thông tin có thể
đúng, song cũng có thể không đúng với sự thật và bản chất của nó. Với sự phát triển
nhanh, mạnh của các phương tiện thông tin, truyền thông hiện đại như đài, TV, đặc
biệt là mạng Internet thì nhu cầu về thông tin của con người được đáp ứng một cách
tối đa, ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu tìm
hiểu thông tin, học tập, sinh sống và làm việc. Hiện nay, nhiều người cho rằng chúng
ta đang sống trong một xã hội thông tin, ai có thông tin nhiều, nhanh và chính xác
người đó sẽ có được lợi thế vượt trội trong cạnh tranh và phát triển. Hay nói cách
khác, nhiều người cho rằng thế giới đang phát triển kinh tế tri thức, nước nào, tổ

chức nào, cá nhân nào có nhiều thông tin (trở thành tri thức) thì nước đó, tổ chức đó
và cá nhân đó sẽ có tiềm năng phát triển nhanh, phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, trong một xã hội tràn ngập thông tin, con người mà rộng hơn là tổ
chức, quốc gia nếu không biết quản lý, chọn lọc thông tin thì sẽ bị “chết chìm” trong
“biển thông tin” hỗn độn ấy. Vì thế, hơn lúc nào hết, mỗi quốc gia trên thế giới hiện
nay đều rất coi trọng việc quản lý, khai thác và định hướng thông tin trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia mình để phục vụ cho đường lối chiến lược lâu dài cũng như mục
tiêu phát triển trong từng thời kỳ cụ thể. Ngày nay, muốn phát triển được, các quốc
gia không còn cách nào khác là mở cửa mạnh mẽ để giao lưu với thế giới, trong đó
việc mở cửa về lĩnh vực thông tin, truyền thông, đặc biệt thông qua việc phát triển
mạng Internet.

17
Trong phạm vi đề tài này, đối với nước ta, việc hoạch định chiến lược phát
triển cũng như quản lý thông tin và những tác động từ mạng Internet có ý nghĩa hết
sức quan trọng góp phần cho phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường giao thương và
giao lưu quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh Trong đó, việc quản lý những tác
động của Internet đối với người trong lứa tuổi thanh thiếu niên - nguồn nhân lực, thế
hệ tương lai của nước nhà - có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Vì thế hệ trẻ
ngày nay, nhất là lứa tuổi học sinh, sinh viên rất năng động, sáng tạo, có khả năng sử
dụng, khai thác thông tin trên phương tiện truyền thông hiện đại như Internet; đồng
thời họ cũng luôn có mong muốn tìm hiểu, khám phá cái mới và dễ thích nghi với
cái mới, với sự thay đổi. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn mà Internet mang
lại cho xã hội nói chung, giới trẻ nói riêng thì bản thân nó cũng chứa đựng nhiều
nguy cơ với những thông tin nhiều chiều, không thống nhất, có tính ảo và khó có thể
kiểm định và kiểm soát. Thông tin trên Internet có thể mang cho người ta sự thành
công rực rỡ, song cũng có thể hướng con người ta, nhất là người trẻ, thanh niên học
sinh, sinh viên tới chỗ sống lai căng, phi đạo đức, thực dụng, dối trá, lừa đảo và
thậm chí là vi phạm pháp luật, nhận thức lệch lạc, phiến diện, xâm phạm đến an ninh
quốc gia Vì thế việc quản lý thông tin nói chung, thông tin trên mạng Internet nói

riêng là việc làm cần thiết, cấp bách và rất khó khăn mà các cơ quan chức năng và
toàn xã hội cần quan tâm và chung tay giải quyết.
1.3.2. Internet
Internet là một mạng máy tính khổng lồ, kết nối hàng tỷ máy tính điện tử (chủ
yếu là máy tính cá nhân) trên khắp thế giới theo một số quy tắc nhất định, nhằm trao
đổi thông tin được với nhau một cách trực tiếp, nhanh chóng và thuận tiện.
Internet được phát triển từ mạng máy tính của các nhà khoa học quân sự Mỹ,
thiết lập từ năm 1969, nhằm duy trì mối liên hệ với nhau ngay cả khi có chiến tranh.
Vào những năm 80 của thế kỷ 20, mạng này được mở rộng cho các trường đại học,
viện nghiên cứu khắp nước Mỹ. Sau đó, mạng này vươn ra nhiều nước khác, chủ
yếu phục vụ cộng đồng những người làm công tác khoa học và giáo dục. Ngày nay,
Internet trở thành siêu lộ thông tin quốc tế quan trọng nhất, cung cấp nhiều dịch vụ
thông tin cho hàng tỷ người. Từ một mạng máy tính không có mục đích vụ lợi, ngày
nay Internet đã được thương mại hoá. Tuy nhiên, nhiều dịch vụ thông tin vẫn được
cung cấp miễn phí, nhất là phục vụ cho khoa học và giáo dục.

×