Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Biện pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 113 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM


ĐỖ THỊ VÂN

Biện pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
trung học phổ thông ở huyện An Dương, thành phố
Hải Phòng đến năm 2008




LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Hùng




Hà nội - 2004









1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC 10
1.1 Một số quan điểm về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 10
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục. 10
1.1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục và xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục 12
.3 Theo quan điểm lịch sử phát triển giáo dục 16
1.1.4 Theo quan điểm tiếp cận hệ thống trong khoa học quản lý giáo
dục 18
1.2 Một số khái niệm nghiên cứu về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 20
.1 Khái niệm xã hội hoá 20
1.2.2 Khái niệm xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 21
1.3 Tổng quan về một số quan điểm xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 24
1.3.1 Một số nét về tình hình nghiên cứu xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
ở trong nước và Quốc tế 24
1.3.2 Mục tiêu của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 31
.4 Điều kiện thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 33
1.3.5 Ý nghĩa của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục 34
Chương 2 37

THỰC TRẠNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở
HUYỆN AN DƯƠNG, HẢI PHÒNG 37
2.1 Vị trí vai trò của huyện An Dương trong công tác xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục của Hải Phòng 37

2
2.1.1 Khái quát tình hình địa lý, kinh tế - xã hội của huyện An Dương 37
2.1.2 Tình hình thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước của thành phố Hải Phòng 38
2.2. Thực trạng xã hội hoá sự nghiệp giáo dục hiện nay ở huyện An
Dương 41
2.2.1 Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mầm non: toàn huyện có 16
trường mầm non, trong đó có 1 trường chính quy và 15 trường dân
lập đang chuyển dần sang bán công. 42
2.2.2 Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục bậc tiểu học 43
2.2.3 Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục bậc trung học cơ sở: 44
2.2.4 Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục bậc trung học phổ thông: 45
2.2.5 Việc triển khai thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở huyện
An Dương 48
2.3 Tình hình xã hội hoá sự nghiệp giáo dục của huyện An Dương 49
2.3.1 Nhận thức về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở huyện An Dương
49
2.3.2 Kết quả của công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở huyện An
Dương trong những năm qua: 53
2.3.3 Một số vấn đề đặt ra đối với công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục ở huyện An Dương 68
Chương 3 XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP 73
TĂNG CƯỜNG XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC 73
3.1 Một số xu hướng biến đổi về giáo dục và xã hội hoá giáo dục 73
3.1.1 Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo

dục của cả nước: 73
3.1.2 Mục tiêu, định hướng phát triển giáo dục trung học phổ thông
và chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông của
thành phố Hải Phòng 75

3
3.1.3. Định hướng phát triển giáo dục trung học phổ thông và chủ
trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông của huyện
An Dương 77
3.2 Một số cơ sở và phương hướng tăng cường xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục trung học phổ thông 81
3.3 Các biện pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học
phổ thông nhằm mục tiêu phổ cập trung học phổ thông và nghề 84
3.3.1 Biện pháp “Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã
hội và gia đình về vị trí, vai trò của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung
học phổ thông ” 84
3.3.2 Biện pháp “hoàn thiện cơ chế phối hợp các lực lượng xã hội, các
ban, ngành, đoàn thể cùng tham gia đóng góp và cùng làm xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông ” 90
3.3.3 Biện pháp “củng cố bộ máy tổ chức, quy chế làm việc của Hội
đồng giáo dục các cấp và các trung tâm học tập cộng đồng” 97
3.3.4 Biện pháp "Nâng cao hiệu quả hoạt động của ba môi trường: nhà
trường, gia đình và xã hội, lấy hoạt động giáo dục trong nhà trường
làm trung tâm". 102
3.3.5 Biện pháp "Hoàn thiện cơ chế và tăng cường các biện pháp
quản lý tài chính nhằm phát huy hiệu quả của nguồn lực tài chính
huy động từ xã hội hoá giáo dục"
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 108









4


MỞ ĐẦU
1. Tên đề tài
Biện pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ
thông ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đến năm 2008
2. Lý do chọn đề tài
2.1 Về lý luận:
Chúng ta đang bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của
nền văn minh trí tuệ, xã hội thông tin và kinh tế tri thức - Thế kỷ của hội
nhập khu vực và quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cũng đã khẳng định:
“Lợi thế sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao”. Như vậy
cũng có nghĩa là, nếu dân tộc nào, quốc gia nào trình độ thấp thì sẽ rất thiệt
thòi, chỉ đi làm đầy tớ, “nô lệ” kiểu mới cho các dân tộc, quốc gia có trình
độ cao.
Đối với dân tộc ta, ngay từ xa xưa ông cha ta đã khẳng định: “Hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí mạnh thì thế nước lên và hưng
thịnh, nguyên khí yếu thì thế nước suy”. Ngày nay “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là quan điểm lớn của Đảng ta. Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
to lớn của người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã

giao trách nhiệm cho ngành giáo dục và đào tạo là: “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” và xác định vị trí vai trò của Giáo dục -
Đào tạo là “Quốc sách hàng đầu” đồng thời Đảng cũng chỉ rõ: Giáo dục -
Đào tạo phải đi vào “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” để xứng đáng

5
trở thành động lực quan trọng đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá, công
nghiệp hoá hội nhập với khu vực và quốc tế.


Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, trước sự
“bùng nổ thông tin”, kiến thức của một người tiếp thu được trong quá trình
học ở trường phổ thông, kể cả đại học và sau đại học trong thời đại ngày
nay trở nên quá ít ỏi và nhanh chóng lạc hậu. Do đó, để có thể tồn tại và
phát triển được trong xã hội hiện nay, mỗi người cần phải học thường
xuyên, liên tục, suốt đời, ở mọi nơi, mọi lúc, dưới nhiều hình thức, phương
thức khác nhau.
Ở Việt Nam, hoạt động giáo dục đã gắn bó máu thịt với các sinh hoạt
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục đã và đang có sức sống mãnh liệt trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo
của nhân dân ta.
Để mở rộng và phát triển giáo dục, ngoài việc tăng cường đầu tư ngân
sách Nhà nước, cần thiết phải đẩy mạnh XHHSNGD. Đảng ta chủ trương:
đẩy mạnh XHHSNGD, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải
pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục. Nhà nước khuyến khích
mọi đóng góp, sáng kiến của xã hội cho giáo dục thực hiện chương trình
giáo dục cho mọi người. XHHSNGD được coi là một tư tưởng chiến lược,
coi sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của toàn xã hội tham gia vào công tác
giáo dục, là điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện và có hiệu quả sự
nghiệp giáo dục.

2.2. Về thực tiễn:
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo của huyện An Dương ngày càng mở rộng
về quy mô, nâng cao về chất lượng, trước yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sự phát triển kinh tế - xã

6
hội của huyện An Dương đòi hỏi: giáo dục - đào tạo phải đổi mới và phát
triển nhanh hơn nữa. Trong khi đó, ngân sách và đầu tư khác của Nhà nước
cho giáo dục và đào tạo còn thiếu, chưa đủ đáp ứng nhu cầu của ngành. Bởi
vậy, cần có nhiều biện pháp có hiệu quả, toàn diện và đồng bộ để đẩy mạnh


XHHSNGD trung học phổ thông, góp phần thúc đẩy công tác phổ cập
giáo dục bậc trung học và nghề ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Chủ trương XHHSNGD của Đảng đã và đang được triển khai rộng
khắp các địa phương trong cả nước. Ở thành phố Hải Phòng nói chung và ở
huyện An Dương nói riêng, XHHSNGD đã được thực hiện sớm và đem lại
nhiều kết quả, góp phần cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của huyện ngày
một phát triển. Song công tác XHHSNGD của huyện chưa phải đã được tất
cả các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội huyện An Dương nhận thức đầy
đủ và chỉ đạo tốt, các gia đình, cá nhân ở huyện An Dương chưa phải đều
đã thấm nhuần và thực hiện tốt.
Vì vậy, cần thiết và cấp bách phải nghiên cứu, đề xuất một số biện
pháp XHHSNGD trung học phổ thông góp phần đạt mục tiêu giáo dục -
đào tạo của An Dương.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất một số biện pháp xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ
thông nhằm góp phần đạt mục tiêu phổ cập trung học phổ thông và nghề ở
huyện An Dương, thành phố Hải phòng đến năm 2008
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:

4.1 Khách thể nghiên cứu:
- Vấn đề xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông ở huyện
An Dương
4.2 Đối tượng nghiên cứu:

7
- Biện pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ
thông ở huyện An Dương, thành phố Hải phòng
5. Giả thuyết khoa học:
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội địa phương, cần phải lựa chọn áp dụng đồng bộ các biện pháp xã hội

hoá sự nghiệp giáo dục (Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trò của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục; Hoàn thiện cơ chế phối hợp;
Củng cố Hội đồng giáo dục các cấp; Nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà
trường - gia đình - xã hội; Tăng cường quản lý nhằm phát huy hiệu quả
nguồn lực tài chính huy động từ xã hội hoá sự nghiệp giáo dục)
6. Nhiệm vụ nghiên cứu:
6.1 Phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học,
nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.
6.2 Nghiên cứu, thu thập, xử lý, phân tích thông tin để đánh giá thực
trạng công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở huyện An Dương, phát hiện,
xem xét các nguyên nhân và các yếu tố tác động đến thực trạng đó
6.3 Tìm hiểu xu hướng biến đổi của XHHSNGD ở huyện An Dương và
đề xuất một số biện pháp đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung
học phổ thông ở huyện An Dương, thành phố Hải phòng.
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề, biện pháp xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục trung học phổ thông ở huyện An Dương trong thời gian từ
năm 2002 đến năm 2008

8. Những luận điểm bảo vệ:
8.1 Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục trung học phổ thông ở huyện An Dương

8
8.2 Sự cần thiết phải nghiên cứu thực trạng và các biện pháp xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông ở địa phương
8.3 Luận chứng khoa học cho việc lựa chọn và sử dụng đồng bộ các biện
pháp (Các kết quả nghiên cứu về mặt lý thuyết, thực tế khách quan, khoa
học)

9. Cái mới của luận văn:
Các công trình, đề tài, các bài báo và Hội thảo đã nghiên cứu, thảo
luận vấn đề “Xã hội hoá giáo dục” dưới nhiều khía cạnh khác nhau, từ góc
độ khoa học quản lý về giáo dục. Tuy nhiên, chưa có nhiều đề tài nghiên
cứu chuyên sâu về biện pháp tăng cường công tác xã hội hoá sự nghiệp
giáo dục trung học phổ thông ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Do đó cái mới của luận văn là việc áp dụng lý luận, phương pháp
nghiên cứu đã học làm sáng tỏ xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và đề xuất
biện pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học phổ thông ở
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
10. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp chủ
yếu sau:
10.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng
10.2 Phương pháp phân tích tài liệu
10.3 Phương pháp điều tra xã hội học: (điều tra bằng phiếu, phỏng vấn,
tọa đàm )
10.4 Phương pháp thống kê toán học

10.5 Những tham kiến các ý kiến của các chuyên gia
11. Dàn ý nội dung công trình:

9
Luận văn bao gồm mở đầu, kết quả nghiên cứu và kết luận, khuyến
nghị. Cuối luận văn có phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Kết quả
nghiên cứu được cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
Chƣơng 2: Thực trạng và các biện pháp xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục ở huyện An Dương, Hải Phòng


Chƣơng 3: Xu hướng biến đổi và một số biện pháp xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
trung học phổ thông ở huyện An Dương, Hải Phòng
Kết luận và khuyến nghị


















10






Chƣơng 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC

1.1 Một số quan điểm về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục.
Lý luận Mác-Lê nin coi giáo dục có vai trò quan trọng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Khi đề cập đến vấn đề tổng quát của lịch sử phát
triển loài người Marx chỉ rõ ở mỗi giai đoạn phát triển đều đòi hỏi một sức
lao động xã hội nhất định. Sức lao động đó là: "Toàn bộ các sức mạnh thể
chất và sức mạnh tinh thần ở trong cơ thể con người, ở trong nhân cách
sinh động của con người, những sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần
mà con người phải cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích" [1]. Sức
mạnh này do đâu mà có? Marx chỉ ra đó là do đào tạo. Trên nền tảng tư
tưởng giáo dục của Marx về phổ cập giáo dục phổ thông kỹ thuật tổng hợp
và việc kết hợp với lao động sản xuất, Lê-nin đã phát triển hoàn chỉnh lý
luận về bản chất kinh tế của giáo dục. Theo Lê-nin, giáo dục xã hội chủ
nghĩa vừa là mục đích kinh tế, vừa là sức mạnh của kinh tế. Giáo dục trong
các nước XHCN biểu hiện cả hai mặt của quy luật kinh tế cơ bản của chủ

nghĩa xã hội.

11
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, đất nước ở trong
hoàn cảnh cực kỳ khó khăn vì bị chiến tranh tàn phá, Lê-nin đã chỉ ra:
"Muốn thoát khỏi cảnh thiếu thốn, cảnh cùng khổ đen tối nhất thì phải có
suy nghĩ, phải có văn hoá, phải giỏi". Người coi: "Điều kiện để nâng cao
năng xuất lao động trước hết chính là trình độ tiến bộ của nền giáo dục và
văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân" [1, tr.25]. Lê-nin coi giáo dục
XHCN là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội phải chăm lo sự phát triển
của giáo dục và của ngành giáo dục, ngoài kinh phí cấp phát của nhà nước,
còn phải biết khai thác lực lượng vật chất của xã hội phục vụ cho công tác
đào tạo. Lê - nin là người đầu tiên nêu ra nguyên tắc quản lý này với hệ
thống giáo dục. Trong "Dự án cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nga" Tháng
2/1919, Lê-nin đã nêu: " Làm cho nhân dân lao động tích cực tham gia vào
sự nghiệp giáo dục quốc dân, phát triển những hội đồng giáo dục quốc
dân, động viên những người có văn hoá tham gia vào quá trình giáo dục"
[1,tr.28].
Vấn đề lý luận này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện
sinh động và phát triển sáng tạo trong tiến trình cách mạng ở nước ta.
Tháng 9/1945, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Hồ
Chủ tịch đã nêu ra mục tiêu của chế độ mới là làm cho mọi người "ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Để đạt mục tiêu này, Người
cho rằng: "Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này
là nâng cao dân trí".
Với hoàn cảnh đất nước còn nghèo nàn, trình độ học vấn của nhân
dân còn thấp kém, chính quyền cách mạng vừa giành được đã bị kẻ thù uy
hiếp, phá hoại, Hồ Chủ tịch vạch ra nhiệm vụ chiến lược là: "Diệt giặc đói,
diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm". Trong những năm chiến đấu chống thực
dân Pháp xâm lược, mặc dù công tác lãnh đạo kháng chiến rất bận rộn và

khẩn trương, Hồ Chủ tịch vẫn thường xuyên quan tâm việc phát triển nền

12
giáo dục mới, hướng hoạt động của giáo dục vào việc đào tạo cán bộ mới
và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ "kháng chiến và kiến quốc", góp phần
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới.
Nhằm giúp cho cán bộ giáo dục thấy rõ nhiệm vụ nặng nề, vẻ vang
của ngành trước hoàn cảnh mới của cách mạng, trong lớp đào tạo hướng
dẫn viên các trại hè của ngành giáo dục tháng 4/1956, Hồ Chủ tịch nói rõ:
"Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn
hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu. Tuy không có gì đột
xuất, nhưng rất vẻ vang". Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: "Vì lợi ích
mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người". Người
yêu cầu toàn xã hội: Phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp
giáo dục lên những bước phát triển mới". Người chỉ thị cho ngành giáo
dục: "Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt" để
"thời gian không xa đạt những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật"[ 1, tr. 62].

1.1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục và xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục

Xuất phát từ đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, ngày 10/10/1990 Bộ Giáo dục - Đào tạo và Công đoàn giáo dục Việt
Nam ra thông tư liên tịch số 35/TT – LT về việc động viên toàn ngành
tham mưu với các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương mở Đại hội giáo
dục cấp cơ sở, thực hiện XHHSNGD [32].
Đặc biệt từ khi có Nghị quyết 04/NQ-TW về việc tiếp tục đổi mới sự
nghiệp giáo dục và đào tạo với quan điểm: “Huy động toàn xã hội làm giáo
dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc
dân dưới sự quản lý của Nhà nước”. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân

dân, các tổ chức xã hội, mọi gia đình và mọi người cùng với ngành GD -
ĐT chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo dục theo phương châm “Nhà nước và

13
nhân dân cùng làm”, “xây dựng môi trường giáo dục nhà trường, gia đình
và xã hội” [33]. Việc mở ĐHGD các cấp, thực hiện XHHSNGD được Ban
khoa giáo Trung ương phối hợp chỉ đạo đã triển khai sâu rộng trong phạm
vi toàn quốc. Các tỉnh, thành phố, UBND quận huyện, xã phường có nghị
quyết, chỉ thị về XHHSNGD.
NQTW 2, khoá VIII (1997) đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là sự
nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình
và mỗi công dân. Kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục gia đình,
giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Người lớn làm
gương cho trẻ noi theo. Phát động vai trò rộng khắp toàn dân học tập,
người người đi học, học ở trường, lớp và tự học suốt đời. Người biết dạy
người chưa biết, người biết nhiều dạy người biết ít, mỗi người phải không
ngừng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Phát triển các
hình thức giáo dục từ xa. Tiếp tục đa dạng hoá các hình thức giáo dục và
các loại hình trường phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới, với nhu cầu
học tập của tuổi trẻ và của toàn xã hội ” [35].
Nghị quyết 90/CP của Chính phủ tháng 8 năm 1997 đã nêu nội dung
cơ bản về XHHSNGD, [23].
XHHSNGD là cuộc vận động lớn, hình thành các tổ chức nhân dân
của toàn xã hội tham gia, đóng góp, thúc đẩy sự phát triển sự nghiệp giáo
dục.
XHHSNGD là việc tạo ra môi trường rộng khắp, lành mạnh cho giáo
dục mà trách nhiệm thuộc về cộng đồng xã hội từ các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chăm lo, hỗ trợ
cho sự phát triển giáo dục.
Đa dạng hoá các loại hình giáo dục, theo điều kiện kinh tế - xã hội

địa phương, dưới sự quản lý của Nhà nước, trong khuôn khổ chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nhằm đảm bảo quyền, cơ hội cho mọi

14
tầng lớp nhân dân dược tham gia chủ động và bình đẳng các hoạt động của
giáo dục và đào tạo.
XHHSNGD còn là sự tìm tòi khai thác các tiềm ẩn nguồn lực và vật
lực trong xã hội cho giáo dục, đây là chủ trương lâu dài, một phương châm
trong việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. XHHSNGD
còn là vấn đề sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí mà giáo dục huy
động được.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định vị trí vai trò và nhiệm vụ của công tác
XHHSNGD: Thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy
tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng
lực tự học, tự hoàn thiện học vấn tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập
trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính
quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội
học tập” [34].
Đại hội IX cũng nhấn mạnh “thực hiện chủ trương xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc
xây dựng các quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ
giáo dục”.
Trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “chiến
lược phát triển giáo dục 2001-2010” cũng đã xác định: Giáo dục là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội học tập, tạo
điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường
xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự
nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá; khuyến khích, huy động và tạo điều
kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục

thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, phương hướng phát triển
giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2010 đã chỉ rõ:

15
"Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của
toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục. Nhà
nước khuyến khích mọi đóng góp, mọi sáng kiến của xã hội cho giáo dục.
Mặt khác Nhà nước tập trung đầu tư cho giáo dục ở vùng sâu, vùng dân tộc
thiểu số, những đối tượng gặp khó khăn.
Thực hiện chương trình giáo dục cho mọi người. Tiếp tục đa dạng hoá
các loại hình trường lớp, tạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân có
nhu cầu. Nghiên cứu các chính sách Nhà nước hỗ trợ trường ngoài công
lập.
Hoàn thiện quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng giáo dục
các cấp, của Hội khuyến học, của các loại hình trường ngoài công lập;
Chính sách về học phí, học bổng, quy định các khoản thu và sử dụng các
khoản đóng góp của người học, các khoản hỗ trợ cho học sinh vùng dân
tộc, vùng khó khăn, gia đình chính sách ”[26].
Ngày 15/11/2004, trong kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá IX, thừa uỷ
quyền của Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Minh
Hiển trình bầy báo cáo về tình hình giáo dục trước Quốc hội. Bộ trưởng đã
thẳng thắn nhìn nhận một cách tổng quát về cả ưu điểm cũng như khuyết
điểm của nền giáo dục nước ta hiện nay: "Trong những năm qua, nền giáo
dục nước ta đã có bước phát triển mới về quy mô và các điều kiện đảm bảo
chất lượng, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước. Bên cạnh đó, trong giáo dục cũng bộc lộ những bất cập, yếu
kém, khuyết điểm gây lo lắng, bức xúc trong nhân dân". Thay mặt Chính
phủ, Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển đã trình bày một số nhiệm vụ trọng tâm
và giải pháp phát triển từ nay đến năm 2010. Theo đó một trong những nội
dung quan trọng về giải pháp khắc phục tình trạng giáo dục hiện nay là tiếp

tục đổi mới mạnh mẽ tư duy giáo dục mà công tác xã hội hoá giáo dục
được xem như giải pháp cơ bản để phát triển giáo dục.

16
Quốc hội đã dành toàn bộ thời gian còn lại trong ngày để các đại biểu
thảo luận về tình hình giáo dục. Tổng số đã có 15 ý kiến phát biểu, 3 ý kiến
chất vấn và 22 đại biểu đăng ký nhưng chưa được phát biểu. Điều đó chứng
tỏ lĩnh vực giáo dục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội [27].
Chủ trương xã hội hoá đã có tác động tích cực đến sự nghiệp giáo dục,
đã thu được những kết quả quan trọng: Mở ra quy mô, đa dạng hoá loại
hình, nâng cao dân trí, tăng thêm cơ hội được học tập cho nhân dân, góp
phần thực hiện công bằng xã hội, tạo công ăn việc làm ổn định đời sống
cho hàng vạn người. Huy động được nhiều nguồn tài nguyên đa dạng đầu
tư cho giáo dục.
Nguyên nhân của những thành công là: Quá trình XHHSNGD đã
được chỉ đạo thực hiện theo đúng đường lối của Đảng thể hiện trong các
Đại hội VIII và IX. XHHSNGD là một quá trình hợp quy luật, dúng với
bản chất xã hội vốn có của giáo dục. Mặt khác, nguyên nhân của những hạn
chế cũng xuất phát từ nhận thức, cơ sở lý luận chưa đầy đủ, tâm lý ỷ lại
trông chờ ở Nhà nước và công tác quản lý hay nói rộng ra hơn là cách làm
xã hội hoá chưa đáp ứng nhu cầu phát triển” [36].
Đổi mới cách vận hành nền giáo dục trước hết cần đổi mới cơ chế
chính sách và quản lý theo hai nhóm giải pháp chính: Kích thích xã hội đầu
tư cho giáo dục và tạo điều kiện xã hội tham gia vào quá trình giáo dục.
.3 Theo quan điểm lịch sử phát triển giáo dục
Lịch sử phát triển của xã hội loài người có thể phân thành các giai đoạn
theo sự phát triển của hình thái xã hội. Tuy nhiên cũng có thể nhìn nhận sự
phát triển đó dưới một góc nhìn khác. Ta có thể coi từ khi có xã hội loài
người đến nay đã trải qua 4 nền văn minh : Văn minh hái lượm ; Văn
minh nông nghiệp ; Văn minh công nghiệp ; Văn minh trí tuệ. Trong nền

văn minh hái lượm con người tồn tại theo bầy đoàn và sau đó là bộ lạc ;
phương tiện sản xuất thô sơ và cuộc sống tồn tại nhờ hái lượm, săn bắn.

17
Tương ứng với giai đoạn phát triển này của xã hội loài người giáo dục xuất
hiện dưới dạng tự phát, ở đây có thể coi giáo dục là sự truyền thụ kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm hái lượm, săn bắn để tồn tại. Sau hàng vạn năm
tồn tại cùng với sự xuất hiện các hình thái xã hội loài người đã chuyển dần
sang nền văn minh nông nghiệp với sức sản xuất, và quan hệ sản xuất lấy
tài nguyên đất đai làm điểm tựa. Tương ứng với giai đoạn này bên cạnh
giáo dục ở gia đình, giáo dục nhà trường phát triển mạnh biến giáo dục
thành một quá trình tự giác, có tổ chức, nội dung có chọn lọc và tính mục
đích rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên nội dung giáo dục về cơ bản là giáo điều,
phương pháp giáo dục áp đặt nhưng phù hợp với giai đoạn phát triển của xã
hội loài người ở giai đoạn đó. Xã hội tiếp tục phát triển và rồi loài người
dần dần chuyển sang một nền văn minh khác mà người ta đặt tên cho nó là
nền văn minh công nghiệp. Lúc này nền giáo dục cổ truyền của nền văn
minh nông nghiệp tỏ ra không còn đáp ứng được những đòi hỏi mới của
nền kinh tế-xã hội và một nền giáo dục mới đã ra đời với cái tên nền giáo
dục hiện đại. Để đáp ứng được những yêu cầu mới của xã hội cũng như tận
dụng được những điều kiện mới mà xã hôị mới mang đến, nội dung giáo
dục đa dạng hơn, phong phú hơn, mang tính hướng nghiệp hơn. Phương
pháp giáo dục mềm dẻo, đa dạng, gắn với lao động sản xuất.
Người ta dự báo bước sang thế kỉ 21 loài người sẽ chuyển dần sang
nền kinh tế trí thức và một nền văn minh mới của xã hội loài người sẽ được
hình thành đó là nền văn minh trí tuệ. Tương ứng với nền văn minh này của
xã hội loài người nền giáo dục cũ cần phải có sự canh tân để thích ứng với
sự thay đổi của xã hội và phải tận dụng nhiều hơn những thành tựu của
công nghệ thông tin và thông lưu để đổi mới phương thức giáo dục-đào tạo
của mình và người ta gọi nền giáo dục đó là nền giáo dục tương lai. Ở đây

nhà trường truyền thống sẽ có những thay đổi lớn về cách thức chuyển tải
nội dung và phương thức giáo dục cũng rất đa dạng. Nhà trường trở thành “

18
Siêu thị kiến thức”! Chỉ có như vậy giáo dục mới đáp ứng được những đặc
điểm mới của kinh tế xã hội. Từ những kiến giải trên chúng ta thấy rõ : mối
quan hệ giữa giáo dục và đào tạo với xã hội xét trong suốt tiến trình phát
triển của chúng ta tạo nên một hình xoắn ốc, ứng với mỗi giai đoạn phát
triển mối quan hệ hai chiều giáo dục-xã hội thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Sự cân bằng động đó tồn tại vì con người, do con người hay nói một cách
khác lấy con người làm điểm tựa. Ở đây giáo dục phải là công cụ, phương
tiện để cải biến xã hội và nhờ có giáo dục làm động lực xã hội không
ngừng phát triển. Khi xã hội phát triển lên một mức nào đó xã hội sẽ “ Đặt
hàng mới” cho giáo dục và cũng tạo điều kiện mới cho giáo dục buộc giáo
dục phải tự nâng mình lên để đáp ứng bối cảnh mới. Mối quan hệ cân bằng
động này tồn tại cùng với lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Theo TS.Đặng Xuân Hải thì : “Cân bằng động” trong đào tạo yêu cầu
các nhà giáo dục phải ý thức được tính đi trước một bước của giáo dục -
đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. “Cân bằng động” này chỉ có
thể duy trì trên cơ sở hệ thống giáo dục phải có chiến lược nghiên cứu các
bước đi của kinh tế - xã hội, nghiên cứu sự thay đổi của thị trường lao
động, đồng thời có chiến lược nâng cao vai trò của giáo dục - đào tạo và
nhà trường nên tương xứng với yêu cầu kinh tế – xã hội luôn thay đổi. Con
người là lực lượng tạo ra và duy trì thế cân bằng động, nên phải thực hiện
chiến lược con người thông qua đầu tư thích đáng cho giáo dục - đào tạo,
chú trọng đặc biệt và trước hết đến chất lượng đào tạo của nhà trường [12].
1.1.4 Theo quan điểm tiếp cận hệ thống trong khoa học quản lý
giáo dục
Dưới góc nhìn của tiếp cận hệ thống, hệ thống giáo dục là một hệ con
của hệ thống xã hội. Giáo dục chi phối nhiều yếu tố của hệ thống xã hội và

cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố của hệ thống xã hội. Ví dụ như :
giáo dục cũng phụ thuộc vào Nhà nước và chính trị, phụ thuộc truyền thống

19
văn hoá, giáo dục quốc gia. Phụ thuộc sự phát triển kinh tế - xã hội, phụ
thuộc vào trình độ khoa học, công nghệ Có thể tóm tắt một số nét chính
các mối quan hệ như sau: mối quan hệ giáo dục - Nhà nước được xác lập
trên cơ sở Nhà nước là tổ chức công quyền lớn nhất quản lý giáo dục, giáo
dục là công cụ của Nhà nước, giáo dục phục vụ chính trị. Bất cứ Nhà nước
nào cũng phải tổ chức giáo dục cho công dân của mình. Mối quan hệ giáo
dục - kinh tế được xác lập trên quan điểm giáo dục là nền tảng để phát triển
kinh tế - xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Ứng với một
trình độ phát triển khoa học công nghệ, nội dung, phương pháp giáo dục
cũng bị chi phối và mối quan hệ giáo dục - khoa học và công nghệ cũng là
mối quan hệ 2 chiều, bởi vì giáo dục góp phần sáng tạo ra khoa học - công
nghệ và khoa học - công nghệ cũng thúc đẩy giáo dục phát triển
Tóm lại, khi đề cập đến bản chất của mối quan hệ giữa giáo dục nói
chung và nhà trường nói riêng với cộng đồng xã hội người ta thường nhấn
mạnh một số vấn đề sau :
- Giáo dục xuất hiện cùng với đời sống xã hội của loài người. Sự tồn tại
và phát triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của trình độ phát triển kinh
tế - xã hội và ngược lại với chức năng của mình giáo dục lại có vai trò to
lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Ta có thể xem đó là bản chất của
tính xã hội của giáo dục.
- Dưới góc nhìn của tiếp cận hệ thống, giáo dục muốn tồn tại và phát
triển phải luôn giữ được cân bằng động với các yếu tố khác của xã hội và ở
đây hệ thống giáo dục phải là hệ tự điều khiển. Ở đây hệ thống giáo dục
không giữ vai trò đi trước một bước sẽ không phát huy hết vai trò của mình
trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tất nhiên đến lượt mình
nếu các yếu tố khác của xã hội không tạo điều kiện cho giáo dục phát triển

thì cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình cải biến xã hội. Như vậy dưới góc

20
nhìn này của chúng ta cũng thấy rõ mối quan hệ cân bằng động giữa giáo
dục với các yếu tố khác của xã hội.
- Để tăng cường mối quan hệ giữa giáo dục, nhà trường và cộng đồng xã
hội, chúng ta cần đi sâu vào đặc điểm của các mối quan hệ cụ thể, nghiên
cứu kỹ đặc điểm từng ngành học, bậc học, hoàn cảnh của từng cộng đồng,
từng vùng, từng địa phương để có biện pháp triển khai mối quan hệ này cho
phù hợp và có hiệu quả

1.2 Một số khái niệm nghiên cứu về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục

.1 Khái niệm xã hội hoá
Trong xã hội học, XHH được sử dụng với nghĩa là quá trình con người
tiếp thu nền văn hoá của xã hội trong đó con người được sinh ra, quá trình
nhờ nó con người đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được
cách suy nghĩ, ứng xử được coi là thích hợp trong xã hội hay là quá trình
chuyển biến cá nhân còn mang tính sinh vật sang cá nhân có tính cách xã
hội. Đây chính là quá trình XHH cá nhân, quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
Còn khái niệm XHH trong luận văn này thuộc phạm trù cách làm. XHH
là một khái niệm chỉ quá trình làm cho một cái gì đó mang tính xã hội hay
trở thành cái chung của xã hội, mà trước đây chỉ có một bộ phận của xã hội
có trách nhiệm quan tâm. Đó là quá trình XHH các vấn đề, hoạt động xã
hội như XHH hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục, thể thao Hiện
có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất rằng
bản chất của XHH là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi
người dân, mọi lực lượng xã hội, tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có

kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Nhà nước, làm cho việc
giải quyết các vấn đề xã hội thực sự của dân, do dân và vì dân.

21
1.2.2 Khái niệm xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục nó thuộc phạm trù cách làm giáo dục.
Giáo dục về bản chất mang tính xã hội. Giáo dục và xã hội luôn gắn
bó, hoà quyện với nhau, hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Xã hội muốn
tồn tại và phát triển thì phải làm giáo dục. Ngược lại, giáo dục muốn phát
triển thì không thể tách ra khỏi đời sống xã hội, không thể không dựa vào
cộng đồng. Vì vậy, XHHSNGD là tìm cách hoàn nguyên bản chất xã hội
của giáo dục, gắn giáo dục với xã hội, với cộng đồng.
XHHSNGD được hiểu với nghĩa phổ biến nhất là làm cho toàn xã hội
làm giáo dục, tất cả cho giáo dục và giáo dục cho mọi người. XHHSNGD,
vì vậy bao hàm cả XHH trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo
dục và cả XHH quyền lợi của mọi người về giáo dục. Trong đó, XHH
quyền lợi giáo dục là mục tiêu chủ yếu, là cốt lõi của XHHSNGD. “ Mọi
người cho giáo dục” và “ giáo dục cho mọi người” là hai vấn đề có liên
quan chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, là hai đặc trưng của “xã hội học
tập”. Muốn giáo dục đến được với mọi người thì mọi người phải làm giáo
dục. Muốn mọi người có trách nhiệm đối với giáo dục thì giáo dục phải
phục vụ cho tất cả mọi người. Vì vậy, XHHSNGD cần phải đạt được hai
mục tiêu sau đây :
- Tạo cơ hội cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập
thường xuyên, học suốt đời.
- Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát
triển giáo dục.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều người còn có quan niệm hẹp, thậm chí
sai lầm về XHHSNGD (bảng 1.1). Vì vậy, để có quan niệm đúng về
XHHSNGD cần quán triệt một số vấn đề sau:

- “XHHSNGD hoàn toàn không phải là một ý đồ chiến thuật, được vận
dụng một cách nhất thời cho một giải pháp tình thế. Vì vậy, không nên hiểu

22
XHHSNGD như một phương châm hành động khi đất nước còn nghèo,
điều kiện đầu tư cho giáo dục còn quá eo hẹp. XHHSNGD là một quan
điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục nhằm làm cho
hoạt động giáo dục thực sự là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân Nói cách
khác không phải vì nghèo mà chúng ta tiến hành XHHSNGD. Tuy nhiên
trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội như hiện nay thì lại
cần phải nhấn mạnh phát triển giáo dục theo tinh thần XHH” [14].
- “XHHSNGD không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm và vai trò của
Nhà nước.Trái lại, XHHSNGD chỉ có thể thực hiện thành công khi có sự
lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước và vai trò, chủ động, nòng cốt của ngành giáo dục”
- XHHSNGD không chỉ nhằm huy động “mọi người cho giáo dục”, mà
còn chủ yếu nhằm tạo cơ hội “giáo dục cho mọi người”.
- XHHSNGD không phải chỉ là huy động các lực lượng xã hội hỗ trợ
cho giáo dục, mà còn huy động xã hội cùng làm giáo dục.
- XHHSNGD không phải chỉ là huy động tiền của trong nhân dân,
không phải là giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Huy động tiền của
của nhân dân chỉ là một nội dung của XHHSNGD. Ngoài huy động tài lực,
việc huy động nhân lực, vật lực, trí lực là nội dung quan trọng của
XHHSNGD nhằm đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục.
- XHHSNGD không phải là dân chủ hoá giáo dục. Đây là hai khái niệm
có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. Dân chủ hoá giáo dục là một
nội dung lớn của thời đại, là nội dung rất cơ bản của sự nghiệp đổi mới giáo
dục, biến hệ thống giáo dục và trường học như một “thiết chế hành chính”
thành một “thiết chế giáo dục hoàn toàn của dân, do dân và vì dân”.
XHHSNGD chỉ là một con đường thực hiện dân chủ hoá giáo dục, tạo điều

kiện cho mọi người trong xã hội tham gia xây dựng và quản lý nhà trường,
giúp cho quá trình dân chủ hoá giáo dục được thuận lợi. Ngược lại, dân chủ

23
hoá giáo dục là giải pháp, đồng thời là động lực không thể thiếu được đối
với XHHSNGD. Nhờ có dân chủ hoá giáo dục mà các thành phần tham gia
XHHSNGD sẽ trở nên đông đảo.
- XHHSNGD cũng không phải là đa dạng hoá giáo dục. Thực ra, đa
dạng hoá các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp chỉ là giải pháp,
đồng thời là động lực không thể thiếu được đối với XHHSNGD và là một
nội dung của XHHSNGD.
- XHHSNGD cũng không phải là tổ chức cho được ĐHGD các cấp.
ĐHGD các cấp chỉ là một trong các giải pháp đẩy mạnh XHHSNGD.
Tóm lại: Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là khoa học về mối quan hệ
giữa giáo dục với các yếu tố xã hội. Nó chịu sự quy định của các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội, của các quá trình xã hội khác nhau: kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hoá. Tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, bản chất của
quan hệ sản xuất, hệ tư tưởng, nền khoa học, văn hoá nghệ thuật của mỗi
quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định đã quy định tính chất, nhiệm
vụ, nội dung của nền giáo dục đất nước đó.

Bảng 1.1. Một số quan niệm hiện nay về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục

Quan niệm hẹp
Quan niệm đầy đủ
XHHSNGD chỉ là một giải pháp tình thế
khi ngân sách Nhà nước còn khó khăn
XHHSNGD là một tư tưởng chiến lược,
một bộ phận của đường lối phát triển, một
con đường phát triển giáo dục

XHHSNGD là giảm vai trò, là giảm gánh
nặng cho ngân sách Nhà nước, là chuyển
giáo dục cho xã hội tự lo liệu
XHHSNGD đòi hỏi tăng cường vai trò,
trách nhiệm và quản lý của Nhà nước.
Đồng thời với viêc huy động nguồn lực
phải tăng và sử dụng có hiệu quả NSNN
chi cho giáo dục
XHHSNGD chỉ nhằm huy động “mọi
người cho giáo dục”
XHHSNGD không chỉ nhằm huy động
“mọi người cho giáo dục”, mà còn chủ yếu

24
nhằm tạo cơ hội “ giáo dục cho mọi người”
XHHSNGD là huy động xã hội hỗ trợ cho
giáo dục
XHHSNGD là huy động xã hội không chỉ
hỗ trợ cho giáo dục, mà còn cùng làm giáo
dục
XHHSNGD chủ yếu huy động tiền của của
nhân dân
Huy động tiền của của nhân dân chỉ là một
nội dung của XHHSNGD. Ngoài huy động
tài lực, coi trọng huy động nhân lực, vật
lực, trí lực cho giáo dục
XHHSNGD là đa dạng hoá các loại hình
giáo dục, là dân chủ hoá giáo dục, là tổ
chức ĐHGD các cấp
Đa dạng hoá giáo dục, dân chủ hoá giáo

dục và tổ chức ĐHGD chỉ là giải pháp, là
một trong những nội dung, là động lực của
XHHSNGD

1.3 Tổng quan về một số quan điểm xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
1.3.1 Một số nét về tình hình nghiên cứu xã hội hoá sự nghiệp giáo
dục ở trong nước và Quốc tế
XHHSNGD là cuộc vận động lớn mang tính chất toàn xã hội;
XHHSNGD thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân đối với sự
nghiệp giáo dục; XHHSNGD là cách thức làm giáo dục và dân chủ hoá nhà
trường; XHHSNGD là chiến lược của đường lối giáo dục.
Quan điểm thứ nhất: XHHSNGD là cuộc vận động lớn mang tính
chất toàn xã hội. Đây là một cuộc vận động quần chúng mang tính nghề
nghiệp sâu sắc của Công đoàn giáo dục Việt Nam. Công đoàn giáo dục
Việt Nam đã nghiên cứu làm thí điểm, mở rộng mô hình "Đại hội giáo dục
cấp xã" dưới tên gọi XHHSNGD [8].
Trong bài “mấy vấn đề XHHSNGD” của PGS.TS Lê Khanh:
XHHSNGD lại được quan niệm như một phương thức làm giáo dục, quan
điểm đó được phát biểu như sau: chúng ta huy động mọi lực lượng cùng
làm giáo dục dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Cá nhân, đoàn thể,
tổ chức xã hội phối hợp chặt chẽ với nhau và với nhà trường cùng thực hiện

×