Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Điều tra tỉ lệ trẻ em và vị thanh niên ở miền Bắc có các vấn đề sức khỏe tâm thần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 81 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




NGUYÊN CAO MINH



ĐIỀU TRA TỈ LỆ TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN Ở MIỀN BẮC CÓ
CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC









HÀ NỘI – 2012
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




NGUYỄN CAO MINH


ĐIỀU TRA TỈ LỆ TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN Ở MIỀN BẮC CÓ
CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN




Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoàng Minh
GS. TS. Bahr Weiss



HÀ NỘI – 2012
5


MỤC LỤC
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 8
1. Lý do chọn đề tài 8
2. Mục đích nghiên cứu 10
3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu 11

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 11
3.2. Khách thể nghiên cứu 11
4. Giả thuyết khoa học 11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 11
6.1. Về khách thể nghiên cứu chính 11
6.2. Về giới hạn nghiên cứu 11
6.3. Về địa bàn nghiên cứu 11
6.4. Nguồn thông tin 11
7. Phƣơng pháp nghiên cứu 11
8. Đóng góp mới của luận văn 12
9. Cấu trúc luận văn: 12
Chƣơng1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 13
1.1. Các khái niệm chung: 13
1.1.1 Khái niệm Trẻ em 13
1.1.2. Khái niệm Vị thành niên 13
1.1.3. Khái niệm vấn đề sức khỏe tâm thần 23
6

1.1.4. Dịch tễ học tâm thần 28
1.2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 30
1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu dịch tễ học các rối loạn sức khỏe tâm
thần trên thế giới 30
1.2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu dịch tễ học các vấn đề sức khỏe tâm
thần trong nước 36
1.3. Chẩn đoán trong nghiên cứu dịch tễ học tâm thần 39
1.3.1. Phương pháp chẩn đoán trong nghiên cứu dịch tễ học 39
1.3.2. Công cụ chẩn đoán trong nghiên cứu dịch tễ: 41
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 44
2.1. Xác định biến nghiên cứu 44

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 45
2.2.1. Nghiên cứu lý luận 45
2.2.2.Nghiên cứu bảng hỏi (anket) 45
2.2.3. Phương pháp thống kê: 46
2.3. Xác định mẫu nghiên cứu 48
2.3.1 Phương pháp xác định mẫu nghiên cứu 48
2.3.2. Mẫu nghiên cứu thu thập được trên thực tế: 53
2.4. Tiến độ thực hiện đề tài 55
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 57
3.1. Điểm số trung bình của thang đo YSR: 57
3.2. Tƣơng quan giữa điểm trung bình với một số biến số độc lập: 60
3.2. Điểm trung bình 8 hội chứng của Achenbach: 62
3.3. Tỉ lệ các trẻ có vấn đề về sức khỏe tâm thần: 68
7

3.4. Tỉ lệ những trẻ có nguy cơ: 72
KẾT LUẬN & KHUYẾN NGHỊ 77
1. Kết Luận 77
2. Khuyến Nghị 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80

8

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em luôn là một trong những mối quan tâm hàng
đầu của xã hội. Chăm sóc sức khỏe thể chất tạo điều kiện cho trẻ em phát
triển thể lực, chiều cao, cân nặng, hoàn thiện dần các chức năng của cơ thể,
giảm khả năng mắc bệnh tật và tránh đƣợc nguy cơ tử vong do bệnh tật. Chăm

sóc sức khỏe tâm thần lại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển khả năng
trí tuệ, phát triển mặt xã hội, tạo ra một sự cân bằng về tâm lý tình cảm, phát
triển tính tự lập, sự tự tin, tình yêu cuộc sống và các giá trị đạo đức căn bản
nhất của con ngƣời, giúp xây dựng và hình thành một nhân cách lành mạnh
sáng tạo và chủ động. Để giúp trẻ có đƣợc sự phát triển toàn diện, trẻ cần phải
đƣợc chăm sóc cả sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, “so với
việc chăm sóc sức khỏe thể chất, việc chăm sóc sức khỏe tâm thần là một lĩnh
vực mới mẻ” [4, Trg.15], và chƣa đƣợc thực sự quan tâm ở mức cần thiết.
Sự phát triển kinh tế, xã hội nhanh đã làm nảy sinh nhiều yếu tố tác
động lớn đến phát triển và gây ra những vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ.
Trong những năm qua, chúng ta đã có rất nhiều báo động đáng lo ngại về các
vấn đề tâm lý ở lứa tuổi học sinh. Thực tế hiện nay, các vấn đề hành vi, cảm
xúc của trẻ ngày càng có xu hƣớng gia tăng, gây quan ngại cho gia đình, nhà
trƣờng và xã hội. Đó có thể là những vấn đề nhƣ mất tập trung, phát triển
sớm, yêu sớm, chơi điện tử, chán học, học kém, thiếu kỹ năng xã hội. Hoặc
đó là các vấn đề nghiêm trọng hơn nhƣ đua xe, trầm cảm, ngất tập thể (120
học sinh ở Xuân An, học sinh ở Đắc Nông), tự tử tập thể (ở Hải Dƣơng), bạo
lực học đƣờng, trẻ phạm pháp, v.v. Những hiện tƣợng này đƣợc phản ánh gần
nhƣ hàng ngày trên các tờ báo lớn trong cả nƣớc. Thực trạng này yêu cầu nhà
nƣớc và xã hội cần có những biện pháp, chính sách can thiệp nhằm cải thiện
9

tốt hơn nữa việc chăm sóc sức khỏe tâm thần cho trẻ em. Cơ sở nền tảng để
xây dựng những biện pháp, chính sách can thiệp này chính là những nghiên
cứu cho biết tỉ lệ trẻ em có vấn đề sức khỏe tâm thần.
Đã có một số nghiên cứu đánh giá về sức khỏe tâm thần của trẻ em Việt
Nam nói chung. Mặc dù kết quả không hoàn toàn nhất quán, nhƣng các
nghiên cứu cho thấy một xu hƣớng rõ ràng rằng tỉ lệ trẻ em Việt Nam gặp các
vấn đề sức khỏe tâm thần là đáng kể. Có thể kể đến các nghiên cứu về các vấn
đề sức khỏe của học sinh, điển hình nhƣ nghiên cứu của bệnh viện tâm thần

Mai Hƣơng năm 2005 cho thấy tỉ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần của
học sinh trong các quận nội thành là 19,46 % [43]. Hoàng Cẩm Tú và Đặng
Hoàng Minh [6] (2010) nghiên cứu trên học sinh ở 2 trƣờng THPT Nguyễn
Trãi (Hà Nội) và Vân Tảo (Hà Tây) cho thấy trẻ mắc các vấn đề về sức khỏe
tâm thần chiếm 22.55%. Nghiên cứu của trung tâm Trung tâm Nghiên cứu và
Đào tạo Phát triển Cộng đồng tiến hành tại 6 tỉnh trên cả nƣớc cho thấy tỉ lệ
mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần là 19,6% [45, Trg.41]. Tuy nhiên sau đó,
một nghiên cứu khác lại của Ananda và Tuấn (2007) trên hai tình miền Trung
lại cho kết quả tỉ lệ trẻ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần là 9% [27]. Những
nghiên cứu này cho thấy sự quan tâm chú ý của những nhà chuyên môn đến
các vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ em. Tuy nhiên, những nghiên cứu này
thƣờng có mẫu số không đại diện khiến nó chƣa trở thành những thông số tin
cậy để xác định và xây dựng các chiến lƣợc can thiệp và phòng ngừa. Phần
lớn các nghiên cứu này tập trung vào trƣờng học trong khi nƣớc ta vẫn còn có
những học sinh không đi học, việc tiếp cận qua trƣờng học đã bỏ qua những
đối tƣợng này làm mẫu số nghiên cứu không mang tính đại điện. Thêm vào
đó, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào đô thị, trong khi các 70% dân số
nƣớc ta tập trung ở nông thôn. Một số nghiên cứu nhƣ nghiên cứu của trung
tâm Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng và nghiên cứu
10

của tác giả Ananda có nghiên cứu ở nông thôn nhƣng địa bàn nghiên cứu
không bao quát hết đƣợc các đặc trƣng địa lý vùng miền của Việt Nam. Thêm
vào đó, mặc dù sử dụng cùng một bộ công cụ nghiên cứu, nhƣng hai nghiên
cứu này lại có sự chênh lệch quá lớn (chênh lệch 10%). Nhƣ vậy có thể nói
rằng vẫn còn thiếu những nghiên cứu về dịch tễ học mang tính chất đại diện
cho các vùng miền, hay lớn hơn là cả nƣớc về các vấn đề sức khỏe tâm thần.
Nƣớc ta đƣợc chia ra làm ba miền với các điều kiện kinh tế, văn hóa xã
hội khác nhau: Bắc, Trung, Nam. Cùng với Trung Bộ và Nam bộ, miền Bắc là
một vùng kinh tế, xã hội quan trọng của cả nƣớc, nơi mà các vấn đề sức khỏe

tâm thần của trẻ em đang nổi lên nhƣ những vấn đề xã hội nóng bỏng nhất, từ
đó đặt ra những yêu cầu cần có những chƣơng trình can thiệp trên diện rộng
để cải thiện, giải quyết các vấn đề đó ở trẻ em miền Bắc. Nhằm cung cấp
những cơ sở khoa học để xây dựng các chƣơng trình can thiệp và phòng ngừa
trên diện rộng có hiệu quả, chúng tôi tiến hành nghiên cứu“Điều tra tỷ lệ trẻ
em và vị thành niên miền Bắc có các vấn đề sức khỏe tâm thần”. Nghiên
cứu này sẽ là khảo sát đầu tiên mang tính đại diện cho miền Bắc ở Việt Nam,
sử dụng bộ công cụ rà soát có tính hiệu lực và đƣợc thích nghi về sức khỏe
tâm thần trẻ em. Qua nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng sẽ xác định đƣợc tỉ lệ
các vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ em ở miền Bắc để từ đó có thể làm cơ sở
cho các chƣơng trình can thiệp hiệu quả trên diện rộng nhằm cải thiện nâng
cao đời sống tâm thần cũng nhƣ kết quả giáo dục cho các em học sinh.

2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu tỉ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em miền Bắc.
- Tìm hiểu tƣơng quan giữa một số thông tin nhân khẩu và các vấn đề
sức khỏe tâm thần nhƣ: độ tuổi, giới tính, vùng miền.
- Từ đó, xây dựng những chính sách và chƣơng trình phòng ngừa và can
thiệp các vấn đề sức khỏe tâm thần ở cho trẻ em miền Bắc.
11


3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tỷ lệ trẻ có các vấn đề sức khỏe tâm thần ở miền Bắc.
3.2. Khách thể nghiên cứu
240 trẻ vị thành niên tuổi từ 12-16 ở các tỉnh thành phố: Hà Nội, Thái
Nguyên, Hải Phòng, Hòa Bình. Nam nữ có tỉ lệ cân bằng nhau.

4. Giả thuyết khoa học

Tỉ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần mắc phải ở trẻ em miền Bắc là
khoảng từ 13% đến 20%.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về các vấn đề sức khỏe tâm thần.
- Xác định tỷ lệ trẻ có các vấn đề sức khỏe tâm thần.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về khách thể nghiên cứu chính
- Trẻ em từ 2 đến 16 tuổi.
6.2. Về giới hạn nghiên cứu
- 240 trẻ em trong độ tuổi từ 12 đến 16 tuổi ở bốn tỉnh thành phố.
6.3. Về địa bàn nghiên cứu
Dữ liệu sẽ đƣợc thu thập ở ba tỉnh (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên,
Hòa Bình) trên miền Bắc. Các tỉnh đƣợc phân ra theo loại thành phố: đặc biệt,
loại 1 đến loại 3.
6.4. Nguồn thông tin
- Trẻ tự thuật.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu điều tra bằng thang đo.
12

8. Đóng góp mới của luận văn
- Đây là nghiên cứu dịch tễ về sức khỏe tâm thần trẻ em đầu tiên sử dụng
các công cụ sàng lọc tiêu chuẩn. Mẫu nghiên cứu mang tính ngẫu nhiên
khách quan và mang tính đại diện.
- Kết quả của nghiên cứu thực trạng đƣa ra đƣợc những con số chính xác
về tỉ lệ trẻ có vấn đề về sức khỏe tâm thần.
9. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo luận văn
đƣợc trình bày trong 03 chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận: trình bày về những vấn đề lý luận trong
nghiên cứu dịch tễ học.
Chƣơng 2: Tổ chức nghiên cứu: trình bày về công cụ nghiên cứu,
phƣơng pháp lấy mẫu, mẫu nghiên cứu và cách thức phân tích số liệu.
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu: trình bày về những kết quả nghiên cứu
đạt đƣợc.


13

Chƣơng1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm chung:
1.1.1 Khái niệm Trẻ em
Theo công ƣớc về quyền trẻ em của Liên hợp quốc “trẻ em có nghĩa là
mọi ngƣời dƣới 18 tuổi trừ khi theo luật có thể áp dụng cho trẻ em, tuổi
trƣởng thành đƣợc quy định sớm hơn". Trong trƣờng hợp ở Việt Nam, luật
pháp qui định tuổi trƣởng thành là 18 tuổi nên trẻ em đƣợc định nghĩa theo
đúng nhƣ khoảng tuổi của công ƣớc quốc tế [38].
1.1.2. Khái niệm Vị thành niên
1.1.2.1. Khái niệm vị thanh niên
Vị thành niên là một khái niệm chƣa đƣợc thống nhất. Trẻ ở tuổi vị
thành niên đƣợc xác định là giai đoạn chuyển tiếp và phát triển từ cuối tuổi trẻ
em đến bắt đầu tuổi trƣởng thành. Có khá nhiều quan điểm khác nhau về độ
tuổi này. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị
thành niên. Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chƣơng trình Sức khỏe sinh
sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên-thanh niên của khối Liên minh châu Âu
(EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi. Tuy
nhiên, theo các nhà nghiên cứu Việt Nam, tuổi vị thành niên của trẻ em Việt
Nam đƣợc xác định thấp hơn. Nguyễn Thị Mỹ Lộc & cs [7, Trg11] cho rằng
tuổi vị thành niên đƣợc xác định từ 10 đến 18 tuổi. Tác giả Đặng Phƣơng Kiệt

lại cho rằng, tuổi này này bắt đầu từ 12 đến 18 tuổi [3]. Sở dĩ có sự khác biệt
lớn về thời điểm bắt đầu tuổi vị thành niên là do vị thành niên là một khái niệm
mang tính xã hội, và mỗi thời đại, mỗi xã hội có yêu cầu và quan niệm khác
nhau về sự trƣởng thành của trẻ. Quá trình phát triển của trẻ em ngày nay có
những sự thay đổi rất lớn, nguyên nhân là do sự thay đổi của môi trƣờng sống,
cũng nhƣ do sự tác động của những tiến bộ khoa học về dinh dƣỡng cũng nhƣ
khoa học y tế. Những yếu tố này tác động trực tiếp đến tuổi dậy thì, một mốc
14

trung tâm của vị thành niên do tuổi dậy thì đánh dấu sự trƣờng thành về tính
dục của mỗi cá nhân. Nhƣng nhìn chung, dù theo quan điểm nào thì độ tuổi từ
12 đến 16, độ tuổi của các khách thể trong nghiên cứu của chúng tôi, đều rơi
vào độ tuổi dậy thì.
1.1.2.2. Các giai đoạn của tuổi vị thành niên:
Theo các nhà nghiên cứu, tuổi vị thành niên có thể chia ra làm ba giai
đoạn: đầu vị thành niên, giữa vị thành niên, và cuối vị thành niên. Các giai
đoạn này đƣợc đánh dấu bằng tuổi dậy thì, nên đôi khi ba giai đoạn này còn
gọi là tiền dậy thì, dậy thì và sau dậy thì [3].
1.1.2.3. Một số đặc điểm tâm sinh lý của Vị thành niên
Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định trẻ em không phải là ngƣời
lớn thu nhỏ lại [40, Trg3]. Giữa trẻ em và ngƣời lớn có sự khác nhau về chất.
Sự vận động và phát triển của trẻ diễn ra theo quy luật riêng. Từ khi cất tiếng
khóc chào đời, trẻ đã là một con ngƣời, một thành viên của xã hội và có nhu
cầu giao tiếp với ngƣời lớn. Mỗi nền xã hội và thời đại khác nhau sẽ cho ra
đời một con ngƣời khác nhau và tƣơng ứng với xã hội đó. Nói cách khác con
ngƣời chính là sản phẩm của xã hội và do xã hội tạo ra.
Sự phát triển tâm lý của trẻ em là sự lĩnh hội những tinh hoa văn hóa xã
hội của loài ngƣời dƣới sự hƣớng dẫn của ngƣời lớn thông qua hoạt động của
bản thân, làm cho tâm lý của trẻ đƣợc hình thành và phát triển. Ngƣời lớn
đóng vai trò trung gian cho sự phát triển của trẻ và sự phát triển đó thể hiện

qua 2 hình thái: phát triển sinh lý và phát triển tâm lý xã hội [40, Trg10]. Việc
phối hợp giữa giáo dục trong nhà trƣờng và gia đình, xã hội sẽ mang lại hiệu
quả cho sự phát triển của trẻ. Sự phát triển tâm lý xã hội của trẻ diễn ra đầy
biến động, cực kỳ nhanh chóng và là một quá trình liên tục ngay từ khi mới
sinh ra, nó phát triển cùng với sự phát triển sinh lý. Chính hoạt động của trẻ
dƣới sự tác động và hƣớng dẫn của ngƣời lớn làm cho tâm lý của trẻ hình
15

thành và phát triển. Sự phát triển tâm lý của trẻ phải dựa trên những điều kiện
riêng của cơ thể. Đồng thời nó còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa
để hình thành và phát triển tâm sinh lý ở trẻ. Trẻ phải đƣợc đặt trong môi
trƣờng xã hội tƣơng ứng để phát triển tâm lý phù hợp với điều kiện xã hội.
Kế thừa những quan điểm đó của tâm lý học duy vật biện chứng để
hiểu tâm lý của vị thành niên, chúng ta có thể thấy rằng, trong giai đoạn của
tuổi vị thành niên, mỗi cá nhân trải qua nhiều thay đổi quan trọng về mặt thể
chất, cảm xúc và xã hội. Những thay đổi này xảy ra đồng thời hoặc đôi khi
khá tách biệt trong từng lĩnh vực nhƣng những thay đổi này liên quan và ảnh
hƣởng lẫn nhau. Sự thay đổi lớn nhất trong tuổi vị thành niên là dậy thì, quá
trình phát triển hoàn thiện về mặt tính dục, từ đó dẫn đến những mốc phát
triển đáng chú ý khác ở khía cạnh cảm xúc và xã hội. Những đặc điểm của vị
thành niên có thể đƣợc chia nhƣ sau:
1.1.2.4. Sự phát triển về thể chất
Theo Đặng Phƣơng Kiệt [3], trƣớc tuổi dậy thì, các cơ quan sinh dục
không có nhiều sự thay đổi, song đến tuổi dậy thì, sự tăng trƣởng diễn ra rất
nhanh và mạnh mẽ. Tuổi dậy thì đƣợc xuất phát từ vùng dƣới đồi, kích thích
đến tuyến yên. Tuyến yên kiểm soát toàn bộ sự tăng trƣởng, kích thích sự
sản xuất các hormon của buồng trứng, tinh hoàn và tuyến thƣợng thận. Các
tác nhân đặc biệt của tuổi dậy thì là hocmon giới tính - ở nam là androgen
từ tinh hoàn và ở nữ là estrogen từ buồng trứng. Sự phát triển của hai giới
có sự khác biệt, nữ thƣờng đạt tới tuổi chín muồi về giới tính sớm hơn nam

2 năm. Tuổi dậy thì trung bình ở nữ là 11-14 tuổi ở nam là 13-16 tuổi. Tuy
vậy, mỗi cá nhân có tiến trình phát triển riêng, nên thời gian ở mỗi cá nhân
có thể rất khác nhau và càng ngày, trẻ em càng có xu hƣớng phát triển sớm
hơn.
16

Cùng đồng thời với sự phát triển của các cơ quan sinh dục, cơ thể của
vị thành niên nói chung cũng diễn ra giai đoạn “nƣớc rút”. Trẻ vị thành niên
nhƣ lớn lên từng ngày. Trong thời kỳ dậy thì, nam cao thêm trung bình
khoảng 20 cm và nữ cao lên khoảng 9 cm. Trong giai đoạn này, không chỉ
lớn lên về chiều cao và cân nặng, cơ thể còn phát triển cả các kích thƣớc
khác: đầu, ngực, mông, tay, chân. Thƣờng thì tất cả các bộ phận cơ thể
không phát triển cùng một tốc độ, nên trẻ vị thành niên trông có dáng lóng
ngóng, ngƣợng nghịu và có phần không cân đối.
Tất cả xƣơng, cơ và khớp đều có một giai đoạn phát triển rất nhanh,
chúng trở nên dễ bị căng và đau. Trong quá trình phát triển của hệ tim
mạch, tim có thể quá nhỏ để chống đỡ với stress và các căng thẳng, nên trẻ
vị thành niên cần đƣợc bảo vệ để tránh bị kiệt sức. Trẻ vị thành niên phải
đƣợc cung cấp tất cả các yếu tố dinh dƣỡng cần thiết cho sự tăng trƣởng -
các vitamin, muối khoáng và protein – không chỉ chất bột, chất béo, những
chất cung cấp nhiều năng lƣợng.
Nguyễn Thị Mỹ Lộc & cs [7, Trg12,13] cho rằng vị thành niên có
một số dấu hiệu thay đổi về thể chất dễ nhận thấy sau đây:
Đối với nữ:
- Các em nữ có thể bắt đầu phát triển ngực khi 8-9 tuổi. Ngực phát triển
đầy đủ trong độ tuổi 12 đến 18.
- Lông ở các bộ phận sinh dục, nách và chân bắt đầu phát triển ở độ tuổi
9 hoặc 10 và đạt đƣợc mức nhƣ ngƣời trƣởng thành ở tuổi 13 hoặc 14.
- Kinh nguyệt lần đầu xuất hiện khoảng sau 2 năm khi có ngực và lông.
Tuổi kinh nguyệt xuất hiện trung bình ở trẻ vị thành niên Việt Nam

năm 2003 là 14.4 tuổi.
- Trẻ vị thành niên nữ phát triển chiều cao nhanh ở tuổi 10 đến 14.5, đạt
đỉnh vào tuổi 12.

17

Đối với nam:
- Trẻ vị thành niên nam có thể nhận thấy tinh hoàn và bừu phát triển ở tuổi
lên 9. Ngay sau đó, dƣơng vật bắt đầu phát triển. Ở 16-17 tuổi, các cơ
quan sinh dục đạt đƣợc hình dáng và kích cỡ nhƣ ngƣời trƣởng thành.
- Lông ở cơ quan sinh dục cũng nhƣ ở lông nách, chân, ngực, râu bắt đầu
phát triển ở tuổi 12 và đạt đƣợc mức nhƣ ngƣời trƣởng thành ở tuổi 15-16.
- Trẻ vị thành niên nam không dậy thì đột ngột, nhƣ trƣờng hợp ở trẻ vị
thành niên nữ lần đầu xuất hiện kinh nguyệt. Sự xuất tinh ban đêm đều
đặn (“giấc mơ ƣớt”, “mộng tinh”) đánh dấu sự bắt đầu dậy thì ở nam
giới. Mộng tinh thƣờng xuất hiện ở tuổi 13 đến 17.
- Giọng nói của trẻ vị thành niên nam thay đổi (vỡ giọng) cùng lúc với
dƣơng vật phát triển. Xuất tinh ban đêm xuất hiện cùng với sự đạt đƣợc
tối đa về chiều cao.
1.1.2.5. Sự phát triển về tính dục của trẻ vị thành niên
Sự thay đổi thể chất nhanh chóng và đột ngột mà trẻ vị thành niên trải
qua khiến các em trở nên ý thức về bản thân, e dè, nhạy cảm và lo lắng về sự
thay đổi cơ thể mình. Các em thƣờng so sánh bản thân với các bạn đồng tuổi.
Vì những thay đổi về thể chất này rất dồn dập và có nhiều hiện tƣợng lần đầu
tiên xuất hiện, thêm vào đó, sự thay đổi thể chất không diễn ra êm ả, đều đặn,
vị thành niên thƣờng cảm thấy bản thân mình kì quặc, kể cả về hình dáng và
phối hợp thể chất.
Bắt đầu chú ý đến cơ thể mình là một trong những biểu hiện tính dục
tƣơng đối đặc trƣng ở tuổi này của vị thành niên. Các em đều rất bận tâm về
ngoại hình của mình và đứng trƣớc gƣơng hàng giờ để ngắm nhìn và tìm hiểu

cơ thể mình. Do nữ giới phát triển sớm hơn, có một số em cao lớn vọt lên so
với các bạn cùng lứa. Đôi khi các em bị các bạn trêu, dẫn đến các em thƣờng
có mặc cảm về cơ thể mình. Có rất nhiều em đi còng, khom ngƣời lại để làm
18

cho ngƣời mình bé lại. Cùng với điều đó là chức năng vận động tiếp tục phát
triển, hệ cơ và hệ xƣơng của em phát triển không cân xứng, khiến cho các em
có dáng vẻ cử chỉ tƣơng đối lúng túng, ngƣợng nghịu và lóng ngóng. Sự lúng
túng này của vị thành niên thực chất là liên quan đế sự biến đổi về cơ thể, sự
thay đổi tâm sinh lý hơn là liên quan đến chức năng của hệ thần kinh.
Sự phát triển hoàn thiện của của các cơ quan sinh dục dẫn đến sự
thức tỉnh và các ham muốn tính dục. Tuy nhiên, xã hội lại có những ràng
buộc rất nghiêm ngặt chi phối các ứng xử tính dục của vị thành niên. Xã hội
và gia đình hƣớng trẻ vị thành niên kìm nén những cảm xúc tính dục của
mình. Một trong những lý do đó là mặc dù chín muồi về chức năng sinh lý,
trẻ tuổi vị thành niên về cơ bản vẫn là đƣợc xem là trẻ em về mặt cảm xúc
và xã hội.
Có rất nhiều hành vi liên quan đến tình dục bắt đầu xảy ra trong tuổi
vị thành niên, song phổ biến nhất là thủ dâm. Thủ dâm diễn ra phổ biến ở
nam và ít phổ biến hơn ở nữ. Thủ dâm có nghĩa là dùng những hành động tự
kích thích tác động vào các vùng gây khoái cảm của cơ thể để tạo ra những
cảm xúc liên quan đến tính dục. Đây không phải một vấn đề bất thƣờng của
vị thành niên vì nó là những hành vi không gây hại, diễn ra phổ biến và
mang chức năng khám phá bản thân mình của đứa trẻ. Mà ngƣợc lại, thủ
dâm là hành vi khá có ý nghĩa với lứa tuổi vị thành niên, vì nó đánh dấu sự
phát triển chín muồi tình dục trên phƣơng diện sinh học. Tuy nhiên, vị
thành niên ở giai đoạn này lại chƣa sẵn sàng có các quan hệ tình dục nhƣ ở
ngƣời lớn. Các em có những ham muốn và rung động tình dục, nhƣng
không có cách nào bộc lộ tình cảm của mình ra ngoài mà tập quán và phong
tục cho phép, vì thế phải hƣớng chúng vào bên trong, tìm thấy nguồn gốc

của khoái cảm tình dục và làm giảm nhẹ căng thẳng thông qua thủ dâm.
Một biểu hiện đặc trƣng trong thời kỳ này là sự bắt đầu xuất hiện của các
19

huyễn tƣởng tình dục ở các em. Các huyễn tƣởng này có vai trò chuẩn bị
cho các quan hệ tình dục của ngƣời lớn sau này.
Không nhƣ các bé trai, các bé gái ít thực hành thủ dâm hơn nhƣng các
em lại có một số hành vi khác đặc trƣng riêng của các em. Đó chính là vấn
đề rối loạn kinh nguyệt và các hành vi liên quan của các em. Thƣờng thì
những “cơn đau chuột rút” có liên quan đến những trở ngại trong sự thích
nghi của ngƣời thiếu nữ đối với vai trò của một ngƣời phụ nữ trƣởng thành,
chứ không liên quan đến một bất thƣờng thực thể nào cả. Tuy nhiên các em
nữ không đƣợc giáo dục và chuẩn bị đúng mức về việc kinh nguyệt. Chính
vì vậy, các em có những biểu hiện lo lắng, xấu hổ và đôi khi là hoảng sợ và
mặc cảm tội lỗi do không hiểu rõ về những gì đang diễn ra với cơ thể mình.
Những lần đầu tiên có kinh nguyệt có thể làm cho các em nữ rất sợ hãi. Các
em nam khi thấy hiện tƣợng đó cũng không hiểu và thƣờng có chế giễu các
bạn nữ. Với nam giới, những lần mộng tinh đầu tiên cũng có thể làm các em
hoang mang và cảm thấy tội lỗi do không hiểu chuyện gì đang xảy ra [3].
1.1.2.6. Phát triển về cảm xúc
Theo các nhà tâm lý học, tuổi vị thành niên là một trong những giai đoạn
khó khăn nhất trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Trƣớc tuổi vị thành niên, các
em sống một cách thoải mái trong vòng tay bao bọc của bố mẹ cũng nhƣ có sự
phát triển ổn định của cơ thể. Nhƣng đến tuổi vị thành niên, mỗi cá nhân phải
hình thành đƣợc ý thức về bản ngã của mình. Các em phải trả lời cho câu hỏi
mình là ai, mình có thể làm đƣợc gì, phạm vi và giới hạn của mình ở đâu.
Trong quá trình khám phá giới hạn của mình, trẻ vị thành niên luôn luôn muốn
trở nên độc lập, tự quyết định những vấn đề liên quan đến mình và thƣờng
chống lại ý kiến của bố mẹ. Nhƣng ở một khía cạnh khác, trẻ vị thành niên vẫn
không phải là ngƣời trƣởng thành, các em vẫn phụ thuộc vào bố mẹ và cần

đƣợc bố mẹ định hƣớng. Tình huống trái ngƣợc giữa mong muốn và thực tế đó
20

của vị thành niên làm nảy sinh những mâu thuẫn giữa giữa vị thành niên với
những ngƣời khác, nhất là với cha mẹ. Trong nhiều trƣờng hợp, xu hƣớng độc
lập hóa này diễn ra tƣơng đối yên bình, không kèm theo các biểu hiện khủng
hoảng và mâu thuẫn với bố mẹ, anh chị em hay thầy cô giáo. Tuy vậy, rất nhiều
trƣờng hợp, xu hƣớng độc lập hóa ở trẻ vị thành niên có thể dẫn đến các xung
đột gay gắt với bố mẹ, ngƣời thân và thầy cô giáo. Do sự nhạy cảm, bồng bột
vốn có của những “ngƣời lớn” chƣa trƣởng thành, những xung đột này nếu
không đƣợc xử lý khéo léo có thể đẩy trẻ vị thành niên đến những hành vi rất
nguy hiểm nhƣ bỏ nhà đi “bụi”, phạm pháp và tự tử.
Một đặc điểm khác tƣơng đối nổi bật ở vị thành niên là thái độ ứng xử
bồng bột, không nhất quán, không thể lƣờng trƣớc đƣợc của vị thành niên.
Các em rất muốn đƣợc bố mẹ âu yếm, vỗ về, nhƣng ngay sau đó lại thấy xấu
hổ nếu bố mẹ âu yếm vỗ về mình, nhất là trƣớc mặt nhiều ngƣời. Vừa mới
đây thì tỏ ra ngoan ngoãn và phục tùng, nhƣng liền sau đó lại sinh ra ngờ vực,
ngang ngạnh rất khó chịu, từ chối không nghe những lời khuyên bảo, chỉ dẫn
của cha mẹ. Có lúc tỏ ra yêu thƣơng và kính trọng cha mẹ, nhƣng liền sau đó
lại chê bai, bác bỏ, vì cho rằng cha mẹ cổ lỗ và và chẳng hiểu gì. Vị thành
niên thƣờng tỏ ra hào hiệp, ân cần và chu đáo với ngƣời khác, song bất thình
lình lại trở nên ích kỷ, tàn bạo và gian xảo. Các nhà tâm lý học cho rằng đặc
điểm hành vi của trẻ vị thành niên có nguyên nhân từ nhu cầu tự trọng, muốn
tạo ra bản sắc và thử nghiệm các vai trò khác nhau [3].
Trong xã hội ngày nay, trẻ em đƣợc mong đợi sẽ lớn lên, rời tổ ấm và
khởi sự thành lập gia đình riêng của mình. Để làm đƣợc nhƣ vậy, mỗi cá nhân
phải đƣợc tự do thoát khỏi sự che chở và điều khiển của cha mẹ, học cách tự
đƣa ra quyết định, suy nghĩ cho bản thân và có trách nhiệm về các hành động
của mình. Và quá trình này bắt đầu từ giai đoạn vị thành niên. Tuy nhiên,
nhiệm vụ này thƣờng vƣợt quá sức của các em, các em thƣờng mắc lỗi và rất

21

cần sự định hƣớng của ngƣời lớn. Vì hay mắc lỗi, cộng thêm với sự bồng bột,
hoài nghi và xu hƣớng tự khẳng định mình, giai đoạn vị thành niên đầy rẫy
những mơ hồ, hụt hẫng và mâu thuẫn. Chính lúc này, trẻ bộc lộ một nhu cầu
trái ngƣợc vừa muốn độc lập, tách biệt với cha mẹ, nhƣng cũng đồng thời cần
có tình thƣơng yêu, sự an ủi và hƣớng dẫn của cha mẹ. Trong quan hệ với cha
mẹ, vị thành niên chịu ảnh hƣởng bởi những cảm nghĩ và các quan hệ của cha
mẹ với nhau, với con cái và với ngƣời khác. Cha mẹ là những kiểu mẫu cho
vị thành niên về ngƣời nam giới và ngƣời phụ nữ, ngƣời chồng và ngƣời vợ,
ngƣời cha và ngƣời mẹ nên vị thành niên có chiều hƣớng giống cha mẹ
mình nhiều hơn là không giống họ. Vị thành niên học đƣợc cách ứng xử mà
họ thấy cha mẹ mình bộc lộ trong cuộc sống thƣờng ngày. Vị thành niên đặc
biệt dễ nhạy cảm và phê phán sự không trung thực, cho nên họ tin vào việc
làm chứ không phải vào lời nói.
1.1.2.7. Phát triển về mặt xã hội
Một kết quả tất yếu của xu hƣớng tách ra khỏi bố mẹ để khẳng định bản
sắc riêng, sự độc lập của bản thân mình, đó là việc các em tìm đến các bạn bè
đồng trang lứa, những ngƣời đang gặp các vấn đề giống nhƣ các em. Chính vì
vậy, bạn bè đồng trang lứa trong tuổi này lại trở nên quan trọng hơn. Sau đây
là một số đặc điểm khái quát về mối quan hệ bạn bè ở tuổi vị thành niên theo
tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc & cs [7, Trg14].
 Nhóm bạn có thể là nơi trú ẩn an toàn của trẻ vị thành niên. Ở đó, trẻ vị
thành niên có thể thử các ý tƣởng mới.
 Ở đầu vị thành niên, các nhóm bạn thƣờng không có các quan hệ lãng mạn,
thƣờng mang tính chất là hội, nhóm. Các thành viên của nhóm thƣờng hành
động giống nhau, ăn mặc giống nhau, có những bí mật hoặc nghi thức của
nhóm và các thành viên cùng tham gia chung vào các hoạt động.
22


 Khi bƣớc vào giữa hoặc cuối vị thành niên (14-18 tuổi), các nhóm bạn có
thể bao gồm các mối quan hệ lãng mạn, yêu đƣơng.
Cha mẹ, thầy cô giáo, những ngƣời khác và bạn bè cùng lứa, hết thảy
đều có ảnh hƣởng đến trẻ vị thành niên. Nhƣng một hiện tƣợng đặc trƣng
cho lứa tuổi này là trẻ bắt đầu hình thành những thần tƣợng, những ngƣời và
các em tôn sùng và “si mê”. Những thần tƣợng này có những giá trị và các
chuẩn mực thƣờng khác biệt so với giá trị và các chuẩn mực của cha mẹ, mà
các em tuân theo một cách “mù quáng”. Chính sự khác biệt về chuẩn mực
và giá trị này có thể làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt với cha mẹ.
Một phần quan trọng của sự lớn lên về mặt xã hội trong tuổi vị thành
niên là phát triển khả năng tự định hƣớng (self-direction) và một ý thức
trách nhiệm [3]. Trẻ vị thành niên cần trải qua những cảm nghĩ về sự thỏa
đáng và sự hoàn thành trong công việc mà các em làm ở nhà và ở trƣờng
học, cho nên các công việc do cha mẹ và thầy cô giáo cho phải đƣợc chính
trẻ vị thành niên nhìn nhận là quan trọng, là đáng giá và có hiệu quả. Trẻ vị
thành niên sẽ xây dựng các chuẩn mực để hoàn thành nhiệm vụ cho phù hợp
với kỳ vọng, nếu trẻ vị thành niên đƣợc đối xử với sự tôn trọng. Nếu ngƣời
ta kỳ vọng trẻ vị thành niên phải làm tốt công việc, thì cha mẹ và thầy cô
phải tin trẻ vị thành niên, tạo cho trẻ vị thành niên cơ hội thực hiện các
nhiệm vụ đó theo cách riêng. Một sự quan tâm to lớn đối với các vị thành
niên là lựa chọn sự nghiệp và chuẩn bị cho sự nghiệp đó.
Sự gia tăng năng lực tự định hƣớng bao gồm khả năng đánh giá và
hành động đạo đức. Ngƣời vị thành niên hình thành ý thức đạo đức về sự
công bằng từ các kinh nghiệm mà mình gặt hái đƣợc. Trẻ vị thành niên có thể
có các tác động qua lại mang tính tôn giáo với những ngƣời khác hoặc những
ý tƣởng đang dẫn dắt trẻ vị thành niên tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời. Một
phƣơng tiện quan trọng trong khả năng thích nghi của ngƣời vị thành niên là
quan niệm về bản thân nhƣ một con ngƣời có đạo đức ứng xử, có trách nhiệm
23


và có thể chấp nhận đƣợc trong cái nhìn của mình và của ngƣời khác, có khả
năng kiềm chế mình và kiểm soát môi trƣờng xung quanh.

1.1.3. Khái niệm vấn đề sức khỏe tâm thần
1.1.3.1. Khái niệm sức khỏe tâm thần:
Theo WHO, Sức khỏe tâm thần nói đến một loạt các yếu tố có thể trực
tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự lành mạnh về tâm trí, một yếu tố quan
trọng trong định nghĩa của WHO về sức khỏe: “là trạng thái thoải mái toàn
diện về thể chất, tâm thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng
không có bệnh hay thương tật” [36].
Theo từ điển tâm lý học, sức khỏe tâm thần “là một trạng thái thoải
mái, dễ chịu về tinh thần, không có các biểu hiện rối loạn về tâm thần, một
trạng thái đảm bảo cho sự điểu khiển hành vi, hoạt động phù hợp với môi
trường” [9, Trg.719]. Nhƣ vậy cách định nghĩa này cũng thống nhất với cách
định nghĩa của WHO.
Ở Việt Nam, khái niệm sức khỏe tinh thần và sức khỏe tâm thần thƣờng
đƣợc dùng lẫn lộn với nhau nhƣng với ý nghĩa nhƣ nhau và cùng có từ tƣơng
đƣơng trong tiếng Anh là “mental health”. Trong Tiếng Việt, từ tâm thần
mang rất nhiều định kiến vì nó gắn liền với những bệnh tâm thần nặng nhƣ
tâm thần phân liệt, động kinh (điên, cuồng, lên cơn giật ) nên những nhà tâm
lý thƣờng sử dụng từ sức khỏe tinh thần nhằm làm giảm nhẹ những định kiến
xã hội với sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên để thống nhất với chung với các
nghiên cứu trong y học, chúng tôi xin sử dụng thuật ngữ tâm thần trong luận
văn này.
1.1.3.2 Khái niệm vấn đề sức khỏe tâm thần:
Tổ chức Y tế thế giới cho rằng các vấn đề sức khỏe tâm thần bao gồm
rất nhiều các vấn đề khác nhau từ nhẹ đến nặng với nhiều triệu chứng phong
phú. Tuy nhiên, một cách khái quát, những triệu chứng này là sự kết hợp của
những suy nghĩ cảm xúc, hành vi lệch lạc và mối quan hệ với ngƣời khác lệch
lạc, ví dụ nhƣ trầm cảm, lo âu, stress đến chậm phát triển và những rối loạn

liên quan đến việc lạm dụng chất gây nghiện [36]. Vấn đề sức khỏe tâm thần
24

rất phổ biến với con ngƣời nói chung. Cũng theo WHO, cứ ba ngƣời thì có
một ngƣời có vấn đề về sức khỏe tâm thần, và trong đời ngƣời ai cũng có một
lần trải qua các vấn đề về sức khỏe tâm thần [36].
Khi đề cập đến khái niệm các vấn đề sức khỏe tâm thần, có một số
thuật ngữ hay đƣợc sử dụng kèm là rối loạn tâm thần, bệnh tâm thần. Rối loạn
tâm thần là thuật ngữ dùng để chỉ những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi lệch lạc ở
mỗi cá nhân và những biểu hiện này ảnh hưởng đến chức năng cuộc sống
hiện tại của cá nhân đó. Một ngƣời có thể có vấn đề về sức khỏe tâm thần
những chƣa chắc đã bị rối loạn tâm thần nếu nhƣ vấn đề đó không ảnh hƣởng
đến cuộc sống (gia đình, công việc, xã hội, v.v) của họ. Ví dụ một ngƣời sợ
độ cao, ngƣời đó có vấn đề về sức khỏe tâm thần nhƣng sẽ không đƣợc coi là
mắc rối loạn tâm thần nếu chứng sợ độ cao của họ không cản trở họ sống bình
thƣờng. Trong trƣờng hợp nếu ngƣời đó làm xây dựng nhà cao tầng, chứng sợ
độ cao sẽ cản trở họ thực hiện công việc, ảnh hƣởng đến cuộc sống. Trƣờng
hợp này sẽ đƣợc xác định là có rối loạn tâm thần.
Bệnh tâm thần là một tình trạng sức khỏe do bị rối loạn các chức năng
nhận thức, cảm xúc, xã hội. Một ngƣời đƣợc coi là có bệnh tâm thần khi đƣợc
những ngƣời có chuyên môn y tế công nhận nhƣ bác sĩ tâm thần, cán bộ tâm
lý lâm sàng. Các bệnh tâm thần nặng là: tâm thần phân liệt, rối loạn lƣỡng
cực, stress sau sang chấn, tự kỉ, chậm phát triển.
Trong nghiên cứu này chúng tôi quan tâm đến tỉ lệ trẻ có vấn đề sức
khỏe tâm thần.
1.1.3.3 Phân loại những vấn đề sức khỏe tâm thần
Phân loại các vấn đề sức khỏe tâm thần là một trong những vấn đề
trọng yếu. Hiện nay trên thế giới có hai bảng phân loại về sức khỏe tâm thần
đƣợc sử dụng rộng rãi. Đó là Cẩm nang chuẩn đoán và thống kê các bệnh tâm
thần lần thứ tƣ của Hiệp hội tâm thần Mỹ lần thứ 4 (DSM IV) và Bảng phân

loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD 10). Sự ra đời của hai loại bảng phân
loại này đƣợc đánh giá là mang lại nhiều lợi ích với những tiêu chuẩn chẩn
25

đoán rõ ràng và hợp lý của chúng, đƣợc đánh giá nền tảng cho sự tiến bộ lớn
về phƣơng pháp cho các nghiên cứu dịch tễ học[23], [15, trg. 222].

Cẩm nang chuẩn đoán và thống kê các bệnh tâm thần lần thứ tư [42] là
bảng phân loại bệnh do Hiệp hội tâm thần Mỹ xuất bản, nhằm mục đích cung
cấp những thuật ngữ và tiêu chí thống nhất trong việc phân loại các bệnh tâm
thần. Phiên bản đầu tiên của bảng phân loại bệnh này là vào năm 1952. Bảng
phân loại bệnh này đƣợc sử dụng rộng rãi tại Mỹ và một số nơi trên thế giới.
Bảng phân loại bệnh này là một hệ thống đa trục, và trạng thái tâm thần của
mỗi cá nhân có thể đƣợc đánh giá theo 5 trục khác nhau:
- Trục I: có hoặc không có hầu hết các hội chứng lâm sàng, bao gồm chủ yếu các
rối loạn tâm thần và rối loạn học tập. Các rối loạn thƣờng gặp bao gồm rối loạn
cảm xúc, trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn lƣỡng cực, tăng động giảm chú ý,
chứng tự kỷ, chứng ám sợ, tâm thần phân liệt, rối loạn tình dục, rối loạn ăn…
- Trục II: có hoặc không có trạng thái bệnh lí kéo dài, bao gồm các rối loạn
nhân cách và rối loạn phát triển tâm trí (mặc dù các rối loạn phát triển, nhƣ
Tự kỷ, đã đƣợc mã hoá trên trục II trong phiên bản trƣớc đó, các rối loạn này
đang có trên trục I). Các rối loạn thƣờng gặp bao gồm các rối loạn nhân cách
nhƣ nhân cách bị hại, nhân cách phân liệt, nhân cách kiểu phân liệt, rối loạn
nhân cách chống đối xã hội, rối loạn nhân cách ái kỷ, rối loạn nhân cách
không thành thậ t, rối loạn nhân cách lảng tránh, rối loạn nhân cách phụ thuộc,
ám ảnh-cƣỡng bức, chậm phát triển tâm trí.
- Trục III: thông tin về trạng thái sức khỏe cơ thể của cá nhân. Các rối loạn
thƣờng gặp bao gồm các tổn thƣơng não và các rối loạn sức khỏe thể chất …
- Trục IV: Các vấn đề tâm lý và các yếu tố môi trƣờng
- Trục V: Đánh giá tổng quát về hoạt động chức năng (từ 1 điểm cho kích

động liên tục, hành vi tự sát hoặc bất lực cho đến 100 điểm đối với duy trì
nhân cách hài hoà, không có các triệu chứng).
26


Bảng phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) [41] đƣợc WHO xuất bản
và đƣợc đƣa vào sử dụng từ năm 1994. Phiên bản đầu tiên của ICD đƣợc công
bố vào năm 1900. ICD 10 là hệ thống phân loại bệnh theo tiêu chuẩn quốc tế cho
tất cả các lĩnh vực liên quan đến y tế nói chung, mục đích quản lý sức khỏe và sử
dụng trong lâm sàng. Phần các vấn đề về sức khỏe tâm thần thuộc chƣơng 5 của
Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10. Nó gồm các mảng sau đây:
- Rối loạn tâm thần thực thể bao gồm rối loạn tâm thần triệu chứng
- Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần
- Tâm thần phân liệt, rối loạn dạng phân liệt và rối loạn hoang tƣởng
- Rối loạn cảm xúc
- Loạn thần kinh, rối loạn liên quan đến stress và rối loạn dạng cơ thể
- Hội chứng hành vi kết hợp với rối loạn sinh lý và yếu tố thể chất
- Rối loạn nhân cách và hành vi ở ngƣời trƣởng thành
- Chậm phát triển tâm thần
- Rối loạn phát triển tâm lý
- Rối loạn về hành vi và cảm xúc với sự khởi bệnh thƣờng xảy ra ở lứa tuổi
trẻ em và thiếu niên
- Rối loạn tâm thần không xác định
Trong nghiên cứu của chúng tôi, một số vấn đề sức khỏe tâm thần phổ
biến đƣợc tìm hiểu bao gồm (tổng hợp dựa trên DSM IV) [42]:
Lo âu: là một dạng rối loạn cảm xúc, đặc trƣng bởi sự sự lo sợ quá mức trƣớc
một tình huống xảy ra, có tính chất vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hƣởng tới
sự thích nghi với cuộc sống, mặc dù tình huống đó không thực sự nguy hiểm
vẫn gây ra những lo âu.
Trầm cảm/thu mình: là một rối loạn tâm thần thƣờng gặp bao gồm nhiều triệu

chứng, nhƣng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc và ngƣời bệnh không còn
27

quan tâm hay thích thú đối với tất cả những gì xảy ra chung quanh hoặc đối
với bản thân mình. Ngƣời bệnh luôn cảm thấy mệt mỏi, mất hy vọng vào
tƣơng lai, nghĩ rằng thế giới xung quanh dƣờng nhƣ lúc nào cũng u ám.
Tăng động giảm chú ý: là một rối loạn về khả năng chú ý, bao gồm những
biểu hiện kém tập trung chú ý và từ đó dẫn đến khó hoàn thành bất cứ việc gì,
thƣờng nhảy từ việc này sang việc khác, nhảy trong quá trình làm.
Hành vi hung tính: là một dạng rối loạn hành vi, đặc trƣng bằng những biểu
hiện lời nói hoặc hành động thể chất có chủ đích làm tổn thƣơng hoặc làm hại
ngƣời khác hoặc thứ khác (đồ vật, động vật).
Hành vi phá bỏ qui tắc: những biểu hiện hành vi không phù hợp với lứa tuổi,
đƣợc lặp đi lặp lại có tính phá bỏ những qui tắc luật lệ tại môi trƣờng sống
hay trong học đƣờng. Hành vi phá bỏ qui tắc có một số triệu chứng đặc trƣng
sau đây: uống rƣợu, nói dối, bỏ học, không cảm thấy tội lỗi.
Vấn đề suy nghĩ: là một rối loạn liên quan đến suy nghĩ, với những triệu
chứng thể hiện sự không kỳ lạ và mất chức năng trong tƣ duy. Vấn đề suy
nghĩ có một số triệu chứng đặc trƣng nhƣ nhìn thấy, nghe thấy những gì kì lạ,
có những ý tƣởng kỳ lạ.
Vấn đề xã hội: là một rối loạn liên quan đến chức năng xã hội của trẻ, bao
gồm những triệu chứng điển hình sau: cô đơn, quá phụ thuộc, thích chơi với
những trẻ bé hơn.
Vấn đề tâm thể: là một rối loạn liên quan đến những vấn đề sức khỏe thể chất
mà không có nguyên nhân thực thể. Bệnh tâm thể có những triệu chứng điển
hình sau: đau đầu, đau bụng không rõ nguyên nhân.

1.1.3.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần:
Theo tổ chức Mental Health Foundation của Anh [35], có một số yếu tố, gọi
là yếu tố nguy cơ, sẽ khiến cho trẻ em dễ dàng mắc phải các vấn đề vế sức

khỏe tâm thần hơn. Đó là những yếu tố sau đây:

×