Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Đổi mới quản lý hoạt động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh Trung học cơ sở Huyện An Lão - Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 117 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






VŨ TRỌNG DŨNG






ĐỔI MỚI QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN AN LÃO – HẢI PHÒNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC











HÀ NỘI – 2011



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






VŨ TRỌNG DŨNG






ĐỔI MỚI QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN AN LÃO – HẢI PHÒNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Thị Tuyết Oanh





HÀ NỘI – 2011



5
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2

4. Giả thuyết khoa học của đề tài
2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
2
6. Phạm vi nghiên cứu
3
7. Phương pháp nghiên cứu
3
8. Cấu trúc luận văn
3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ


4
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
4
1.2. Các khái niệm của đề tài
6
1.2.1. Quản lý
6
1.2.2. Quản lý giáo dục
9
1.2.3. Kiểm tra
10
1.2.4. Đánh giá
11
1.2.5. Kết quả học tập của học sinh
12

1.2.6. Kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh
12
1.2.7. Đổi mới
14
1.3. Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS
14
1.3.1. Vị trí, chức năng, vai trò và nguyên tắc của kiểm tra - đánh giá
14
1.3.2. Các hình thức, phương pháp và quy trình kiểm tra – đánh giá
18
1.3.3. Đặc điểm của kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh
THCS






22
1.3.4. Xu hướng đổi mới kiểm tra – đánh giá kết quả học tập hiện nay
24
1.4. Lý luận về quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập
của học sinh trung học cơ sở






27



6
1.4.1. Nội dung quản lý của các chủ thể quản lý hoạt động kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở







27
1.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS








34
Tiểu kết chương 1
37
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM
TRA – ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN AN LÃO - HẢI PHÒNG













38
2.1. Khái quát về giáo dục trung học cơ sở huyện An Lão - Hải Phòng
38
2.1.1. Đặc điểm chung của huyện An Lão – Hải Phòng
38
2.1.2. Tình hình giáo dục THCS huyện An Lão
38
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học
sinh trung học cơ sở huyện An Lão - Hải Phòng








45
2.2.1. Thực trạng về nhận thức

45
2.2.2. Thực trạng hình thức, phương pháp kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập của học sinh







47
2.2.3. Thực trạng các khâu soạn đề kiểm tra
49
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập
của học sinh THCS







51
2.3.1. Thực trạng tổ chức các kỳ kiểm tra – đánh giá
52
2.3.2. Thực trạng quản lý quy trình kiểm tra – đánh giá kết quả học
tập của học sinh THCS







57
2.3.3. Thực trạng quản lý việc tổ chức hoạt động kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập của học sinh THCS






60
2.3.4. Thực trạng quản lý công tác chấm, trả bài và ghi điểm
62
2.3.5. Đánh giá chung thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra – đánh
giá kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão – Hải Phòng






63
Tiểu kết chương 2
66
Chương 3: BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN AN LÃO - HẢI PHÒNG














67
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp
67


7
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp với các quy định đã được
ban hành về kiểm tra – đánh giá





67
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ
67
3.1.3. Nguyên tắc kế thừa và phát triển
67

3.1.4. Nguyên tắc phù hợp với tình hình thực tiễn
68
3.2. Các biện pháp
68
3.2.1. Tập huấn nâng cao nhận thức, năng lực và trách nhiệm đối với
kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh cho cán bộ quản lý,
giáo viên và học sinh














68
3.2.2. Tổ chức xây dựng kế hoạch và quy trình kiểm tra – đánh giá
cho các môn học và quản lý các quy trình kiểm tra – đánh giá.







72
3.2.3. Tập huấn kỹ năng xây dựng cấu trúc đề, viết câu hỏi kiểm tra -
đánh giá









83
3.2.4. Chỉ đạo việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý công
tác kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh.






85
3.2.5. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ
cho kiểm tra – đánh giá kết quả học tập







88
3.2.6. Mối liên hệ giữa các biện pháp
89
3.3. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
90
Tiểu kết chương 3
93
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
94
1. Kết luận
94
2. Khuyến nghị
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
PHỤ LỤC






4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

STT
CÁC TỪ VIẾT TẮT
NGHĨA CỦA CÁC TỪ
1.
CB

Cán bộ
2.
CBQL
Cán bộ quản lý
3.
CNTT
Công nghệ thông tin
4.
CSVC
Cơ sở vật chất
5.
GD& ĐT
Giáo dục và Đào tạo
6.
GV
Giáo viên
7.
HS
Học sinh
8.
NV
Nhân viên
9.
THCS
Trung học cơ sở
10.
UBND
Uỷ ban nhân dân






















1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng dạy và học chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, như: mục
tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, đội ngũ giáo viên, đội
ngũ cán bộ quản lý, người học, kiểm tra – đánh giá kết quả học tập, cơ sở vật
chất trang thiết bị, nguồn tài chính
Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái
gì mà còn dạy học như thế nào? Tức là muốn nâng cao chất lượng dạy – học
phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học và vấn đề đổi mới phương pháp
dạy – học đã trở thành yêu cầu mang tính cấp bách, là giải pháp đột phá. Tuy

nhiên, đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ
đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến
kiểm tra - đánh giá chất lượng dạy - học. Như vậy, song song với việc đổi mới
phương pháp dạy – học cần đổi mới hoạt động kiểm tra – đánh giá. Bởi lẽ, kết
quả học tập của học sinh được đánh giá chính xác qua quá trình kiểm tra sẽ giúp
cho học sinh điều chỉnh hoạt động học, giúp giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy
và nhà quản lý giáo dục có những chỉ đạo kịp thời, quyết định phù hợp để điều
chỉnh hoạt động dạy – học. Ngược lại, nếu kiểm tra - đánh giá sai dẫn đến nhận
định sai về chất lượng dạy – học sẽ không nâng cao được chất lượng dạy – học,
thậm chí còn gây tác hại to lớn trong giáo dục – đào tạo.
Để có thể giúp cho hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của
học sinh diễn ra đúng định hướng, đạt được mục đích thì trong suốt quá trình
kiểm tra – đánh giá cần phải thường xuyên đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của
các cấp quản lý và trong quá trình quản lý đó yếu tố đổi mới quản lý phải
được quan tâm đúng mức, các biện pháp quản lý phải luôn được điều chỉnh,
bổ sung.
Là cán bộ đang công tác tại Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện An Lão
– Hải Phòng, được đồng chí Trưởng phòng phân công quản lý chuyên môn
cấp trung học cơ sở, nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt


2
động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh trong việc đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra – đánh giá, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học, tôi đã lựa chọn đề tài “Đổi mới quản lý hoạt động kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở huyện An Lão –
Hải Phòng” làm Luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết
quả học tập của học sinh THCS, thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra - đánh

giá kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng, đề xuất
một số biện pháp đổi mới quản lý hoạt động này nhằm nâng cao hiệu quả
kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh góp phần nâng cao chất
lượng dạy - học ở các trường THCS huyện An Lão – Hải Phòng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập của học sinh THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp đổi mới quản lý hoạt động kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
Quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh
THCS góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu giáo dục – đào tạo. Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại, những bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác
này. Nếu xác định và áp dụng các biện pháp đổi mới quản lý hoạt động kiểm
tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS được đề xuất trong luận văn
sẽ nâng cao được hiệu quả của hoạt động kiểm tra – đánh giá, góp phần nâng
cao chất lượng dạy – học ở các trường THCS huyện An Lão – Hải Phòng,
chất lượng giáo dục THCS nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, đề tài xác định các nhiệm
vụ nghiên cứu sau:


3
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập của học sinh THCS.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm đổi mới quản lý hoạt động kiểm tra –
đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng.

6. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ nghiên cứu công tác quản lý hoạt động kiểm tra – đánh
giá kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng đối với
kiểm tra viết 1 tiết trở lên, kiểm tra học kỳ và kiểm tra khảo sát chất lượng.
- Khảo sát và sử dụng số liệu từ năm học 2008-2009 trở lại đây.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, bao gồm: phương pháp phân tích,
tổng hợp, xử lý tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bao gồm: phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát, phương pháp
tổng kết kinh nghiệm giáo dục, phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng để xử lý các số liệu thu
được từ khảo sát thực tế.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và các
phụ lục luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết
quả học tập của học sinh THCS.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp đổi mới quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá
kết quả học tập của học sinh THCS huyện An Lão - Hải Phòng.



4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA – ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

* Trên thế giới:
Ngay từ khi xuất hiện mô hình nhà trường, các hình thức kiểm tra –
đánh giá mức độ nhận thức của người học cũng ra đời. Tuy nhiên ở mỗi giai
đoạn lịch sử, mỗi quốc gia khác nhau có những hình thức kiểm tra – đánh giá
khác nhau nhưng đều đưa ra những qui định chuẩn, phù hợp với yêu cầu của
xã hội hiện tại. Chẳng hạn: Thời kì phong kiến sử dụng thi, kiểm tra để đánh
giá kết quả của người học; Thời kì tiền công nghiệp thi, kiểm tra phải phù hợp
với trình độ người học và coi đó là một cách thức dạy – học, có vai trò khuyến
khích học sinh tích cực, tự giác học tập; Thời kì hậu công nghiệp kiểm tra –
đánh giá phát triển theo tiêu chí hướng vào mục đích, yêu cầu của chương
trình giảng dạy.
Đầu thế kỷ XVI, nhà giáo dục vĩ đại người Sec Slovakia là J.A
Comenxki (1592 - 1670) đã đưa ra mô hình nhà trường và được nhiều quốc
gia trên thế giới áp dụng. Đó là nhà trường được phân theo cấp học, bậc học ở
những lứa tuổi nhất định; các môn học trong nhà trường được quy định chặt
chẽ có chương trình, có nội dung cụ thể thống nhất; thời gian đào tạo cũng
được ấn định, đương nhiên cách kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học
sinh cũng được quy định rõ ràng.
Đến thế kỷ XVIII thì hệ đánh giá chất lượng giáo dục đầu tiên được áp
dụng phổ biến trong các nhà trường. Lúc đầu hệ đánh giá có 3 bậc chính: Tốt
– Trung bình – Kém; Sau đó chia nhỏ thành 5 bậc: Tốt – Khá – Trung bình –
Yếu – Kém. Tuy nhiên để có thể đánh giá được theo 5 bậc chất lượng học
sinh thì kiểm tra phải như thế nào để đánh giá được chính xác, phù hợp với
đối tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy – học mới là
vấn đề được các nhà giáo dục quan tâm.


5
Từ những năm 1970 trở lại đây có rất nhiều những công trình nghiên
cứu từng vấn đề cụ thể, trong đó xác định một cách khoa học nội dung đánh

giá kết quả học tập của học sinh như: Những vấn đề lý luận dạy học của việc
đánh giá tri thức (V.M.Palomxki); Con đường hoàn thiện việc kiểm tra tri
thức kỹ năng (X.V.Uxova). Cũng trong giai đoạn này nhiều tác giả cũng đã
nghiên cứu các nguyên tắc của việc kiểm tra – đánh giá nhằm đảm bảo tính
khách quan như: Các hướng nâng cao tính khách quan trong việc đánh giá tri
thức học sinh (A.M.Levitor).
* Ở trong nước:
Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh đã có từ thời nhà Lý
thế kỷ XI – XIII thông qua các kì thi Hương để chọn tú tài, cử nhân; thi Hội
để chọn Thái học sinh, phó bảng, thi Đình để chọn Trạng nguyên, Bảng nhãn,
Thám hoa với 3 hình thức cơ bản là thi văn, thi võ, thi Lại viên. Trong các kì
thi này được quy định rất chặt chẽ nhiệm vụ của các lực lượng, sự thưởng
phạt nghiêm minh. Tuy nhiên có nhiều phiền toái, gò bó, không phát huy hết
khả năng sáng tạo của thí sinh. Cạnh đó kết quả của các kì thi thi này hoàn
toàn phụ thuộc vào sự nhận xét chủ quan của giám khảo.
Thời kỳ Pháp thuộc, nền giáo dục Việt Nam mang tính nô dịch thuộc
địa với chủ trương đào tạo một số ít người làm tay sai, còn đại đa số nhân dân
là mù chữ (chính sách ngu dân để dễ cai trị). Thời kỳ này các kỳ thi tuyển
được tổ chức rất nghiêm túc và được bảo đảm bằng pháp luật, trung tâm khảo
thí là đơn vị độc lập với Bộ Giáo dục. Công tác kiểm tra – đánh giá chất
lượng giáo dục luôn gắn liền với mục tiêu đào tạo của thực dân phong kiến.
Từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay kiểm tra – đánh giá đã có
nhiều biến đổi căn bản so với chế độ xã hội cũ. Nền giáo dục Việt Nam đã trải
qua 3 lần cải cách, với mỗi lần mục tiêu giáo dục đào tạo được điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình đất nước. Đặc biệt là trong những năm gần đây, cùng
với sự phát triển giáo dục – đào tạo, hoạt động nghiên cứu kiểm tra – đánh
giá; nghiên cứu công tác quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá có những phát


6

triển mới. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những yêu cầu về quản lý nhằm
nâng cao chất lượng kiểm tra – đánh giá, góp phần nâng cao chất lượng dạy –
học đáp ứng mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Một số tài liệu nghiên
cứu về kiểm tra – đánh giá trong lĩnh vực giáo dục của các chuyên gia như:
+ Nguyễn Đức Chính, Đo lường đánh giá trong giáo dục, tập bài giảng
lưu hành nội bộ - khoa Sư phạm, Hà Nội 2004.
+ Trần Thị Tuyết Oanh, Đo lường và đánh giá kết quả học tập, Nxb
Đại học sư phạm Hà Nội, 2007.
+ Dương Thiệu Tống, Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập,
Nxb Khoa học xã hội, 2005.
Các đề tài luận văn thạc sỹ như: Nghiên cứu cải tiến quy trình tổ chức
kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của sinh viên tại khoa du lịch – viện đại
học mở Hà Nội của tác giả Lê Quỳnh Chi, năm 2006; Biện pháp quản lý công
tác kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của sinh viên ở trường Cao đẳng du
lịch Hà Nội của tác giả Nghiêm Nữ Diễm Thùy, năm 2008; Quản lý hoạt
động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ở các trường trung học
phổ thông thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay của tác
giả Tạ Thị Bích Liên, năm 2011
Tuy nhiên, trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng chưa có tác
giả nào nghiên cứu về công tác quản lý hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập của học sinh THCS. Do vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn là cần
thiết trong công tác dạy – học cấp THCS huyện An Lão thành phố Hải Phòng
giai đoạn hiện nay.
1.2. Các khái niệm của đề tài
1.2.1. Quản lý
Khoa học quản lý xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài
người. Nó là phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời một cách tất yếu do
nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia và mọi thời đại.



7
Từ điển Tiếng Việt viết: “Quản lý là hoạt động của con người tác động
vào tập thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu
chung” [26]. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “quản
lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt
động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [7].
Như vậy, quản lý là một khái niệm có nội hàm xác định song lâu nay
thường có các cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng
thuật ngữ khác nhau. Thực chất của quản lý là gì? (hoặc quản lý trước hết,
chủ yếu là gì?) cũng có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau. Tuy
nhiên với sự phát triển của khoa học, quản lý đã cơ bản được làm sáng tỏ để
có một cách hiểu thống nhất.
Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các
cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực
hiện mục tiêu chung của tổ chức. Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ
thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các
thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt
nhất. Quản lý bao gồm các yếu tố:
- Phải có một chủ thể quản lý là các tác nhân tạo ra tác động quản lý và
một một đối tượng bị quản lý. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận và thực
hiện tác động quản lý. Tác động quản lý có thể chỉ là một lần mà cũng có thể
là liên tục nhiều lần.
- Phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là
căn cứ chủ yếu để tạo ra các tác động. Chủ thể quản lý có thể là một người,
nhiều người. Còn đối tượng bị quản lý có thể là người hoặc giới vô sinh (máy
móc, thiết bị, đất đai, thông tin, hầm mỏ ) hoặc giới sinh vật (vật nuôi, cây
trồng )
Từ những khái niệm nêu trên ta thấy đối tượng chủ yếu và trực tiếp của
quản lý là những con người trong tổ chức; thông qua đó tác động lên các yếu

tố vật chất (vốn, vật tư, công nghệ) để tạo ra kết quả cuối cùng của toàn bộ


8
hành động. Vì vật khi xét về thực chất, quản lý trước hết và chủ yếu là quản lý
con người (trong bất cứ hành động nào).
Xác định như vậy để thấy con người là yếu tố quyết định trong mọi
hành động, hoàn toàn không có nghĩa là nội dung các chức năng quản lý nhân
sự (một bộ phận trọng yếu của quản lý). Điều này đã được nhiều nhà khoa
học quản lý nhấn mạnh qua cách thể hiện như: "Quản lý là một quá trình làm
cho những hành động được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua
những người khác” (S.P.Robbing) và "Các nhà quản lý có trách nhiệm duy trì
các hành động làm cho các cá nhân có thể đóng góp tốt nhất và các mục tiêu
của nhóm" (H. Koontz, C.O' donnell, )
Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại công việc khác
nhau. Những loại công việc quản lý này được gọi là các chức năng quản lý.
Như vậy các chức năng quản lý là những công việc quản lý khác nhau mà chủ
thể quản lý (các nhà quản lý) phải thực hiện trong quá trình quản lý một tổ
chức. Phân tích chức năng quản lý nhằm trả lời câu hỏi: các nhà quản lý phải
thực hiện các công việc gì trong quá trình quản lý?
Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng trong quá
trình quản lý. Vào những năm 1930, Gulick và Urwich nêu lên 7 chức năng
của quản lý trong từ viết tắt POSDCORB: P: Planning - lập kế hoạch, O:
organnizing - tổ chức, S: Staffing - Quản trị nhân sự, D: Directing - chỉ huy,
CO: Coordinating - phối hợp, R: Reviewing - kiểm tra, B: Budgeting - tài
chính. Herni Fayol nêu 5 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp
và kiểm tra. Trong những năm 60, Koontx và O'Donnell nêu 5 chức năng: lập
kế hoạch, tổ chức, quản trị nhân sự, điều khiển và kiểm tra. Cuối những năm
1980 và đầu những năm 1990, giữa các giáo sư đại học Mỹ cũng không có sự
thống nhất về cách thức phân chia các chức năng quản trị, James Stoner chia

thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Cũng tương tự
như thế, Stephen Ropbbin chia thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra. Andang và Stearns chia thành 4 chức năng: Lập kế hoạch, tổ


9
chức và quản trị nhân sự, điều khiển và kinh tế. Các chức năng như lập kế
hoạch, tổ chức, điều hành, kiểm tra và điều chỉnh là phổ biến đối với mọi nhà
quản trị, dù đó là tổng giám đốc một Công ty lớn, hiệu trưởng một trường đại
học, trưởng phòng chuyên môn trong một cơ quan, hay tổ trưởng một tổ gồm
5 - 7 công nhân.
Có thể nói, các chức năng quản lý trên đây chung nhất đối với mọi nhà
quản lý, không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và
môi trường xã hội, dù ở Mỹ, Nhật hay Việt Nam. Dĩ nhiên, phổ biến hay
chung nhất không có nghĩa là đồng nhất. Ở những tổ chức khác nhau, những
cấp bậc khác nhau, có sự khác nhau về mức độ và sự quan tâm cũng như
phương thức thực hiện các chức năng chung này.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống có ý thức hợp quy luật
của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau lên tất cả các mắt xích của hệ thống
giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành bình thường và liên
tục phát triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng. Hay nói cách
khác: quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có chủ đích có kế hoạch
hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên học sinh cha
mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thự hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Như vậy, quản lý giáo dục là một công việc hết sức quan trọng trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nội dung của quản lý giáo dục bao gồm: Tham
gia quản lý học sinh, sinh viên, quản lý đào tạo và cơ sở vật chất, phương tiện
phục cho công tác giáo dục đào tạo, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ

lên lớp và các công tác khác ở các trường mầm non, phổ thông và dạy
nghề, , quản lý chuyên môn, hành chính, nhân sự tại các Sở GD&ĐT, Phòng
GD&ĐT; Làm công tác giảng dạy khoa học quản lý giáo dục ở các cơ sở đào
tạo và bồi dưỡng giáo viên, cán bộ, nhân viên quản lý trong và ngoài ngành
giáo dục; Nghiên cứu khoa học quản lý và quản lý giáo dục ở các cơ sở


10
nghiên cứu, các cơ quan tham mưu hoạch định chiến lược quản lý xã hội nói
chung và phát triển giáo dục nói riêng.
1.2.3. Kiểm tra
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm kiểm tra.
Trong từ điển Tiếng Việt (1998) có định nghĩa: “Kiểm tra là xem xét tình
hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [26]. Từ điển Bách Khoa (2001) có định
nghĩa thuật ngữ “Kiểm tra là bộ phận hợp thành của quá trình hoạt động dạy
– học nhằm nắm được thông tin về trạng thái và kết quả học tập của học sinh,
về những nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó để tìm ra những biện pháp
khắc phục những lỗ hổng, đồng thời củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả
hoạt động dạy – học” [27]. Theo GS Nguyễn Đức Chính (2005) “Đo lường
(kiểm tra) là quá trình thu thập thông tin một cách định lượng và định tính về
các đại lượng đặc trưng như nhận thức, tư duy, kỹ năng và các phẩm chất
nhân cách khác trong quá trình giáo dục” [8].
Như vậy, kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm
bảo rằng các mục tiêu và các kế hoạch vạch ra để thực hiện các mục tiêu này
đã và đang được hoàn thành.
Có thể nói rằng kiểm tra là sợi chỉ xuyên suốt cả quá trình quản lý
nhằm đạt được mục đích:
- Bảo đảm kết quả đạt được phù hợp với mục tiêu của tổ chức.
- Bảo đảm các nguồn lực được sử dụng một cách hữu hiệu.
- Làm bày tỏ và đề ra những kết quả mong muốn chính xác hơn theo

thứ tự quan trọng.
- Xác định và dự đoán những biến động và những chiều hướng chính.
- Phát hiện kịp thời các sai sót và bộ phận chịu trách nhiệm để chấn chỉnh.
- Đơn giản hóa các vấn đề ủy quyền, chỉ huy, quyền hành và trách nhiệm.
- Phác thảo các tiêu chuẩn tường trình báo cáo để loại bớt những gì
quan trọng hay không cần thiết.


11
- Phổ biến những chỉ dẫn cần thiết một cách liên tục để cải tiến việc
hoàn thành công việc, tiết kiệm thời gian, công sức của mọi người.
Xây dựng cơ chế kiểm tra cần tuân theo các nguyên tắc: Căn cứ kế
hoạch hoạt động và theo cấp bậc của đối tượng kiểm tra; Dựa vào đặc điểm cá
nhân của nhà quản lý; Thực hiện tại những điểm trọng yếu; Khách quan; Phù
hợp với bầu không khí của tổ chức; Tiết kiệm, công việc kiểm tra tương xứng
với chi phí; Kiểm tra phải đưa đến hành động.
Để hoạt động kiểm tra có ý nghĩa, trong kiểm tra cần thực hiện theo qui
trình, đó là: Xây dựng các tiêu chuẩn (định lượng, định tính); Đo lường việc
thực hiện (đo lường, đánh giá sai lệch); Điều chỉnh các sai lệch.
Khi hoạt động kiểm tra đạt được mục đích nêu trên lúc đó có tác dụng:
Làm nhẹ gánh nặng cấp chỉ huy; Kiểm tra lại quá trình hoạch định, tổ chức,
điều khiển.
1.2.4. Đánh giá
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết
quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp
để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu qủa công việc.
Theo GS Nguyễn Đức Chính, thuật ngữ đánh giá được định nghĩa “Đánh giá
là quá trình thu thập và xử lý thông tin một cách có hệ thống nhằm xác định
mục tiêu đã và đang đạt được ở mức độ nào” [8].

Trong giáo dục, đánh giá là một hình thức chuẩn đoán của việc xem xét
chất lượng và đánh giá việc giảng dạy, học tập và chương trình đào tạo dựa
vào việc kiểm tra chi tiết các chương trình học, cơ cấu và hiệu quả của một cơ
sở đào tạo, xem xét bên trong và các cơ chế kiểm soát chất lượng của cơ sở
đó. Trong dạy – học, đánh giá là quá trình thu thập thông tin về năng lực,
phẩm chất của một học sinh và sử dụng thông tin đó để đưa ra những quyết
định về người học và việc tổ chức quá trình dạy – học.


12
Đánh giá là sự phán xét trên cơ sở đo lường, kiểm tra bao giờ cũng đi
liền với đánh giá. Vì vậy, kiểm tra – đánh giá là một khâu không thể thiếu của
quá trình dạy – học, là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy –
học. Kiểm tra – đánh giá là công việc của cả giáo viên, học sinh và các nhà
quản lý giáo dục. Đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp định lượng
hay định tính.
1.2.5. Kết quả học tập của học sinh
Theo lý luận dạy học hiện đại, học tập là hoạt động nhận thức của
người học được thực hiện dưới sự tổ chức điều khiển của nhà sư phạm, Mục
đích của hoạt động học tập là tiếp thu nền văn hóa, văn minh nhân loại và
chuyển hóa chúng thành năng lực thể chất, năng lực tinh thần của mỗi cá nhân
người học. Đối tượng của hoạt động học là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng được thể hiện ở nội dung của môn học, bài học bằng hệ thống khái
niệm khoa học và khái niệm môn học. Quá trình dạy – học là khái niệm chỉ
hoạt động chung của người dạy, người học và hai hoạt động này tồn tại song
song. Kết quả học tập thể hiện chất lượng của quá trình dạy – học.
Kết quả học tập chỉ xuất hiện khi có những biến đổi tích cực trong nhận
thức, hành vi của người học. Trong khoa học cũng như trong thực tế, kết quả
học tập được hiểu theo 2 nghĩa: Mức độ người học đạt được so với các mục
tiêu đã xác định (theo tiêu chí), hoặc là mức độ người học đạt được so với các

người cùng học khác (theo tiêu chuẩn).
Dù được hiểu theo nghĩa nào thì kết quả học tập đều thể hiện ở mức độ
đạt được của các mục tiêu dạy – học. Theo GS Nguyễn Đức Chính (2005):
“Kết quả học tập là mức độ kiến thức, kỹ năng hay nhận thức của người học
trong một lĩnh vực (môn học) nào đó” [8].
1.2.6. Kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh
Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa (2001), đánh giá
kết quả học tập là “xác định mức độ nắm được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của
học sinh so với yêu cầu của chương trình đề ra” [27].


13
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là việc đưa ra những kết luận,
nhận định, phán xét về trình độ học sinh. Muốn đánh giá kết quả học tập của
học sinh thì việc đầu tiên là phải kiểm tra, soát xét lại toàn bộ công việc học
tập của học sinh, sau đó tiến hành đo lường để thu thập những thông tin cần
thiết, cuối cùng là đưa ra một quyết định.
Do vậy kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh là hai khâu có
quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và
đánh giá thông qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình
thống nhất là kiểm tra - đánh giá.
Dạy học là một quá trình thay đổi. Việc đánh giá sự thay đổi này được
gọi là “sự đánh giá kết quả học tập”, và đó là một phần quan trọng trong quá
trình dạy và học. Sự đánh giá này bao gồm sự hiểu bài của học sinh và hiệu
quả giảng dạy của giáo viên. Hơn nữa, sự đánh giá này cũng phản ánh sự tiến
bộ trong học tập của học sinh; là sự phát triển đối với nhà trường và xã hội
bởi vì sự đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là thước đo thành tích
giáo dục.
Việc đánh giá một cách liên tục là một cách thức phổ biến và thông
dụng trên thế giới ngày nay. Đánh giá liên tục có nghĩa là bài tập của học sinh

được chấm điểm trong suốt các học kỳ và các điểm số này được ghi lại cẩn
thận. Sau đó giáo viên tính điểm trung bình dựa trên các điểm số này. Có rất
nhiều cách để đánh giá, trong đó có các cách phổ biến sau:
- Các bài kiểm tra (kiểm tra viết hoặc kiểm tra miệng) giúp giáo viên
theo dõi hoặc phân loại học sinh; đánh giá sự hiểu biết của học sinh theo
chiều rộng, chất lượng hiểu biết của học sinh theo chiều sâu, kiến thức mà học
sinh vừa được học và liệu học sinh có đủ kiến thức để học ở trình độ tiếp theo
không.
- Ngoài ra còn có các phương pháp khác: các bài tập theo nhóm, bài tập
về nhà, các bài viết luận, trình bày các đề án v v.


14
Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh nên công khai cho học sinh,
phụ huynh và người giám hộ. Tuy nhiên có những điểm số cần phải được giữ
kín. Giáo viên có thể đặt kế hoạch cho mình hệ thống kiểm tra riêng và
thường xuyên (ví dụ: 1 tuần 1 lần, hoặc 3 tuần 1 lần, v v ).
Như vậy kết quả học tập của học sinh là thước đo của quá trình dạy –
học, kiểm tra - đánh giá chính xác kết quả học tập của học sinh là điều vô
cùng cần thiết trong suốt quá trình dạy – học.
1.2.7. Đổi mới
Đổi mới là cải cách cái lỗi thời thay vào đó, thừa kế cái tốt cũ và thêm
cái mới hợp với thời đại mới (tương thích). Đó là con đường tiến hóa của nền
văn minh (khác với cách mạng). Đổi mới không bao giờ là đủ, nó kéo dài theo
chiều dài của lịch sử.
Theo Wikipedia tiếng Việt, đổi mới giáo dục là chuyển từ lối giáo dục
từ chương (vốn là truyền thống trong cách giáo dục Á Đông) sang phương
pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, tăng tính chủ động cho học sinh
và tấn công vào căn bệnh thành tích.
1.3. Kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS

1.3.1. Vị trí, chức năng, vai trò và nguyên tắc của kiểm tra - đánh giá
1.3.1.1. Vị trí của kiểm tra – đánh giá trong quá trình dạy – học
Trong quá trình dạy học, kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học
sinh là một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ
chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, vận dụng của người học. Kiểm tra, đánh giá là
hai công việc được tiến hành theo trình tự nhất định hoặc đan xen lẫn nhau
nhằm khảo sát, xem xét về cả định lượng và định tính kết quả học tập, đánh
giá mức độ chiếm lĩnh nội dung học vấn của học sinh. Bởi vậy, cần phải xác
định “thước đo” và chuẩn đánh giá một cách khoa học, khách quan.
Kiểm tra - đánh giá là một bộ phận hợp thành không thể thiếu trong quá
trình giáo dục. Nó là khâu cuối cùng, đồng thời khởi đầu cho một chu trình
kín tiếp theo với một chất lượng cao hơn.


15
1.3.1.2. Chức năng của kiểm tra – đánh giá trong quá trình dạy – học
Chức năng định hướng: Xem xét kết quả của kiểm tra - đánh giá cho
phép đề xuất định hướng điều chỉnh những sai sót, phát huy những kết quả
trong cải tiến hoạt động dạy - học với các phần kiến thức đã dạy. Chính vì
vậy, kiểm tra - đánh giá giúp cho học sinh, giáo viên trong việc thực hiện
nhiệm vụ dạy - học. Nó có tác dụng định hướng hoạt động học tập tích cực
chủ động của học sinh.
Chức năng đốc thúc, kích thích tạo động lực: Thông qua kiểm tra –
đánh giá có thể kích thích tinh thần học tập của học sinh. Kết quả sau mỗi bài
kiểm tra sẽ giúp cho học sinh biết được mức độ nắm kiến thức của bản thân
để có hướng phấn đấu; với những học sinh giỏi, kết quả học tập tốt sẽ động
viên, khuyến khích các em hăng say học tập, còn với học sinh yếu sẽ là một
minh chứng thôi thúc các em cố gắng vươn lên.
Chức năng sàng lọc, lựa chọn: Trong quá trình dạy – học giáo viên
phải tiến hành sàng lọc, lựa chọn và phân loại học sinh. Điều này chỉ có thể

thực hiện được thông qua kết quả kiểm tra – đánh giá. Qua đó giúp cho giáo
viên có phương pháp dạy - học phù hợp với từng đối tượng học sinh góp phần
nâng cao chất lượng dạy – học.
Như vậy, ba chức năng trên luôn luôn quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy
nhiên, tuỳ vào đối tượng hình thức, phương pháp đánh giá mà một chức năng
nào đó có thể sẽ trội hơn.
1.3.1.3. Vai trò của kiểm tra – đánh giá trong quá trình dạy – học
Đối với giáo viên: Giúp giáo viên biết được hiệu quả, chất lượng giảng
dạy. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao và hoàn thiện mình về trình độ học
vấn, về phương pháp giảng dạy, từ đó điều chỉnh hay phát huy quá trình dạy
học giúp học sinh hoàn thiện hoạt động học.
Đối với học sinh: Việc đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp
kịp thời những thông tin "liên hệ ngược" giúp học sinh điều chỉnh hoạt động
học.


16
- Về giáo dưỡng chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học
đến mức độ nào, còn thiếu sót nào cần bổ khuyết.
- Về mặt phát triển năng lực nhận thức giúp học sinh có điều kiện tiến
hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát hóa,
hệ thống hóa kiến thức, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo,
linh hoạt vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tế.
- Về mặt giáo dục, giáo dục học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong
học tập, có ý chí vươn lên đạt những kết quả cao hơn, cũng cố lòng tin vào
khả năng của mình, nâng cao ý thứcc tự giác, khắc phụ tính chủ quan tự mãn.
Đối với cán bộ quản lí giáo dục: Cung cấp cho cán bộ quản lí giáo dục
những thông tin về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để có
những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn được những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ
những sáng kiến hay, giúp đưa ra những quyết định phù hợp trong việc điều

chỉnh, cải tiến chương trình, nội dung đào tạo, hình thức tổ chức dạy học
nhằm bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu dạy – học.
1.3.1.4 Nguyên tắc của kiểm tra – đánh giá trong quá trình dạy - học
Lý luận và thực tiễn dạy học ngày nay chứng tỏ rằng, vấn đề kiểm tra -
đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chỉ có tác dụng khi thực hiện những nguyên
tắc trong việc kiểm tra đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh [3]. Đó
là các nguyên tắc sau:
Đảm bảo tính khách quan:
- Là sự phản ánh trung thực kết quả lĩnh hội nội dung tài liệu học tập
của học sinh so với yêu cầu do chương trình qui định.
- Nội dung kiểm tra phải phù hợp với các yêu cầu chung của chương
trình đề ra.
- Tổ chức kiểm tra phải nghiêm túc, nghiêm minh.
Để đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra đánh giá, cần cải tiến, đổi
mới các phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá, từ khâu ra đề, tổ chức thi
tới khâu cho điểm. Xu hướng chung là tuỳ theo đặc trưng môn học mà lựa


17
chọn hình thức kiểm tra thích hợp. Song dù hình thức nào, vấn đề “lượng
hoá” nội dung môn học theo các đơn vị kiến thức để làm chuẩn cho việc kiểm
đánh giá, cho điểm khách quan là cực kỳ quan trọng [15].
Đảm bảo tính toàn diện:
Trong quá trình kiểm tra - đánh giá phải đánh giá được các yếu tố về số
lượng, chất lượng chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, vận dụng thuộc về các môn
học; về kết quả phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, tư duy sáng tạo, ý thức,
thái độ … trong đó, chú ý đánh giá cả số lượng và chất lượng, cả nội dung và
hình thức.
Đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống
Quá trình kiểm tra – đánh giá cần được thực hiện một cách thường

xuyên theo kế hoạch và mang tính hệ thống. Kiểm tra có hệ thống giúp thu
thập chính xác, đầy đủ thông tin cần thiết cho việc đánh giá khách quan, toàn
diện. Ngoài ra với lượng thông tin đầy đủ sẽ có cơ sở chắc chắn để thực hiện
điều chỉnh hoạt động giáo dục. Do vậy, cần thực hiện kết hợp các hình thức
kiểm tra – đánh giá thường xuyên với kiểm tra – đánh giá định kỳ; số lần,
hình thức kiểm tra cần phù hợp đảm bảo cho việc đánh giá kết quả học tập
của học sinh.
Đảm bảo tính xác nhận và phát triển
Tính xác nhận là việc kiểm tra – đánh giá phải khẳng định được hiện
trạng của nội dung cần đánh giá so với mục tiêu đánh giá (cả về mặt định tính
lẫn định lượng) và nguyên nhân của hiện trạng đó dựa trên những tư liệu khoa
học, chính xác và các lập luận xác đáng. Tuy nhiên, giáo dục có bản chất nhân
đạo và phát triển nên việc kiểm tra – đánh giá cũng phải mang tính phát triển,
tức là phải đảm bảo chức năng phát triển của đánh giá giúp cho người học
không chỉ nhận ra hiện trạng cái mình đạt được (chức năng xác nhận) mà còn
có niềm tin vào khả năng của mình trong việc tiếp tục phát triển hoặc khắc
phục những điểm không phù hợp. Nói cách khác, kiểm tra – đánh giá trong


18
dạy học không đơn thuần là phán xét kết quả học tập của người học mà thực
sự là một nội dung của hoạt động dạy – học.
Đảm bảo tính quy chuẩn, khoa học trong kiểm tra đánh giá
Kiểm tra – đánh giá dù theo bất kỳ hình thức nào cũng đều nhằm mục
tiêu phát triển hoạt động dạy – học, đồng thời phải đảm bảo lợi ích cho người
được đánh giá. Vì vậy, kiểm tra – đánh giá cần tuân theo những chuẩn mực nhất
định, những chuẩn này được qui định rõ trong qui chế chuyên môn, phân phối
chương trình như: xác định rõ nội dung, cách thức, thời điểm thực hiện và công
khai đối với học sinh. Như vậy, mới tránh được sự tùy tiện, ngẫu hứng trong quá
trình kiểm tra – đánh giá và kết quả mới đảm bảo tính ổn định.

Để đảm bảo tính khoa học của việc kiểm tra - đánh giá kiến thức, kỹ
năng, cần quán triệt một nguyên tắc chung quan trọng là: việc kiểm tra đánh
giá kiến thức kỹ năng cần được tiến hành theo một qui trình hoạt động chặt
chẽ sau:
- Xác định rõ mục đích kiểm tra đánh giá.
- Kiểm tra nhằm mục đích dạy học: bản thân việc kiểm tra đánh giá
nhằm định hướng hoạt động chiếm lĩnh kiến thức cần dạy.
- Kiểm tra nhằm mục đích đánh giá thành quả học tập hoặc nhằm
nghiên cứu đánh giá mục tiêu, phương pháp dạy học.
- Kiểm tra trình độ xuất phát của người học có liên quan đến việc xác
định nội dung phương pháp dạy học của một học phần sắp bắt đầu…
- Xác định rõ nội dung cụ thể của các kiến thức kĩ năng cần kiểm tra
đánh giá; các tiêu chí cụ thể của mục tiêu dạy học với từng kỹ năng đó để làm
căn cứ đối chiếu các thông tin sẽ thu lượm được trong kiểm tra.
1.3.2. Các hình thức, phương pháp và quy trình kiểm tra – đánh giá
1.3.2.1. Các hình thức, phương pháp kiểm tra – đánh giá
Song hành với việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa cấp
THCS, kiểm tra - đánh giá, xếp loại đối với học sinh trung học cơ sở cũng
được bắt đầu thay đổi từ năm 2002. Sau nhiều lần điều chỉnh đến năm 2006,


19
Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 40/2006/QĐ-BGDĐT, ngày
05/10/2006 về việc ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học
cơ sở và học sinh trung học phổ thông. Theo Quyết định này khi đánh giá, xếp
loại HS có 2 lĩnh vực:
Đánh giá hạnh kiểm của học sinh: Phải căn cứ vào biểu hiện cụ thể về
thái độ và hành vi đạo đức; ứng xử trong mối quan hệ với thầy giáo, cô giáo,
với bạn bè và quan hệ xã hội; ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập; kết quả
tham gia lao động, hoạt động tập thể của lớp, của trường và hoạt động xã hội;

rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường. Hạnh kiểm được xếp
thành 4 loại: Tốt, Khá, Trung bình, Yếu sau khi kết thúc học kỳ, năm học.
Không căn cứ vào kết quả học tập nhưng có xem xét đến kết quả học tập khi
xếp hạnh kiểm [4].
Đánh giá, xếp loại học lực: Căn cứ đánh giá học lực của học sinh là
hoàn thành chương trình các môn học trong kế hoạch giáo dục của cấp THCS,
kết quả đạt được của các bài kiểm tra. Học lực được xếp thành 5 loại: Giỏi,
Khá, Trung bình, Yếu và Kém [4].
Trong quá trình kiểm tra – đánh giá bao gồm các hình thức:
Hình thức kiểm tra: Kiểm tra miệng (kiểm tra bằng hỏi đáp), kiểm tra
viết và kiểm tra thực hành. Các loại bài kiểm tra: Kiểm tra thường xuyên,
kiểm tra định kỳ (gồm kiểm tra viết từ 1 tiết lý thuyết và thực hành trở lên),
kiểm tra học kỳ [4].
Hình thức đánh giá: Kiểm tra và cho điểm các bài kiểm tra, tính điểm
trung bình môn học và tính điểm trung bình các môn học sau một học kỳ, một
năm học. Việc đánh giá chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh được
thực hiện sau mỗi học kỳ, mỗi năm học nhằm thúc đẩy học sinh rèn luyện,
học tập để không ngừng tiến bộ. Căn cứ đánh giá, xếp loại hạnh kiểm và học
lực của học sinh được dựa trên cơ sở: Mục tiêu giáo dục của cấp học, chương
trình, kế hoạch giáo dục của cấp học, điều lệ nhà trường, kết quả rèn luyện và
học tập của học sinh [4].

×