Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Các biện pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá cho học sinh các trường trung học phổ thông thành phố Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 105 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM



TRẦN THỊ LAN DUNG


CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH SẢN
VỊ THÀNH NIÊN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS- TS. NGUYỄN VÕ KỲ ANH


HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU Ì
1. Lý do chọn đề tài Ì
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2


4. Giả thuyết khoa học 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3
8. Phương pháp nghiên cứu 4
9. Cấu trúc luận văn 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH
SẢN VỊ THÀNH NIÊN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓATRONG
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 5
LI, Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu 5
1.1,1. Khái niệm về quản lý 5
Ì .1.2. Các chức năng cơ bản của quản lý 6
1.1.3. Khái niệm "Sức khoe sinh sản vị thành niên", "Hoạt động giáo dục sức
khoe sinh sản vị thành niên" 10
Ì .2. Quản lý hoạt động giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên 11
1.2.1. Quan điểm về quản lý giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên 11
1.2.2. Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên
thông qua hoạt động ngoại khoa 17
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH SẢN
VỊ THÀNH NIÊN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOA CỦA CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH 31
2.1. Khái quát tình hình kinh tế xã hội và giáo dục phổ thông ở Nam Định
ảnh hưởng tới hoạt động giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên 31
2.2. Khái quát về đối tượng, nội dung và địa bàn khảo sát 32
2.3. Thực trạng của việc quản lý giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên
thông qua hoạt động ngoại khoa trong các trường Trung học phổ thông
thành phố Nam Định 33

2.3.1. Công tác tổ chức giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên trong các
trường THPT thành phố Nam Định 33

2.3.2. Vấn đề quản lý giáo dục sức khoe sinh sản vị thành niên thông qua hoạt
động ngoại khoa trong các trường trung học phổ thông thành phố Nam
Định 46
2.33. Những tồn tại và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên 54
Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH
SẢN VỊ THÀNH NIÊN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA
TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH 58

3. 1. Cơ sở lý luận đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản
vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoa 58
3.1.1. Cơ sở lý luận 58
3.1 .2. Cơ sở thực tiễn 61
3.2. Hệ thống các biện pháp quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên
thông qua hoạt động ngoại khoa trong trường Trung học phổ thông
thành phố Nam Định 61
Biện pháp 1: Giáo dục nâng cao nhận thức và bồi dưỡng động cơ tham gia 61
Biện pháp 2: Quản lý xây dựng và triển khai kế hoạch hoạt động 63
Biện pháp 3: Quản lý nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành 66
Biện pháp 4: Quản lý thành phần tham gia giáo dục 68
Biện pháp 5: Quản lý quá trình tổ chức giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên 70
Biện pháp 6: Quản lý các điều kiện tổ chức 71
Biện pháp 7. Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá 74
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp 76
3.4. Thẩm định tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp 78

KẾT LUẬN VÀ KHUYÊN NGHỊ 81

1, Kết luận 81
2. Khuyến nghị 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85

PHỤ LỤC
1.2.3.


KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1. BCH
Ban chấp hành
2. BGH
Ban Giám Hiệu
3. BPTT
Biện pháp tránh thai
4. Bộ GD và ĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
5. CLB
Câu lạc bộ
6. CSVC
Cơ sở vật chất
7. DS
Dân số
8. GD SKSS VTN
Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên
9. GVCN
Giáo viên chủ nhiệm
10. HIV/AIDS
Accquired Immuno dificiency Syndrom
(Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
11. KHHGĐ
Kế hoạch hóa gia đình
12. LQĐTD

Lây qua đường tình dục
13. NT
Nhà trường
14. QHTD
Quan hệ tình dục
15. SK
Sức khoẻ
16. SKBMTE
Sức khoẻ bà mẹ trẻ em
17. SKSS
Sức khoẻ sinh sản
18. SKTD
Sức khoẻ tình dục
19. SKSS VTN
Sức khoẻ sinh sản vị thành niên
20. SK VTN
Sức khoẻ vị thành niên
21. THPT
Trung học phổ thông
22. THCS
Trung học cơ sở
23. TN
Thanh niên
24. TNXH
Tệ nạn xã hội
25. VTN
Vị thành niên




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác dân số, coi đó là một
bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn
đề kinh tế - xã hội hàng đầu của quốc gia, một yếu tố cơ bản để nâng cao chất
lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định "Tiếp tục kiềm chế
tốc độ tăng dân số, phấn đấu đạt chỉ tiêu về chất lượng dân số trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Chú trọng nâng cao chất lượng
dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng” [9] Nghị quyết số 47-
NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể
chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [1]. Giáo dục nói chung và giáo dục
trong nhà trường nói riêng là phương thức cơ bản và then chốt nhất để hình
thành phát triển những con người có sự hài hoà, có trí tuệ vững vàng, có tâm
hồn trong sáng, có thể chất cường tráng. Điều này khẳng định: “Giáo dục có
tác động quyết định đến chất lượng nguồn dân số”. Sự hoạt động hữu hiệu
của mỗi nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân với việc quán triệt các
môn văn hoá chung, đặc biệt là phân môn: giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành
niên góp sức có hiệu quả vào việc kế hoạch hoá quy mô dân số, giữ được cơ
cấu hài hoà, thực hiện sự phân bố hợp lý trong phạm vi cộng đồng và đất
nước. Vì vậy phải có những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục sức khoẻ
sinh sản vị thành niên để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Ở nhiều nước trên thế giới, nội dung giáo dục dân số, giới tính được đưa
vào nhà trường còn ít, thiếu đồng bộ, ít đề cập đến các khía cạnh xã hội và
hành vi liên quan đến các mối quan hệ khác giới, hôn nhân và sự tránh thai,


2

các kỹ năng sống như ra quyết định, giải quyết vấn đề, xác định các giá trị, sự
thuyết phục trong quan hệ tình dục, trong hôn nhân
Ở Việt Nam nói chung và Tỉnh Nam Định nói riêng hiện nay cũng đang
phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản như vấn đề có
thai ngoài ý muốn, tình trạng nạo phá thai cao ở lứa tuổi vị thành niên, tệ nạn
mại dâm Theo Bộ y tế, tình trạng nạo hút thai ở lứa tuổi vị thành niên đang
gia tăng.
Các kết quả điều tra gần đây cho thấy đối tượng vị thành niên còn thiếu
kiến thức hiểu biết về sức khoẻ sinh sản, mặc dù đa số vị thành niên là học
sinh đang theo học ở các nhà trường từ THCS đến THPT. Nguyên nhân của
tình trạng trên là do các hoạt động giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
trong nhà trường phổ thông nói chung còn ít, lẻ tẻ, mới chỉ lồng ghép, tích hợp
trong các môn Sinh học, Giáo dục công dân, Địa lý, Ngữ văn. Việc giáo dục
sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp mang tính bột phát, cục bộ chưa có kế hoạch chi tiết. Hiệu quả của các
hoạt động trên đều chưa được kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Công tác
quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên trong các trường còn chậm
đổi mới, kém hiệu quả.
Từ cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Các biện
pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động
ngoại khoá cho học sinh các trường THPT thành phố Nam Định” làm luận
văn tốt nghiệp cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
thông qua hoạt động ngoại khoá trong các trường THPT thành phố Nam Định.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu


3
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành

niên trong nhà trường THPT ở địa bàn thành phố Nam Định.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục sức
khoẻ sinh sản vị thành niên trong trường THPT ở thành phố Nam Định.
4. Giả thuyết khoa học
Các biện pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông
qua hoạt động ngoại khoá phù hợp với thực tiễn sẽ là cơ sở để các trường
trung học phổ thông ở địa bàn thành phố Nam Định áp dụng góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục sức khoẻ sinh sản cho học sinh và nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện của ngành giáo dục thành phố Nam Định.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý và nghiên cứu nội dung của quản
lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá
trong các trường THPT.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục sức khoẻ sinh
sản vị thành niên trong các trường THPT ở thành phố Nam Định.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
thông qua hoạt động ngoại khoá cho học sinh phổ thông thành phố Nam Định.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đề tài đưa ra các biện pháp khoa học quản lý giáo dục sức khoẻ sinh
sản vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá để đáp ứng mục tiêu của
giáo dục là “Giáo dục toàn diện con người” và góp phần nâng cao chất lượng
dân số Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua cơ sở lý luận khoa học và tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, đánh giá được những mặt mạnh và yếu trong hoạt động giáo
dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên và quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị


4
thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá trong trường phổ thông thời gian
qua để tiếp tục cải tiến sự quản lý, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục

ở bậc học THPT. Tiến hành áp dụng, so sánh, đối chiếu tại một số trường
THPT của Nam Định.

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý giáo dục sức khoẻ
sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá, thực trạng quản lý giáo
dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá và xây
dựng biện pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên thông qua
hoạt động ngoại khoá cho học sinh các trường trung học phổ thông thành phố
Nam Định.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài, kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống những
vấn đề lý luận có liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài qua tham
khảo: Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, sách báo, tài liệu khoa học trong nước và nước ngoài có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng mẫu phiếu điều tra với học
sinh, giáo viên, cán bộ quản lý để nắm được thực trạng hoạt động giáo dục sức
khoẻ sinh sản vị thành niên, và công tác quản lý hoạt động.
+ Thống kê, phân tích tổng hợp, xử lý số liệu sau điều tra.
+ Các phương pháp hỗ trợ: Trao đổi kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên
gia, phỏng vấn học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý, phụ huynh học sinh.
9. Cấu trúc luận văn


5
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và khuyến nghị, nội dung luận
văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành

niên thông qua hoạt động ngoại khoá trong các trường THPT.
Chương 2: Thực trạng quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành
niên thông qua hoạt động ngoại khoá của các trường THPT thành phố Nam
Định.
Chương 3: Các biện pháp quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành
niên thông qua hoạt động ngoại khoá trong các trường THPT thành phố Nam
Định.


6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỨC KHOẺ SINH
SẢN VỊ THÀNH NIÊN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ
TRONG CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm về quản lý
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, chính
sự phân công hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao
hơn.
Nói đến hoạt động quản lý, K.Marx đã viết: “Tất cả mọi lao động xã hội
trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít
nhiều cũng cần có một sự chỉ đạo, điều hoà những hoạt động cá nhân nhằm
thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ
sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” [30, tr.
480].
Có nhiều phương diện khác nhau trong khi xem xét khái niệm quản lý,
tuy nhiên tôi cho rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ
đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [20, tr.15].

- Trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” Harold Koontz lại
nhấn mạnh “Môi trường và hiệu quả kinh tế - xã hội” phải là mục tiêu của hoạt
động quản lý, ông cho rằng: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ
chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó
con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [29, tr.33].


7
Ở nước ta, khoa học quản lý còn khá mới mẻ, chỉ mới phát triển mạnh
trong vài mươi năm gần đây. Tuy nhiên đến nay, khoa học quản lý nói chung,
khoa học quản lý giáo dục nói riêng đã khẳng định vai trò và hiệu quả kinh tế -
xã hội của nó. Về khái niệm quản lý, cũng đã có không ít tác giả đề cập đến,
chỉ xin dẫn một số ý kiến tiêu biểu, có nhấn mạnh đến khách thể quản lý:
Trong cuốn “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục” cố giáo sư
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là sự tác động của chủ thể những
người quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản lý) nhằm
thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [27, tr.32].
Hai tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc nhấn mạnh quản
lý là chức năng đặc biệt của mọi tổ chức: “Hoạt động quản lý là tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể
quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành
và đạt được mục đích của tổ chức” [21, tr.1].
Như vậy, tuy có nhiều cách diễn đạt khác nhau về quản lý nhưng các tác
giả đều thống nhất quan điểm về hoạt động quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động chuyên biệt, có hƣớng đích của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt
ra của một tổ chức/một hệ thống với hiệu quả cao nhất.
1.1.2. Các chức năng cơ bản của quản lý

Hoạt động quản lý có những chức năng đặc biệt, Henri Fayol là người
đầu tiên đã phân biệt được các chức năng của quản lý. Xuất phát từ các loại
hình “Hoạt động quản lý”, ông đã phân biệt chúng thành năm chức năng cơ
bản: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra mà sau này chúng
được kết hợp thành bốn chức năng cơ bản là: Kế hoạch hoá (Planning), tổ
chức (Organizing), lãnh đạo - chỉ đạo (Leading) và kiểm tra (Controlling).
Bốn chức năng cơ bản của quản lý đã được lý luận khái quát hoá gồm:
* Kế hoạch hoá:
Kế hoạch hoá trong hoạt động quản lý có nghĩa là xác định mục tiêu,
mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và xác định rõ các con
đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó.


8
* Tổ chức:
Xét về mặt chức năng quản lý, tổ chức là quá trình hình thành nên cấu
trúc các quan hệ giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực
hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ
việc tổ chức có hiệu quả người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các
nguồn vật lực và nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực của người quản lý sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và
có kết quả.
* Lãnh đạo (chỉ đạo):
Là quá trình tác động của chủ thể quản lý, sau khi kế hoạch đã được thiết
lập, cơ cấu bộ máy được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng. Chỉ đạo là
quá trình liên kết, tập hợp giữa các thành viên trong tổ chức, động viên họ
hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
* Kiểm tra:
Kiểm tra không chỉ là khâu thu thập thông tin phản hồi (feedback) trong
một hoạt động mà còn chính là một chức năng của quản lý, thông qua đó một

cá nhân, một nhóm hoặc tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và
tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Mọi kết quả hoạt
động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến
hành điều chỉnh, uốn nắn.
Bốn chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, luôn đan xen,
phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành một chu trình của quản lý.
Sơ đồ 1: Các chức năng quản lý

KẾ HOẠCH
THÔNG TIN
KIỂM TRA
CHỈ ĐẠO
TỔ CHỨC


9
Để vận dụng khái niệm quản lý và các chức năng của quản lý vào trong
công tác quản lý cơ sở đào tạo của trường THPT, chúng ta còn cần khảo sát
các khái niệm cụ thể hơn là quản lý giáo dục và quản lý nhà trường.

* Quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục với tư cách là một bộ phận của quản lý xã hội đã xuất
hiện và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước đã đưa ra một số định nghĩa về quản lý giáo dục như sau:
Theo tác giả M.I. Kônđacốp thì: “Quản lý giáo dục là tập hợp các biện
pháp tổ chức cán bộ giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính nhằm đảm bảo sự vận
hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát
triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [31, tr.
22].
Ở Việt Nam, theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là

hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp với quy luật của chủ
thể quản lý, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục
của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt
Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo
dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [27, tr.12].
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Việc quản lý nhà trường phổ thông
(có thể mở rộng ra là việc quản lý giáo dục nói chung) là quản lý hoạt động
dạy - học, tức là làm sao đưa hoạt động từ trạng thái này sang trạng thái khác
để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [23, tr.71].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì quản lý giáo dục không chỉ ở hoạt động
dạy - học mà còn rộng hơn nhiều: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội” [18, tr.31].


10
Từ các ý kiến trên, chúng tôi có thể khái quát được nội hàm cơ bản của
quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là một hoạt động chuyên biệt của chủ thể quản lý,
bao gồm một tập hợp các tác động có chủ đích thực hiện tốt các chức
năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra nhằm đảm bảo sự vận
hành tối ƣu của một hệ thống/tổ chức/cơ quan giáo dục - đào tạo, nhờ đó
mà đạt đƣợc các mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo với chất lƣợng,
hiệu quả cao hơn.
Quản lý giáo dục gồm nhiều cấp độ: Quản lý hệ thống giáo dục quốc
dân, quản lý nhà trường, quản lý các hoạt động chuyên biệt.
Quản lý giáo dục không chỉ quản lý hoạt động dạy - học (hoạt động cơ
bản của giáo dục, nhà trường) mà còn quản lý lực lượng xã hội khác, các yếu
tố, điều kiện khác nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục - dạy học.
* Quản lý nhà trường:

Luật Giáo dục 2005 đã chỉ rõ: “Nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch
của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện để
trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân” [11,
chương 3].
Nhà trường là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính Nhà nước - xã hội, trực
tiếp làm công tác giáo dục từ Trung ương đến địa phương. Vì vậy, nhà trường
nói chung vừa là khách thể cơ bản của tất cả các cấp quản lý, vừa là một hệ
thống độc lập tự quản của xã hội. Do đó, quản lý nhà trường nhất thiết phải
vừa có tính chất Nhà nước, vừa có tính chất xã hội.
Hoạt động đặc trưng của trường học là hoạt động dạy học. Đó là hoạt
động có tổ chức, có nội dung, có phương pháp, có mục đích, có sự lãnh đạo
của nhà giáo dục đồng thời có sự hoạt động tích cực, tự giác của người học
trong tất cả các loại hình hoạt động học tập.


11
Trong nhà trường, lực lượng quyết định là người dạy, nhân tố trung tâm
nhất là người học. Do vậy để làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình, mọi hoạt
động trong nhà trường đều phải xoay quanh đối tượng là người học. Hướng
trung tâm vào hoạt động người học là quan điểm giáo dục hiện đại. Hoạt động
của người học - nhất là người học với tư cách là học sinh THPT không chỉ
hoạt động học tập mà còn bao gồm các hoạt động khác như hoạt động giao
tiếp, hoạt động sinh hoạt tập thể, hoạt động văn hoá thể thao
Để thấy đầy đủ nội dung của quản lý nhà trường, xin dẫn ra quan điểm
tiêu biểu về quản lý nhà trường của M.I. Kônđacốp: “Không đòi hỏi một định
nghĩa hoàn chỉnh chúng ta hiểu quản lý nhà trường là một hệ thống xã hội -
sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế
hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà
trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội - kinh tế, tổ chức

- sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ trẻ đang lớn lên”. [31,
tr.216].
Xét một cách chung nhất, quản lý nhà trƣờng chính là tác động có
định hƣớng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực
nhằm đẩy mạnh hoạt động của nhà trƣờng theo nguyên lý giáo dục và
phù hợp với yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
Theo đó, công tác quản lý GD SKSS VTN chính là một tác nhân quan
trọng của quản lý nhà trường và học sinh chính là một trong các “nguồn lực”
của một cơ sở giáo dục THPT.
Qua nội hàm của các khái niệm, trong các trường THPT, một trong
những nội dung quan trọng trong quản lý nhà trường là quản lý GD SKSS
VTN. Đây là một trong những điều kiện quan trọng như là một nguồn lực đảm
bảo chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
1.1.3. Khái niệm “Sức khoẻ sinh sản vị thành niên”, “Hoạt động giáo dục
sức khoẻ sinh sản vị thành niên”


12
“Sức khoẻ là tình trạng phát triển hài hoà của mỗi người về thể lực, trí
tuệ và khả năng hoà nhập cộng đồng, chứ không phải chỉ là không có bệnh
tật, ốm đau hoặc không tàn phế” [24, tr.17].
“Sức khoẻ sinh sản là trạng thái hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã
hội trong mọi khía cạnh liên quan đến hệ thống, chức năng và quá trình sinh
sản, chứ không đơn thuần chỉ là không đau ốm hoặc không bị tàn tật” [7,
tr.256].
Theo tài liệu “Sức khoẻ VTN ở Việt Nam” - Chủ biên: TS Hoàng Thị
Hiệp, TS Trịnh Hữu Vách “Vị thành niên là một nhóm xã hội tập hợp những
người nằm giữa khoảng tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành (10

19 tuổi), đang

phát triển nhanh về thể chất và hoàn thiện bộ máy sinh sản để thực hiện các
chức năng sinh sản. Đây cũng là thời kỳ mỗi thành viên của nhóm định hình
nhân cách thông qua quá trình, xã hội hoá trong gia đình, ở nhà trường và xã
hội, vươn lên làm chủ bản thân” [24, tr.18].
Tài liệu “GD SKSS VTN” của Bộ GD và ĐT có viết: “Giáo dục sức khoẻ
sinh sản VTN là một loại hình giáo dục tập trung vào bản năng sinh dục của
VTN và con người nói chung”.
Như vậy GD SKSS VTN được hiểu là quá trình mà trong đó người học
được cung cấp những tri thức về SKSS như: “ Sự phát triển cơ thể, sự phát
triển tâm lý, quan hệ tình dục an toàn Và trên cơ sở đó, người học sẽ được
hình thành và phát triển thái độ, các hành vi đúng đắn về đạo đức, lối sống có
liên quan đến đời sống sinh sản, tự giác và chủ động quan hệ lành mạnh và an
toàn trong quan hệ nam nữ.
Mặt khác hoạt động GD SKSS VTN nhằm cung cấp thông tin và kiến
thức cần thiết cho những người làm việc và giao tiếp thường xuyên với VTN
để giúp họ nâng cao kiến thức, hiểu biết và kỹ năng về các chủ đề SKSS và sức
khoẻ tình dục đặc biệt phù hợp với lớp trẻ” [19, tr.14].


13
1.2. Quản lý hoạt động giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
1.2.1. Quan điểm về quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
Tuổi vị thành niên được hiểu là giai đoạn từ 10 đến 19 tuổi. Như vậy học
sinh trong nhà trường THPT có độ tuổi VTN từ 15 đến 19 tuổi. Tuổi dậy thì là
giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên. Đây là thời gian xảy ra những biến đổi
lớn của cơ thể. Rất nhiều những thay đổi khác, như những phát triển về tinh
thần, tình cảm và khả năng hoà nhập cộng đồng cũng diễn ra trong giai đoạn
này. Tuổi dậy thì đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đời một con
người. Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em thành một người lớn thể
hiện ở sự phát triển của các cơ quan sinh dục và cơ thể chuẩn bị sẵn sàng cho

hoạt động sinh sản. Tuổi dậy thì có thể sớm hay muộn ở nam và nữ là phụ thuộc
vào nơi sống, mức sống, dinh dưỡng, thể trạng sức khoẻ, điều kiện địa lý v.v
Giai đoạn dậy thì được đánh dấu bằng “hành kinh lần đầu” ở em gái và
“xuất tinh lần đầu” ở em trai. Điều này thường đi cùng với những thay đổi cảm
xúc đối với bạn bè khác giới và được coi là những hiện tượng sinh lý bình
thường, thể hiện sự trưởng thành về mặt sinh dục và báo hiệu khả năng có con:
buồng trứng của em gái bắt đầu có trứng rụng và tiết hoóc-môn sinh dục nữ;
tinh hoàn của em trai bắt đầu sinh sản tinh trùng và tiết hoóc-môn sinh dục nam.
Những biến đổi về thể chất: Có thể nhận thấy những biến đổi sau đây ở
tuổi dậy thì, giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên.
+ Ở em gái:
Bước vào tuổi dậy thì (11-13 tuổi), cơ thể bắt đầu phát triển nhanh hơn
mức bình thường.
Ngoài thay đổi về chiều cao, vú bắt đầu phát triển, mọc lông ở bộ phận
sinh dục và thường xuất hiện trứng cá.
Giai đoạn dậy thì chính thức được đánh dấu bằng hành kinh lần đầu, báo
hiệu trứng bắt đầu rụng và có khả năng sinh con. Giai đoạn này diễn ra những


14
biến đổi quan trọng cho việc chuẩn bị làm mẹ sau này: tử cung lớn và dày hơn,
tuyến vú phát triển, xương hông rộng ra. Cơ thể của em gái đang phát triển
thành cơ thể một người phụ nữ.
+ Ở em trai:
Đặc điểm rõ rệt nhất khi các em trai bước vào tuổi dậy thì là sự phát
triển mạnh mẽ về chiều cao, đặc biệt trong giai đoạn từ 14 - 16 tuổi. Đến tuổi
17- 18, hầu hết các em đã đạt chiều cao tối đa. Cùng với sự phát triển về chiều
cao, dần dần xuất hiện lông mu, ria mép và nổi trứng cá. Đồng thời, dương vật
và tinh hoàn cũng bắt đầu phát triển và các cơ bắp ở ngực, vai và đùi. Em trai
bắt đầu có hình dáng đặc trưng của nam giới.

- Những biến đổi về tâm lý, tình cảm:
Cùng với những biến đổi về thể chất diễn ra ở tuổi dậy thì, đời sống tinh
thần và tình cảm của tuổi vị thành niên cũng trải qua những biến đổi sâu sắc.
Các em có cảm giác mình không còn là trẻ con nữa và muốn được đối xử như
người lớn, muốn thoát ra khỏi “ràng buộc” của cha mẹ và gia đình. Ở giai đoạn
này, thường xảy ra những xung đột giữa vị thành niên và cha mẹ vì họ vẫn coi
các em là trẻ con.
Các em muốn được độc lập trong suy nghĩ và hành động, muốn thử sức
mình và khám phá những cái mới để khẳng định mình là người lớn. Các em
thích giao tiếp với bạn bè cùng trang lứa, và dễ dàng bộc bạch tâm sự với bạn
bè. Đây là những đặc điểm mà người lớn cần biết để hiểu rõ những nhu cầu,
những mối quan tâm, những vướng mắc và những khát khao trong các em, để
có thể cho những lời khuyên và phương hướng giải quyết.
Cũng chính trong giai đoạn này, vị thành niên bắt đầu quan tâm rất nhiều
đến bạn khác giới và xuất hiện những cảm xúc giới tính mới lạ. Điều này
khiến các em rất có ý thức về cơ thể, giới của mình và có những rung cảm khi
nghĩ tới một người bạn khác giới. Có lúc những rung cảm này trở nên quá


15
mãnh liệt và khi lý trí chưa đủ giúp các em làm chủ được những cảm xúc mới
mẻ này, các em có thể có những hành vi sai trái trong quan hệ với bạn khác
giới.
Môi trường gần gũi chung quanh như gia đình, trường học và xã hội,
đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo nhân cách của tuổi vị thành niên.
Một mặt cha mẹ, gia đình và nhà trường cần hiểu và cảm thông với tuổi mới
lớn; nhưng mặt khác cần có những chỉ bảo và hỗ trợ khuyến khích các em phát
triển đúng hướng, tránh những hậu quả đáng tiếc trong các mối quan hệ ở lứa
tuổi này.
- Vị thành niên ở Việt Nam:

Ở Việt Nam, vị thành niên chiếm khoảng 23% dân số (số liệu điều tra
dân số năm 1999). Vì đây là một bộ phận lớn dân cư, nên bất kỳ một thay đổi
nào về cách giáo dục, hành vi, tuổi kết hôn và lối sống của vị thành niên đều
có ảnh hưởng quan trọng tới xã hội.
Mặc dù giai đoạn vị thành niên có tầm quan trọng, nhưng ít người có
hiểu biết về sức khoẻ sinh sản và thái độ hành vi liên quan đến sức khoẻ cũng
nhưng nhu cầu hỗ trợ xã hội của vị thành niên ở Việt Nam. Nói chung tuổi vị
thành niên là một thời kỳ phức tạp và ngay cả bản thân vị thành niên cũng như
người lớn đều không hiểu thật rõ ràng. Điều này đặc biệt đúng trong những
vấn đề có liên quan đến tình dục và sức khoẻ sinh sản.
Ở Việt Nam cũng như ở hầu hết các nước trong khu vực, trình độ văn
hoá được nâng cao và những thay đổi lớn về giá trị văn hoá - kết quả của sự
thay đổi nhanh chóng về kinh tế xã hội, toàn cầu hoá, đô thị hoá, sự tiếp xúc
và sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin - quy mô gia đình giảm có nhiều
ảnh hưởng tới hành vi tình dục và sức khoẻ sinh sản ở tuổi vị thành niên.
Theo một báo cáo của Liên hiệp quốc, quan hệ tình dục trước hôn nhân
đối với người phụ nữ là hành vi không được chấp nhận ở hầu hết các nước


16
trong khu vực, còn đối với nam giới, kể cả những người “đang trở thành đàn
ông”, vấn đề này thường được bỏ qua. Nhiều nghiên cứu cho thấy không ít vị
thành niên Việt Nam đã có quan hệ tình dục, mà phần lớn là quan hệ tình dục
không an toàn trước hôn nhân. Hậu quả là, nguy cơ mang thai ngoài ý muốn
và mắc các bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS tăng
lên nhanh chóng ở thanh thiếu niên.
Bất kể việc có thai xảy ra trong hay ngoài hôn nhân, thì mang thai sớm
cũng có những rủi ro sức khoẻ nghiêm trọng, đặc biệt là đối với vị thành niên
sống trong những điều kiện thiếu thốn, ít có khả năng sử dụng các dịch vụ y
tế. Hơn nữa, phần lớn những trường hợp có thai ngoài ý muốn đều chọn giải

pháp nạo phá thai (thường là trong điều kiện không an toàn với nguy cơ cao)
gây biến chứng lâu dài, nghiêm trọng và thậm chí, có thể dẫn tới cái chết.
Vị thành niên thường dễ mắc các bệnh lây truyền, kể cả HIV/AIDS qua
quan hệ tình dục, do thiếu hiểu biết về các biện pháp phòng tránh, do bị viêm
nhiễm và hậu quả của chúng, hơn nữa họ ít có khả năng tiếp cận các cơ sở y tế
chữa trị.
Mặc dù vị thành niên thuộc cả hai giới đều đối mặt với những nguy cơ
đó, nhưng ở nữ, những nguy cơ này đặc biệt lớn. Về cả thể chất lẫn tinh thần,
các em gái phải chịu đựng những hậu quả bất lợi về sức khoẻ sinh sản do bị
lạm dụng tình dục và những quan hệ tình dục không an toàn, cũng như thiếu
khả năng tiếp cận những dịch vụ sức khoẻ sinh sản, kể cả khả năng tiếp cận
thông tin và nguồn cung cấp các phương tiện tránh thai.
Các hậu quả do thiếu những hiểu biết cần thiết không chỉ ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với bản thân vị thành niên, mà còn gián tiếp ảnh hưởng tới
nguồn lực xã hội, sự phát triển kinh tế - xã hội và cả tương lai của đất nước.
Vị thành niên cần những thông tin gì?
Cần cung cấp thông tin và giáo dục về sức khoẻ sinh sản để giúp thanh
thiếu niên tự khám phá những tính cách, các tiêu chuẩn và những chọn lựa của


17
riêng mình, đồng thời cũng nâng cao kiến thức và hiểu biết của các em về các
vấn đề sức khoẻ sinh sản. Ở hầu hết các nước, vị thành niên hiếm khi trao đổi
với cha mẹ mình hoặc những người lớn tuổi hơn về các chủ đề tình dục (ví dụ
như giao hợp, tình dục, những sở thích tình dục, hiện tượng có kinh và “mộng
tinh” ). Hầu hết thông tin về những chủ đề này thường từ bạn bè đồng lứa là
người cũng ít kinh nghiệm và không hiểu biết hoặc hiểu sai như họ, hoặc từ
các phương tiện truyền thông không chính thức với xu hướng đại diện cho
những hình mẫu rập khuôn hay quá khích về tình dục và giới tính.
Thanh thiếu niên thường không biết cơ thể họ thực hiện chức năng sinh

dục và sinh sản như thế nào. Họ mong muốn có cơ hội trao đổi những vấn đề
này với một người lớn tuổi hiểu biết vấn đề và sẽ không chỉ trích họ. Thanh
niên chưa có gia đình thường không biết, hoặc không tiếp cận được những
dịch vụ kế hoạch hoá gia đình và như vậy, có nguy cơ mang thai ngoài ý
muốn, hoặc bị mắc bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục, kể cả HIV/AIDS.
Cung cấp cho vị thành niên các thông tin về tình dục và sức khoẻ sinh sản là một
vấn đề tế nhị.
Người lớn thường không muốn nói chuyện tình dục và rất không muốn
đối diện với một thực tế là vị thành niên có thể đã có quan hệ tình dục. Quan
điểm của nhiều người là không được quan hệ tình dục trước hôn nhân, cho dù
điều này mâu thuẫn với những thực tế đang xảy ra ở vị thành niên.
Rất nhiều thanh thiếu niên không được giáo dục về sức khoẻ sinh sản,
hoặc có thể do đây không phải là một nội dung trong chương trình học ở nhà
trường, hoặc là do họ phải nghỉ học sớm. Kinh nghiệm về giáo dục vị thành
niên cho thấy, bên cạnh những chương trình học thông thường ở nhà trường,
các em còn cần được cung cấp những kỹ năng sống để trở nên vững vàng hơn.
Các em cần có những thông tin rõ ràng và dễ hiểu về giới, giới tính, tình bạn,
tình yêu, sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình, những vấn đề về giới và
bình đẳng giới, những bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục, HIV/AIDS.


18
Các em cần những kỹ năng sống để biết cách xử trí đúng trước áp lực từ
xã hội và bạn bè, trước những mâu thuẫn trong tư tưởng, học cách quyết đoán
và tự bảo vệ mình trong vấn đề sinh sản. Các em cần được giúp đỡ trong việc
phát triển các kỹ năng để có được hành vi có trách nhiệm, bình đẳng giới, khả
năng suy đoán, phân tích, lập kế hoạch, ra quyết định và học cách giao tiếp và
chia sẻ với người khác. Vị thành niên có thể học được những kỹ năng này
trong và ngoài trường học, cũng như ở nơi làm việc thông qua thầy cô giáo,
cha mẹ, bạn bè, cộng đồng và phương tiện truyền thông.

Các quan điểm quản lý GD SKSS VTN là:
- Quản lý GD SKSS VTN phải bám sát vào chiến lược quốc gia
+ Đầu tư cho sức khoẻ nói chung và SKSS VTN là đầu tư cho phát triển.
+ Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc SKSS VTN nhằm giảm các
hậu quả về sinh học và xã hội ở VTN làm ảnh hưởng đến sự phát triển của
giống nòi.
+ Lấy tuyên truyền, giáo dục làm chính, nhằm nâng cao nhận thức của
VTN và cộng đồng, trên cơ sở này làm thay đổi thái độ và hành vi của họ
trong việc bảo vệ, chăm sóc SKSS VTN.
+ Bảo vệ, chăm sóc SKSS VTN là sự nghiệp chung của toàn xã hội, là
trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, của các cấp uỷ Đảng,
Chính quyền cũng như của các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và nghề
nghiệp.
+ Dự phòng tích cực và chủ động trong mọi khâu của công tác bảo vệ,
chăm sóc SKSS VTN.
- Quản lý GD SKSS VTN để thiết thực phục vụ cho ngành và địa phương
- Quản lý GD SKSS VTN phải đảm bảo tính hệ thống, mục đích và tính kế hoạch.
1.2.2. Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên
thông qua hoạt động ngoại khoá


19
- Theo từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, 2004) thì: Hoạt động ngoại
khoá là môn học hoặc hoạt động giáo dục ngoài chương trình chính thức trong
nhà trường. Như vậy, hoạt động ngoại khoá là những hoạt động giáo dục
không thuộc chương trình chính thức mà nhà trường đang thực hiện.
- Hoạt động ngoại khoá do đó khác với hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp ở chỗ:
+ Không được xây dựng thành một chương trình cụ thể như hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp mà hiện nay nhà trường đang thực hiện theo kế

hoạch đào tạo mới.
+ Không có quỹ thời gian xác định trong thời khoá biểu của nhà trường.
1.2.2.1. Mục tiêu quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên thông qua
hoạt động ngoại khoá
- Mục tiêu chung:
“Đảm bảo đến năm 2010 tình trạng SKSS VTN được cải thiện rõ rệt và
giảm được sự chênh lệch giữa các vùng, các đối tượng bằng các giải pháp
đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đa dạng về chăm sóc SKSS phù hợp với điều
kiện của các cộng đồng ở từng địa phương, dặc biệt chú ý đến các vùng và đối
tượng khó khăn” [1]
- Các mục tiêu cụ thể:
Mục tiêu 1: Tạo sự chuyển biến căn bản về nhận thức cũng như sự ủng hộ
và cam kết thực hiện các mục tiêu, giải pháp bảo vệ, chăm sóc SKVTN trong
mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là cán bộ lãnh đạo các cấp, ngành, đoàn thể,
tổ chức xã hội và nghề nghiệp.
Mục tiêu 2: Cải thiện tình hình SKSS, SKTD của VTN thông qua hoạt
động truyền thông, giáo dục và các dịch vụ chăm sóc SKSS phù hợp.
Mục tiêu 3: Ngăn chặn và hạn chế VTN học sinh mắc các tệ nạn xã hội,
không để ma tuý và các tệ nạn xã hội khác xâm nhập trường học.
Mục tiêu 4: Dự phòng có hiệu quả để làm giảm số VTN mắc các bệnh
LQĐTD và nhiễm HIV/AIDS.


20
Mục tiêu 5: Nâng cao SKSS VTN, giảm tỷ lệ mắc bệnh học đường, các
bệnh mãn tính, đồng thời quan tâm đến VTN có hoàn cảnh khó khăn.
Mục tiêu 6: Dự phòng có hiệu quả nhằm ngăn chặn và giảm tới mức tối
đa các tai nạn, chấn thương ở VTN.
Mục tiêu 7: Cải thiện tình hình sức khoẻ tâm thần, giúp VTN có lối sống
lành mạnh; ngăn chặn và hạn chế các rối loạn hành vi như trầm cảm, tự sát,

chống đối, trốn học, bỏ nhà, càn quấy, hung bạo, phá quy tắc xã hội
Mục tiêu 8: Phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi bóc lột lao
động, lạm dụng tình dục và bóc lột tình dục VTN.
Mục tiêu 9: Cải thiện tình trạng SKSS VTN có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, đảm bảo cho các em được hưởng sự bình đẳng về chăm sóc sức khoẻ.
Mục tiêu 10: Phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi bạo lực gia đình
và buôn bán trẻ VTN.
1.2.2.2. Nguyên tắc quản lý GD SKSS vị thành niên thông qua hoạt động ngoại khoá
Quản lý các tổ chức( kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục) thực chất là
quản lý con người hoạt động trong tổ chức đó- đối tượng đích của quản lý.
Khi tiến hành quản lý, các nhà quản lý đều phải đưa ra những nguyên tắc
cơ bản sau:
- Đảm bảo tính pháp lý: Đây là nguyên tắc quản lý được xây dựng trên
những quy định, luật pháp và các chế tài của pháp luật. Chẳng hạn như các
văn bản dưới luật, các chế tài có liên quan đến giáo dục, các chỉ thị, nghị định
của Chính phủ, của Bộ GD và ĐT về giáo dục, các văn bản chỉ đạo thực hiện
chương trình. Đây là hành lang pháp lý để các nhà quản lý thực hiện chức
năng quản lý, đảm bảo tính hiệu lực của cơ chế quản lý nhà nước, dựa trên các
chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước, các văn bản chỉ đạo của
ngành để thực hiện vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình quản lý.
- Đảm bảo tính tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc quan trọng tạo
khả năng quản lý một cách khoa học, có sự kết hợp chặt chẽ quyền lực của

×