Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Những biện pháp quản lý học sinh, sinh viên của giáo viên chủ nhiệm lớp Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 93 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM







NGUYỄN VĂN HƯỞNG







NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HỌC SINH,
SINH VIÊN CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI






LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC









HÀ NỘI – 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM











NGUYỄN VĂN HƯỞNG





NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HỌC SINH,

SINH VIÊN CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.05




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƯU XUÂN MỚI





HÀ NỘI – 2008




2

NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BGD&ĐT : Bộ Giáo dục và Đào tạo

CT : Chỉ thị
CĐ : Cao đẳng
CĐTN&MT : Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường
ĐH : Đại học
GVCN : Giáo viên chủ nhiệm
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GTSX : Giá trị sản xuất
HSSV : Học sinh, sinh viên
QĐ : Quyết định
TCCB : Tổ chức cán bộ










3
MC LC

Trang
M U
7
1. Lý do chn ti
7
2. Mc ớch nghiờn cu
9

3. Nhim v nghiờn cu
9
4. Khỏch th v i tng nghiờn cu
9
5. Phm vi nghiờn cu
9
6. Gi thuyt khoa hc
10
7. Phng phỏp nghiờn cu
10
8. í nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
10
9. Cấu trúc luận văn
10
Ch-ơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý học sinh, sinh viên của
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở tr-ờng Cao Đẳng và Đại Học
12
1.1. Tng quan v vn nghiờn cu
12
1.2. C s lý lun v qun lý hc sinh, sinh viờn ca giỏo viờn ch
nhim lp
15
1.2.1. Mt s khỏi nim cú liờn quan n ti
15
1.2.2. Cụng tỏc qun lý hc sinh, sinh viờn ca ngi giỏo viờn ch nhim
lp trng cao ng v i hc
28
Chng 2: Thc trng cụng tỏc qun lý hc sinh, sinh viờn ca giỏo viờn ch
nhim lp Trng Cao ng Ti nguyờn v Mụi trng H Ni
39

2.1. c im t nhiờn v tỡnh hỡnh phỏt trin kinh t xó hi huyn
T Liờm
39
2.2. c im ca Trng Cao ng Ti nguyờn v Mụi trng H
Ni
41
2.2.1. V c cu t chc
42
2.2.2. V nhõn lc
42


4
2.2.3. Về quy mô tuyển sinh
43
2.2.4. Về trang thiết bị dạy học
43
2.3. Thực trạng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp Trường Cao đẳng Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội
45
2.4. Thực trạng học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội
46
2.5. Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm lớp
về mức độ cần và thể hiện vai trò của đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm lớp trong công tác quản lý học sinh, sinh viên
52
2.6. Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp
Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
53

2.7. Thực trạng hoạt động của giáo viên chủ nhiệm lớp Trường Cao
đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội trong việc quản lý học
sinh, sinh viên
57
2.7.1. Kế hoạch hoạt động quản lý học sinh, sinh viên của giáo viên
chủ nhiệm lớp.
59
2.7.2. Tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động quản lý học sinh, sinh
viên của giáo viên chủ nhiệm lớp
60
2.7.3. Kích thích (tạo động cơ) hoạt động cho mỗi thành viên trong tập
thể của giáo viên chủ nhiệm lớp
61
2.7.4. Kiểm tra của giáo viên chủ nhiệm lớp
62
2.7.5. Phối hợp điều chỉnh hoạt động quản lý học sinh, sinh viên của
giáo viên chủ nhiệm lớp
62
2.8. Nhận xét đánh giá chung về thực trạng hoạt động của giáo viên
chủ nhiệm lớp Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà
Nội trong việc quản lý học sinh, sinh viên
63
Chương 3: những biện pháp quản lý học sinh sinh viên của giáo viên chủ
nhiệm lớp ở Trường cao đẳng tài nguyên và môi trường hà nội trong giai
66


5
đoạn hiện nay
3.1. Cơ sở xuất phát của việc đề ra những biện pháp quản lý học sinh,

sinh viên của giáo viên chủ nhiệm lớp Trường Cao đẳng Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội
66
3.1.1. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo nói chung và mục
tiêu giáo dục đại học nói riêng
66
3.1.2. Xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo của Trường Cao
đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
67
3.1.3. Xuất phát từ kinh nghiệm hoạt động quản lý đội ngũ giáo viên
chủ nhiệm lớp và hoạt động quản lý học sinh, sinh viên của đội
ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp ở Trường Cao đẳng Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội
68
3.1.4. Xuất phát từ quy chế học sinh, sinh viên các trường đại học, cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy
69
3.2. Đề xuất những biện pháp quản lý học sinh, sinh viên của giáo
viên chủ nhiệm lớp
70
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý. giáo viên chủ nhiệm
lớp về tầm quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc
quản lý học sinh, sinh viên
70
3.2.2. Kế hoạch hóa hoạt động quản lý học sinh, sinh viên
72
3.2.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý học sinh, sinh viên
73
3.2.4. Kích thích (tạo động cơ) hoạt động của mỗi học sinh, sinh viên
trong tập thể lớp.

75
3.2.5. Kiểm tra đánh giá hoạt động của tập thể lớp học sinh, sinh viên
76
3.2.6. Phối hợp và điều chỉnh trong công tác quản lý học sinh, sinh viên
77
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp quản lý học sinh, sinh viên của
giáo viên chủ nhiệm lớp Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội.
78
3.4. Khảo sát mức độ cần thiết và tính khả thi của những biện pháp
79


6
quản lý học sinh, sinh viên của giáo viên chủ nhiệm lớp Trường
Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
3.4.1. Mức độ cần thiết
80
3.4.2. Tính khả thi
81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
83
1. Kết luận
83
2. Khuyến nghị
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
86
PHỤ LỤC


1. Các phiếu trưng cầu ý kiến

2. Sổ công tác giáo viên chủ nhiệm lớp












7
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Gần 20 năm đổi mới và phát triển, kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển vượt bậc và không ngừng khẳng định vị thế trên trường quốc tế và
trong khu vực. Những lợi thế của nền kinh tế trong những ngày đổi mới giờ
đây đã không còn nhiều, những khó khăn thách thức đang xuất hiện. Thời kỳ
đổi mới những thay đổi về chính sách vĩ mô và môi trường kinh tế trong nước
đã khơi dậy nguồn lực và đóng góp vào tăng trưởng, phát triển.
Đến nay nguồn lực vốn, tài nguyên, công nghệ đang dần được sử dụng
hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn trong nền kinh tế mở. Các quốc gia dần
nhận ra và đi theo hướng đầu tư cạnh tranh bằng nguồn “vốn nhân lực”.
Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ phương hướng phấn đấu của

nền giáo dục nước ta trong giai đoạn đổi mới là: bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh
thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí
tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao
động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả
thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công
nghệ. Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê chuẩn chiến lược phát triển giáo
dục giai đoạn 2001 – 2010, theo đó thì mục tiêu của giáo dục ĐH là: đáp
ứng nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế – xã hội của thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác
bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tăng cường năng lực
thích ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và
cho những người khác. Theo phương hướng đó đòi hỏi ngành giáo dục
nước ta phải không ngừng nâng cao chất lượng GD&ĐT.


8
Trong quá trình nâng cao chất lượng GD&ĐT, công tác quản lý
HSSV là một khâu rất quan trọng. Việc quản lý HSSV tốt không chỉ tạo
thuận lợi cho việc trang bị những tri thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ
mà còn là môi trường rèn luyện những phẩm chất đạo đức, nhân cách và
tác phong cần thiết cho HSSV.
Trong công tác quản lý HSSV, để quản lý trực tiếp một lớp học nhà
trường phải cử ra những giáo viên có chuyên môn tốt, có lòng nhiệt tình, có
kinh nghiệm để làm công tác GVCN lớp, khi đó người GVCN lớp ngoài
vai trò là một nhà giáo đồng thời cũng giữ vai trò là một nhà quản lý giáo
dục, người GVCN lớp sẽ là người tập hợp và đoàn kết HSSV trong tập thể.
Vì vậy vai trò của GVCN lớp là rất quan trọng, nó góp phần thực hiện tốt
mục tiêu GD&ĐT của mỗi nhà trường.
Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội được thành lập theo

Quyết định số 2978/QĐ - BGD&ĐT – TCCB, ngày 01/06/2005 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT trên cơ sở hợp nhất Trường CĐ Khí tượng Thủy văn Hà
Nội và Trường Trung học Địa chính Trung ương I. Trong giai đoạn hiện
nay, nhà trường đang là cơ sở đào tạo hàng đầu của Bộ Tài nguyên và Môi
trường trong đào tạo nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ quản lý tài nguyên
của đất nước. Từ nhiều năm qua nhà trường cũng đã rất chú trọng và quan
tâm đến công tác quản lý HSSV và đã thu được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên vì là một trường mới được thành lập và đang trong giai đoạn ổn
định, do đó không tránh khỏi có những tư duy khác nhau trong công tác
quản lý HSSV; lực lượng giáo viên và giảng viên tham gia công tác GVCN
lớp còn thiếu nghiệp vụ, kinh nghiệm trong công tác quản lý HSSV. Điều
này dẫn tới phương pháp quản lý HSSV của đội ngũ GVCN lớp hiện nay
chưa thật sự thống nhất và chưa đạt hiệu quả cao, còn nhiều tồn tại cần phải
khắc phục.


9
Với tư cách là một cán bộ của Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường
Hà Nội, bản thân luôn kỳ vọng vào sự nghiệp GD&ĐT của nhà trường sớm
có những tiến bộ trong công tác quản lý HSSV của GVCN lớp, nên tôi
chọn đề tài nghiên cứu “Những biện pháp quản lý học sinh, sinh viên
của giáo viên chủ nhiệm lớp Trƣờng Cao đẳng Tài nguyên và Môi
trƣờng Hà Nội” với hy vọng tìm chọn được những biện pháp quản lý
HSSV có hiệu quả cho đội ngũ GVCN lớp ở Trường CĐ Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội và các trường có điều kiện tương tự.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để đề xuất một số biện pháp quản lý HSSV của GVCN lớp
ở các trường Cao đẳng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên

cứu sau:
- Nghiên cứu lý luận về quản lý HSSV của GVCN lớp ở trường CĐ và
trường ĐH.
- Khảo sát thực trạng về công tác quản lý HSSV của GVCN lớp ở
Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp và khả thi để quản lý HSSV
của GVCN lớp ở Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý HSSV của GVCN lớp ở trường CĐ và trường ĐH.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp quản lý HSSV của GVCN lớp ở Trường CĐ Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu


10
Do thời gian hạn chế, nên đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu công tác
quản lý HSSV của GVCN lớp ở Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà
Nội từ năm học 2004 - 2005 đến nay.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng một cách đồng bộ và hợp lý những biện pháp quản lý
HSSV của GVCN lớp ở Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội do tác
giả đề xuất, thì sẽ nâng cao được năng lực quản lý HSSV của GVCN lớp ở
Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp biện chứng, cụ thể, thực tiễn và lý thuyết hệ thống,
luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập thông tin qua nghiên cứu các văn bản, tài liệu khoa học, sách,

v.v. có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thử nghiệm.
7.3. Những phương pháp hỗ trợ khác
Phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu khảo sát.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: nghiên cứu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý HSSV
của GVCN lớp ở trường CĐ và trường ĐH.


11
- Về thực tiễn: những biện pháp do tác giả đề xuất có giá trị thực tiễn
phổ biến cho các nhà quản lý và GVCN lớp ở Trường CĐ Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội và của các trường CĐ có điều kiện tương tự.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận kiến nghị, tài liêu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý HSSV của GVCN lớp ở trường
Cao đẳng và Đại học.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý HSSV của GVCN lớp ở
Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
Chƣơng 3: Những biện pháp quản lý HSSV của GVCN lớp ở Trường
Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.




















12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HỌC SINH, SINH VIÊN CỦA GIÁO
VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ngày nay, việc nghiên cứu xu thế giáo dục thế kỷ XXI ở Việt Nam đã
chỉ rõ: sứ mệnh của giáo dục là phát triển toàn diện con người, đào tạo nguồn
nhân lực có đủ trình độ đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và của thời đại trí tuệ, của nền kinh tế tri thức. Qua đó,
giáo dục làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”, toàn xã
hội đều có ý thức chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, vì họ ngày càng hiểu rằng:

Giáo dục ngày nay được coi là nền tảng cho sự phát triển khoa học, kỹ thuật,
đem lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm qua, để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao
phù hợp với sự phát triển và cơ cấu kinh tế – xã hội của thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác trong quá
trình hội nhập quốc tế, giáo dục ĐH Việt Nam đã phát triển tương đối nhanh.
Giáo dục ĐH Việt Nam vừa phải đáp ứng nhu cầu học ĐH ngày càng tăng
của nhân dân, vừa phải đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao
cho những ngành sản xuất then chốt, ưu tiên các lĩnh vực công nghệ như:
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chế tạo máy Vì vậy, trong những
năm gần đây, số lượng HSSV tiếp tục tăng. Điều đó cũng đặt ra cho ngành
giáo dục những thách thức trong công tác quản lý HSSV.
Để quản lý HSSV Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra nhiều văn bản, quy chế
để nâng cao hơn nữa công tác quản lý HSSV như: Chỉ thị số 38/1998/CT –
BGD&ĐT, ngày 18/06/1998 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc
kiện toàn, tổ chức bộ máy công tác chính trị tư tưởng trong các trường ĐH và


13
CĐ; Quyết định số 1584/GD-ĐT, ngày 27/07/1993 của Bộ trưởng Bộ giáo
dục đào tạo về việc ban hành quy chế công tác HSSV trong các trường đào
tạo; Quyết định số 42/2000/QĐ-BGD&ĐT, ngày 21/10/2002 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện
của HSSV các trường ĐH, CĐ và trung học chuyên nghiệp hệ chính qui; hay
gần đây nhất là Quyết định số 42/2007/QĐ-BGD&ĐT, ngày 13 tháng 08 năm
2007 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế HSSV
các trường ĐH CĐ và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy Những văn
bản này đã phát huy được tác dụng tích cực, thật sự là công cụ đắc lực cho
những cán bộ làm công tác quản lý HSSV.
Trong công tác quản lý HSSV, vai trò của người GVCN ở trường CĐ

và ĐH là rất quan trọng. Tuy nhiên vai trò này nhiều khi chưa thật sự được
chú trọng và quan tâm đúng mức của nhiều nhà quản lý giáo dục, đã có thời
điểm một số cơ sở giáo dục ĐH không sử dụng lực lượng GVCN lớp tham gia
vào công tác quản lý HSSV, điều này đã gây lãng phí lớn nguồn lực sẵn có
của mỗi nhà trường. Thực tế không thể phủ nhận được sự cần thiết của đội
ngũ này, bởi vì người GVCN lớp có thể nói là người tiếp xúc với HSSV một
cách sâu xát nhất, họ vừa có kiến thức quản lý, đồng thời lại là một giáo viên,
tiếng nói của họ đối với HSSV có trọng lượng hơn nhiều của một cán bộ quản
lý HSSV bình thường. Tuy nhiên lại có rất ít tác giả quan tâm và đi sâu
nghiên cứu, ngay về lý luận cũng chưa có nhiều tác giả nào đi sâu nghiên cứu
một cách có hệ thống về việc quản lý HSSV của người GVCN lớp ở ĐH và
CĐ, mà chủ yếu chỉ quan tâm tới công tác của GVCN lớp ở các trường trung
học phổ thông, có thể kể đến như:
- Tác giả Hà Nhật Thăng, công tác GVCN lớp ở trường phổ thông, Nhà
xuất bản Giáo dục, 2006;
- Các tác giả Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ -
Những tình huống giáo dục học sinh của người GVCN;


14
- Bônđưra, Lê Khánh Bằng dịch - GVCN tập I, II, Hà Nội 1974;
Tại Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, nghiên cứu về các
vấn đề liên quan đến HSSV mới chỉ có tác giả Trần Thị Dung đi sâu nghiên
cứu vấn đề quản lý hoạt động tự học của HSSV;
Một số một số nội dung của công tác quản lý HSSV đã triển khai dưới
dạng các quyết định như:
- Quyết định số 1104/QĐ - CĐTNMT, ngày 13/09/2007 của Hiệu
trưởng Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội về việc ban hành Quy
định khen thưởng, kỷ luật HSSV;
- Quyết định số 1102/QĐ - CĐTNMT, ngày 13/09/2007 của Hiệu

trưởng Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội về việc ban hành quy
định đánh giá kết quả rèn luyện của HSSV,
- Quyết định số 123/QĐ - CĐTNMT, ngày 16/02/2006 của Hiệu trưởng
Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội về việc ban hành sổ quản lý
HSSV ngoại trú.
- Quyết định số 61/QĐ - CĐTNMT, ngày 19/01/2006 của Hiệu trưởng
Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội về việc quy định chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của GVCN lớp.
Nhìn chung, trong nhiều năm qua các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về
công tác GVCN lớp còn rất ít, nhất là công tác quản lý HSSV của GVCN lớp
ở các trường ĐH, CĐ. Ở Trường CĐ Tài nguyên và Môi trường Hà Nội chưa
có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề này; các văn bản ban hành dưới dạng các
quyết định chưa đem lại hiệu quả cao, chồng chéo hoặc không phù hợp trong
công tác quản lý HSSV hiện nay của nhà trường; các nhà quản lý và GVCN
lớp ở trường chưa có nhiều tài liệu để tham khảo và vận dụng vào công tác
quản lý HSSV. Do vậy còn có rất nhiều tồn tại trong quá trình thực hiện,
nhiều nhà quản lý và giáo viên chưa ý thức được vai trò quan trọng của


15
GVCN lớp dẫn tới chất lượng quản lý HSSV của người GVCN lớp chưa cao,
chưa hiệu quả.
Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này với hy vọng để làm sáng tỏ cơ
sở lý luận về quản lý HSSV của GVCN lớp ở trường ĐH và trường CĐ; đồng
thời tìm chọn được những biện pháp quản lý HSSV có hiệu quả góp phần giải
quyết những vướng mắc cho đội ngũ GVCN lớp ở Trường CĐ Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội và các trường có điều kiện tương tự.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý học sinh, sinh viên của giáo viên chủ nhiệm lớp
1.2.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Khái niệm về quản lý

Quản lý là một dạng lao động xã hội gắn liền và phát triển cùng với lịch
sử phát triển của loài người. Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, điều
khiển các hoạt động lao động, nó có tính khoa học và nghệ thuật cao, nhưng
đồng thời nó là sản phẩm có tính lịch sử, tính đặc thù của xã hội. Khi đề cập
đến cơ sở khoa học của quản lý, Các Mác cho rằng: bất cứ lao động nào có
tính xã hội, cộng đồng được thực hiện ở quy mô nhất định đều cần ở chừng
mực nhất định sự quản lý, giống như người chơi vĩ cầm một mình thì tự điều
khiển còn một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng.
Như vậy, có thể hiểu lao động xã hội và quản lý không tách rời nhau và
quản lý là lao động điều khiển lao động chung. Khi lao động xã hội đạt đến
một quy mô phát triển nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ dẫn đến
việc tách quản lý thành một hoạt động đặc biệt. Từ đó trong xã hội hình thành
một bộ phận trực tiếp sản xuất, một bộ phận khác chuyên hoạt động quản lý,
hình thành nghề quản lý.
Có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về nội dung,
thuật ngữ "quản lý", có thể nêu một số định nghĩa như sau:
- Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin về quản lý: Quản lý xã hội
một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn


16
bộ hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo
cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra.
- Theo Wiliam - Taylor: Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác
cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất.
- Tác giả Nguyễn Văn Lê - ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho
rằng: Quản lý là một hệ thống xã hội mang tính khoa học và nghệ thuật tác
động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt mục
tiêu đã đề ra.

- Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: Hoạt động quản lý bắt nguồn từ
sự phân công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động
nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong việc đòi hỏi phải
có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý, phải có người
đứng đầu. Đây là hoạt động để người thủ trưởng phối hợp nỗ lực các
thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt được mục tiêu
đề ra.
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Quản lý là sự
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý)
đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong tổ chức - nhằm làm cho
tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Cũng theo đó các tác
giả còn phân định rõ hơn về hoạt động quản lý: là quá trình đạt đến mục
tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch
hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
* Từ những điểm chung của các định nghĩa trên ta có thể hiểu quản lý
bao gồm các yếu tố như:
+ Phải có chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động “quản lý” (chủ
thể chỉ có thể là một cá nhân hoặc một tổ chức do con người lập nên).


17
+ “Quản lý ai?”, “quản lý cái gì?” quản lý sự việc đó là khách thể quản
lý (hay còn gọi là đối tượng quản lý).
+ Bên cạnh đó phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đã định ra cho cả
đối tượng và chủ thể quản lý. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác
động quản lý.
Giữa chủ thể và khách thể quản lý có mối quan hệ, tác động qua lại
tương hỗ nhau. Chủ thể quản lý làm nảy sinh các tác động quản lý. Khách thể
quản lý thì sản sinh các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực
tiếp đáp ứng nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của quản lý.

Quản lý ngày nay được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế
xã hội: vốn, nguồn lực lao động, khoa học kỹ thuật, tài nguyên và quản lý.
Trong đó quản lý giữ vai trò quyết định sự thành công.
Có thể khái quát: Quản lý là cách thức tác động (sự tác động có tổ
chức, có mục đích,v.v) của chủ thể quản lý lên chủ thể bị quản lý bằng các
chế định xã hội, bằng tổ chức và nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất uy tín
của cơ quan quản lý hay người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của tổ chức nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội của tổ chức nhằm đạt được mục đích trong điều kiện môi
trường luôn biến động.
Như vậy có thể xem quản lý là một quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch nhằm gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
thông qua cơ chế quản lý, nhằm đạt được mục đích của quản lý.
* Chức năng quản lý
Trong quá trình quản lý đã có nhiều hệ thống phân loại chức năng quản
lý, song có thể khái quát lại chỉ còn 4 chức năng cơ bản là:
+ Kế hoạch: là chức năng khởi đầu, là bản thiết kế, kế hoạch là tiền đề
là điều kiện của mọi quá trình quản lý. Kế hoạch có nghĩa là xác định mục
đích, mục tiêu đối với tương lai của tổ chức và con đường, biện pháp, cách


18
thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của nội dung
kế hoạch hoá: (a) xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng đối với tổ
chức); (b) xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các
nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này; (c) xác định xem những hoạt
động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu đó.
+ Tổ chức: là quá trình hình thành cấu trúc các quan hệ giữa các thành
viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành
công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ

chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn
lực và nhân lực.
Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận
cùng các công việc của chúng và sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ sẽ tiếp nối
ngay sau các chức năng kế hoạch và tổ chức. Công tác tổ chức bao gồm việc
xác định và nhóm gộp các hoạt động, giao phó quyền hành của người quản lý
và tạo sự liên hợp thực hiện mục tiêu của tổ chức một cách tự giác và hăng
hái.
+ Chỉ đạo (lãnh đạo): sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã
hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có người lãnh đạo, dẫn dắt tổ
chức. Một số học giả gọi đó là quá trình chỉ đạo (directing) hay tác động
(influencing). Dù là chỉ đạo hay tác động thì lãnh đạo vẫn là bao hàm việc
liên kết, liên hệ với người khác và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ
nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Tuy nhiên việc lãnh đạo không
chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất mà nó
thấm vào ảnh hưởng quyết định đến hai chức năng kia.
+ Kiểm tra: là chức năng của người quản lý nhằm đánh giá, phát hiện
và điều chỉnh kịp thời giúp cho hệ quản lý vận hành tối ưu, đạt mục tiêu đề ra.
Kiểm tra là nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch trên thực tế, phát hiện
những sai lệch, đề ra biện pháp uốn nắn điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra không


19
hẳn là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ quản lý, bởi kiểm tra không chỉ diễn ra
khi công việc đã hoàn thành có kết quả mà nó diễn ra trong suốt quá trình từ
đầu đến cuối, từ lúc chuẩn bị xây dựng kế hoạch.
Muốn cho hệ thống quản lý vận hành có kết quả thì điều quan trọng là
phải thực hiện một cách có hiệu lực quá trình quản lý. Quá trình quản lý
thường diễn ra theo một chu kỳ gọi là chu trình quản lý, chu trình quản lý
được biểu diễn bằng sơ đồ sau.













Sơ đồ 1.1: Chu trình quản lý
1.2.1.2. Khái niệm về quản lý giáo dục
Giáo dục là một bộ phận quan trọng của xã hội, vì vậy quản lý giáo dục
là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống quản lý xã hội.
Quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội và như
vậy giáo dục sẽ được hiểu theo nghĩa rộng nhất, tuy nhiên các nhà nghiên cứu
về giáo dục và quản lý giáo dục đã đưa ra nhiều định nghĩa về quản lý giáo
dục như sau:

Kế hoạch

Kiểm tra

Thông tin
Quản lý

Tổ chức


Chỉ đạo






20
- Theo tác giả M.I Kônđacốp thì: “quản lý giáo dục là tập hợp các biện
pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính … nhằm đảm bảo sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”
[35,tr22].
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy
mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội” [25,tr31]
- Tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng: mục đích cuối cùng của quản lý
giáo dục là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên
thông minh sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và xã hội.
- Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “việc quản lý nhà trường phổ
thông (có thể mở rộng ra là việc quản lý giáo dục nói chung) là quản lý hoạt
động dạy - học, tức là làm sao được hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác để dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [34,tr71].
- Tác giả Nguyễn Minh Đường thì cho rằng: quản lý giáo dục được
hiểu ở hai cấp độ:
+ Theo nghĩa rộng: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động,
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh hoạt động đào tạo
thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội hiện nay.
+ Theo nghĩa hẹp: Quản lý giáo dục, quản lý trường học cụ thể là một

chuỗi tác động hợp lý (có mục đích tự giác, có kế hoạch, có hệ thống) mang
tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và sinh viên,
đến những lực lượng giáo dục trong và người trường, nhằm huy động họ cùng
cộng tác, phối hợp tham gia vào hoạt động của nhà trường, nhằm làm cho quy
trình này vận hành tới việc hoàn thành những mục đích dự kiến.


21
Như vậy bản chất của quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức
của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý và các thành tố tham gia vào quá
trình hoạt động giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Theo chúng tôi, quản lí giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo
dục đạt tới kết quả mong muốn.
1.2.1.3. Khái niệm về biện pháp quản lý học sinh, sinh viên
Để hiểu rõ khía niệm biện pháp quản lý, trước hết chúng ta xem xét đến
phương pháp quản lý.
- Phương pháp quản lý: Phương pháp quản lý là cách thức mà chủ thể
quản lý tác động vào đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định.
Phương pháp quản lý cũng thể hiện rõ nhất tính chất năng động, sáng
tạo của chủ thể quản lý trong mỗi tình huống, mỗi đối tượng nhất định. Người
làm công tác quản lý phải biết sử dụng những phương pháp thích hợp. Tính
hiệu quả của quản lý phụ thuộc một phần quan trọng vào việc chọn đúng đắn
và áp dụng linh hoạt các biện pháp quản lý.
Mỗi phương pháp quản lý đặc trưng cho một thủ pháp động cơ và động
lực thúc đẩy đối tượng quản lý.
- Biện pháp quản lý: là những cách thức cụ thể để thực hiện phương
pháp quản lý. Vì đối tượng quản lý phức tạp nên đòi hỏi các biện pháp quản
lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt, phù hợp với đối tượng quản lý.
Các biện pháp quản lý có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ

thống các biện pháp của mỗi phương pháp quản lý nhất định. Các biện pháp
này sẽ giúp cho nhà quản lý thực hiện tốt các phương pháp quản lý của mình
mang lại hiệu quả hoạt động tối ưu của bộ máy.
- Biện pháp quản lý HSSV: là nội dung, cách thức, cách giải quyết vấn
đề HSSV của nhà trường cùng những lực lượng trong và ngoài nhà trường có


22
liên quan đến HSSV nhằm hình thành nhân cách của HSSV theo yêu cầu, mục
tiêu đào tạo, tiến dần đến mục đích đào tạo.
Chủ thể chính thực hiện các biện pháp quản lý HSSV trong nhà trường
là: ban giám hiệu, khoa, phòng công tác HSSV, GVCN lớp; ngoài nhà trường
là chủ hộ, trưởng thôn (tổ trưởng dân phố), chính quyền xã (phường) chịu
trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức, phối hợp thực hiện các biện pháp quản lý do
mình hoạch định đối với đối tượng chịu sự quản lý là HSSV theo yêu cầu
công tác HSSV mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra.
Cũng cần nhấn mạnh rằng: giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đạt được mục tiêu quản lý, chủ thể
quản lý tác động đến đối tượng quản lý bằng các thông tin thuận và được đối
tượng quản lý tiếp nhận; kết quả tiếp nhận thông tin của đối tượng quản lý sẽ
được thông tin ngược trở lại cho chủ thể quản lý và chính đối tượng quản lý
biết. Quan hệ ấy có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:







Sơ đồ 1.2: Cơ sở khoa học của quản lý

Ghi chú:
+ Mũi tên có nét liền biểu thị cho chiều thông tin thuận.
+ Mũi tên có nét đứt biểu thị cho chiều thông tin ngược (ngoài, trong).
Để đạt được các mục tiêu quản lý, chủ thể quản lý phải tổ chức, phối
hợp, khích lệ, động viên, dẫn dắt, định hướng hoạt động của đối tượng

HỆ QUẢN LÝ
(Chủ thể quản lý)

HỆ BỊ QUẢN LÝ
(Đối tượng quản lý)
a
b
b




23
quản lý vào mục tiêu đã được xác định trước thông qua việc sử dụng hệ
thống các công cụ quản lý
Như vậy, xét cho cùng thì biện pháp quản lý HSSV chính là một loại
công cụ quản lý HSSV, nhằm từng bước đưa HSSV đi đến mục tiêu của
công tác HSSV. Bởi lẽ công cụ quản lý là những phương tiện, những giải
pháp của chủ thể quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt khích lệ, điều hoà,
phối hợp hoạt động của con người và cộng đồng trong việc đạt mục tiêu đề
ra.
1.2.1.4. Học sinh, sinh viên
* Khái niệm về học sinh, sinh viên:
Theo quy chế công tác HSSV trong các trường đào tạo thì khái niệm

HSSV được hiểu như sau: người đang học trong hệ trung học chuyên nghiệp
và đào tạo nghề gọi là học sinh chuyên nghiệp, còn người đang học trong hệ
ĐH và CĐ gọi là sinh viên.
Ngày nay giáo dục, học tập là công việc suốt đời, các trường ĐH, CĐ
mở rộng cửa cho tất cả những ai có nguyên vọng và điều kiện đều có thể học
lên không phân biệt các lứa tuổi, giới tính, họ có thể học bằng nhiều con
đường nhiều hình thức khác nhau. Do đó, nếu quan niệm sinh viên là tất cả
những người đang học ĐH, CĐ với bất kỳ hình thức nào, ở lứa tuổi nào thì
khái niệm sinh viên sẽ quá rộng. Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng
Latinh “Studens”, có nghĩa là “người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm
kiếm, khai thác tri thức”.
- Theo tác giả Mạc Văn Trang - Viện nghiên cứu phát triển giáo dục thì
“với quan niệm truyền thống, khái niệm sinh viên có một số đặc điểm giới
hạn xác định, gồm:
+ Đó là những người tốt nghiệp trung học phổ thông có khả năng và
điều kiện vào học trong các trường ĐH, CĐ.
+ Họ thuộc nhóm thanh niên nam, nữ từ 17 - 18 đến 25 - 26 tuổi.


24
+ Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định.
+ Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các
tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp
chuyên môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp trí thức trẻ.
+ Đối với xã hội nói chung và thanh, thiếu niên nói riêng, sinh viên
luôn là một nhóm xã hội hấp dẫn, được mến mộ. Do đó những trào lưu văn
hoá, lối sống mới thường do sinh viên khởi xướng và là nòng cốt của các hoạt
động truyền bá chúng trong xã hội” [42,tr11] .
- Theo các tác giả Nguyễn Thạc - Phan Thành Nghị thì: “Sinh viên là
đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt, đang chuẩn bị cho hoạt động lao động

sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt này gồm
hàng triệu sinh viên trên thế giới. Nhóm nay rất cơ động và mục đích của nó
được tổ chức theo một chương trình nhất định của việc chuẩn bị thực hiện vai
trò xã hội và nghề nghiệp cao trong lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần.
Nhóm xã hội đặc biệt này là nguồn gốc bổ sung cho đội ngũ trí thức. Hoạt
động học tập được đào tạo cho lao động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia
tích cực vào hoạt động đa dạng, có ích cho xã hội” [40,tr44] .
HSSV không có vị trí độc lập trong các tổ chức lao động sản xuất
của xã hội nên không phải là một giai cấp. Vị trí thực của HSSV trong xã
hội chưa có mà nó còn phụ thuộc vào một giai cấp, một tầng lớp nào đó ở
thành thị hay nông thôn, có sự khác biệt về điều kiện sống, về hoàn cảnh xã
hội.
Như vậy HSSV trong các trường đào tạo là những con người thuộc
một lứa tuổi nhất định và là một nhân cách nên có thể được xác định về ba
phương diện: sinh lý, tâm lý và xã hội. Thông thường, ở các trường đào
tạo, lứa tuổi HSSV là 17 đến 23 tuổi, thuộc giai đoạn thứ 2 của tuổi thanh
niên từ 18 đến 25 (giai đoạn thứ nhất của tuổi thanh niên từ 15 đến 18
tuổi).

×