Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức của hiệu trưởng Trường trung học phổ thông tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 106 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
o0o




ĐỖ QUANG HỢP





CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH HƯNG YÊN







LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC













Hà Nội – 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
o0o



ĐỖ QUANG HỢP




CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH HƯNG YÊN







LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC


Chuyên ngành : Quản lý giáo dục

Mã số: 60 14 05



Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. ĐẶNG QUỐC BẢO







Hà Nội – 2007


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
6. Phương pháp nghiên cứu 3
7. Phạm vi nghiên cứu 4
8. Cấu trúc của luận văn 4

CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC XÁC LẬP CÁC BIỆN
PHÁP QUẢN LÝ GDĐĐ CỦA HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG THPT 5
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 5
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 6
1.2.1. Quản lý 7
1.2.2. Quản lý giáo dục 8
1.2.3. Quản lý nhà trường 9
1.2.4. Đạo đức 10
1.2.5. Giáo dục đạo đức 12
1.3. Hoạt động GDĐĐ cho HS THPT là hoạt động có ý nghĩa then chốt
trong nhà trƣờng 15
1.3.1. Tầm quan trọng của trường THPT trong công tác GDĐĐ cho học sinh
trong giai đoạn hiện nay. 15
1.3.2. Một số đặc điểm tâm lí, nhân cách, hoạt động của học sinh THPT 16
1.3.3. Một số quan điểm của Đảng về giáo dục đạo đức cho học sinh nhà
trường THPT 18
1.3.4. Vai trò người HT trường THPT trong quá trình GDĐĐ học sinh 19
1.3.5. Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh ở THPT 20


1.4. Nguyên tắc quản lý GDĐĐ cho HS THPT mà ngƣời Hiệu trƣởng cần
quán triệt 22
1.4.1. Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng . 22
1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo tính tập trung dân chủ 22
1.4.3. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và phù hợp với thực tiễn 23
1.4.4. Nguyên tắc phối hợp các lực lượng giáo dục. 23
1.5. Phƣơng pháp GDĐĐ học sinh THPT mà Hiệu trƣởng cần kiên trì tổ
chức chỉ đạo 24
1.5.1. Nhóm phương pháp khai sáng tri thức đạo đức 24
1.5.2. Nhóm phương pháp hình thành, phát triển hành vi thói quen 24

1.5.3. Nhóm phương pháp đánh giá kết qủa hoạt động giáo dục 24
CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CỦA HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG THPT TỈNH HƢNG YÊN 26
2.1. Đặc điểm kinh tế – Giáo dục tỉnh Hƣng Yên 26
2.1.1. Khái quát về các đặc điểm truyền thống văn hoá, lịch sử, địa lí, hành
chính, dân số tỉnh Hưng Yên . 26
2.1.2. Giáo dục chung 29
2.1.3. Giáo dục THPT 31
2.2. Thực trạng đạo đức và GDĐĐ học sinh THPT tỉnh Hƣng Yên 34
2.2.1. Nhận thức của học sinh THPT về vai trò của đạo đức 34
2.2.2. Thực trạng về hành vi đạo đức của học sinh THPT 39
2.3. Nhận thức của giáo viên về công tác giáo dục đạo đức học sinh 42
2.4. Thực trạng công tác QL GDĐĐ của HT trƣờng THPT tỉnh
Hƣng Yên 44
2.4.1. Những công việc HT đã làm 44
2.4.2. Đánh giá của HT về mức độ quan trọng của các công việc 46
2.4.3. Một số nhận xét khái quát 46
2.4.4. Phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên 47


2.5. Đánh giá chung 52
2.5.1. Những mặt tích cực 52
2.5.2. Những mặt hạn chế 53
CHƢƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CỦA HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG THPT TỈNH HƢNG YÊN 55
3.1. Định hƣớng GDĐĐ ở nhà trƣờng THPT trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay 55
3.2. Biện pháp quản lý của HT nhằm tăng cƣờng công tác GDĐĐ cho
HS THPT. 58
3.2.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và ý thức trách nhiệm về công

tác GDĐĐ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên và các lực lượng liên quan về đạo
đức và giáo dục đạo đức cho học sinh. 58
3.2.2. Phối hợp ba lực lượng giáo dục: Nhà trường- Gia đình- Xã hội tạo ra sự
đồng bộ về các tác động GD đối với học sinh. 59
3.2.3. Tăng cường vai trò tổ chức Đoàn TNCSHCM, phối hợp tốt các chủ
trương của chính quyền nhà trường và Đoàn trong nội dung, phương pháp
GDĐĐ 62
3.2.4. Tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính nhằm hỗ trợ tốt công
tác GDĐĐ trong cả nội khoá và ngoại khoá 64
3.2.5. Tăng cường các tác động tổ chức- hành chính đối với kế hoạch GDĐĐ
65
3.2.6. Tăng cường những tác động, quán triệt vấn đề tâm lí GD trong chỉ đạo
và sử dụng các kích thích kinh tế 67
3.3. Tổ chức thực hiện các biện pháp 70
3.4. kiểm chứng tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp 75
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 78
1. Kết luận 78
2. Khuyến nghị 80


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển giáo dục luôn gắn liền với lịch sử phát triển loài người,
mục tiêu của bất cứ một nền giáo dục nào cũng là đào tạo nên những con người
có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội .

Nền giáo dục Việt Nam từ rất xa xưa, ông cha ta đã đề cao và coi trọng
giáo dục đạo đức “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ngày nay Đảng ta đã quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục, xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, mục tiêu của giáo
dục là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc’.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc- Danh nhân
văn hoá thế giới – Nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc ta, thời đại ta, lúc sinh thời
cũng rất coi trọng việc giáo dục toàn diện. Người chỉ rõ: “ Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con
người có lí tưởng cách mạng vững vàng, đạo đức trong sáng, có kiến thức văn
hoá, khoa học kĩ thuật và kĩ năng lao động, có sức khoẻ, có ý chí vươn đến cái
chân, thiện, mỹ. Bác xem đạo đức là cái gốc để nên người, làm người: “Cũng
như sông, có nguồn mới có nước, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến đâu
cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Trước lúc đi xa Người còn căn dặn Đảng
ta: Cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ
thành những người kế thừa chủ nghĩa xã hội vừa“ hồng” vừa “chuyên”.
Thực hiện lời dạy của Bác, đường lối đổi mới của Đảng mục tiêu giáo
dục của nhà nước nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH- HĐH, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên CNXH. Vì vậy việc giáo dục


2
đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh là vấn đề mang tính thời sự trong
giai đoạn hiện nay.
Đạo đức là tổng hợp các qui tắc xử sự giữa con người với con người,
cho

dù ở giai đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng đến cái
thiện chống lại cái ác, hướng đến những quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng. Giáo
dục đạo đức là trách nhiệm của toàn xã hội, nhưng trọng trách ấy lại đặt lên vai
các nhà trường, đặc biệt là trường trung học phổ thông. Trường trung học phổ
thông phải biết gắn liền việc “dạy chữ” và “ dạy người”.
Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập giao lưu, hợp tác quốc tế
chúng ta đã tận dụng được trình độ khoa học –kĩ thuật và công nghệ để tiến
hành xây dựng đất nước. Bên cạnh những thuận lợi ấy thì nguy cơ diễn biến hoà
bình, nguy cơ làm băng hoại đạo đức, mờ nhạt lí tưởng trong học sinh, sinh
viên, những tệ nạn xã hội, lối sống thực dụng, chỉ thích hưởng thụ đang tác
động vào nhà trường, làm cho một bộ phận học sinh sa vào lối sống trụy lạc,
thiếu văn hoá, hư hỏng, phạm pháp,…Đúng như đánh giá của Đảng: “ Đặc biệt
chúng ta lo ngại cho một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về
đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân,
lập nghiệp, không vì tương lai bản thân và đất nước.”.
Thực tế công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông hiện
nay ở Hưng Yên tuy đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, từng bước khắc phục
tình trạng thiên về “dạy chữ”, xem nhẹ “dạy người”, nhưng vẫn còn nhiều bất
cập, chất lượng giáo dục đạo đức ở các trường trung học phổ thông chưa đáp
ứng được yêu cầu của xã hội .quản lý
Trong công trình cấp nhà nước, có tác giả đã đánh giá thực trạng này: “Các
bậc cha mẹ học sinh, các thầy cô giáo, các nhà quản lý cũng như các thành viên
trong xã hội lo lắng trước sự sa sút đạo đức của học sinh không những đang tăng
lên về mặt số lượng và tăng lên cả mặt nguy hại”.


3
Vì vậy hơn bao giờ hết, nhận thức và hành động của việc giáo dục đạo
đức cho học sinh phải chiếm vị trí hàng đầu trong công tác giáo dục, đặc biệt là
bậc trung học phổ thông, giai đoạn cuối vị thành niên, chuẩn bị cho các em

bước vào đại học, cao đẳng hay đi vào cuộc sống.
Để đảm bảo hiệu quả của nhiệm vụ GDĐĐ cho học sinh, yếu tố then chốt
là tăng cường hiệu lực công tác quản lý của hiệu trưởng .
Từ những lí luận và thực tiễn đã khái quát trên chúng tôi chọn đề tài :
“Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức của Hiệu trƣởng
trƣờng trung học phổ thông tỉnh Hƣng Yên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng công tác giáo dục
đạo đức học sinh trung học phổ thông tỉnh Hưng Yên, đề xuất các biện pháp
quản lý của hiệu trưởng đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông .
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các mối quan hệ trong quản lý của hiệu trưởng đối với công tác giáo dục
đạo đức học sinh trung học phổ thông, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện
nay trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được các biện pháp quản lý của hiệu trưởng trường trung
học phổ thông đối với công tác giáo dục đạo đức trong tình hình hiện nay bao
quát được các lực lượng tham gia: Nhà trường –gia đình –xã hội thì chất lượng,
hiệu quả giáo dục toàn diện trong nhà trường sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông .


4
5.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung
học phổ thông ở tỉnh Hưng Yên

5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm tăng cường công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hưng Yên
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết :
Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá các tài liệu có liên quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn :
Phương pháp phỏng vấn, điều tra nhằm thu thập thông tin; đánh giá thực
trạng đạo đức học sinh trung học phổ thông ở địa bàn nghiên cứu; tổng kết kinh
nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học phổ thông, lấy ý kiến
chuyên gia, quan sát.
6.3. Nhóm các phương pháp bổ trợ: thống kê.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý của hiệu trưởng
nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hưng Yên
trong thời kì đổi mới.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lí luận của việc xác lập các biện pháp quản lý giáo dục
đạo đức của Hiệu trưởng trường trung học phổ thông.
Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu
trưởng trường trung học phổ thông tỉnh Hưng Yên .
Chương 3 : Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm tăng cường
công tác giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hưng Yên





5






CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC XÁC LẬP CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA HIỆU TRƢỞNG
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Đạo đức là một hình thái ý thức XH, được hình thành, phát triển cùng với
lịch sử XH loài người và luôn được mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi thời đại
quan tâm. Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, những tư tuởng
ĐĐ đã xuất hiện khá sớm trong lĩnh vực triết học Trung Hoa, ấn Độ, Hy Lạp cổ
đại.
Đạo đức biểu hiện đặc trưng về nhân cách, văn hoá; là những yêu cầu,
những nguyên tắc, chuẩn mực do cuộc sống đặt ra mà mỗi con người phải tuân
theo. Đạo đức phản ánh các mối quan hệ, ứng xử giữa con người với con người,
giữa con người với xã hội và con người với thế giới tự nhiên. Xuất phát từ mối
quan hệ tự nhiên đó, người ta phân biệt được cái tốt với cái xấu, cái thiện với cái
ác, cái hay với cái dở,…thể hiện trong hành động của mỗi con người. thế nhưng
con người là tế bào của xã hội, đạo đức không chỉ gắn liền với những con người
cụ thể, mà nó còn gắn chặt với mỗi dân tộc, mỗi giai cấp tạo nên nền tảng đạo
đức của mỗi xã hội nhất định trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Theo chiều dài lịch sử, đã có rất nhiều quan điểm về đạo đức, nhưng chỉ có
quan điểm của chủ nghĩa Mác – LêNin là khoa học nhất, tiến bộ nhất. Chủ nghĩa
Mác- LêNin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ lao
động sản xuất và đời sống cộng đồng, nó phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại
xã hội, khi tồn tại xã hội được thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo, như



6
vậy đạo đức là một phạm trù mang tính vĩnh hằng nhưng mang lại những đặc
điểm của giai cấp, của dân tộc và thay đổi chuẩn mực trong từng giai đoạn lịch
sử.
Ở Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản ra đời, Đảng, Bác Hồ thường xuyên
quan tâm đến vấn đề đạo đức, đó là đạo đức cách mạng, đạo đức XHCN, là
“Cần-kiệm-Liêm –Chính, chí công vô tư”, là “Nhân- Nghĩa - Trí- Dũng- Liêm”,
Bác đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, nhằm giúp cho họ có được
những phẩm chất và năng lực để kế tục sự nghiệp cách mạng.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn
liền với quá trình xây dựng phát triển tư tưởng ĐĐ cách mạng, mà chính Bác là
tấm gương tiêu biểu và trong sáng nhất. Bác nói: “Bất kì ở cương vị nào, bất kì
làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ
lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng đạo đức cá
nhân”.[17]
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng trong quá trình hội
nhập quốc tế, trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao
cấp sang kinh tế thị trường, đạo đức, nhân cách của con người có nhiều biểu hiện
thiếu lành mạnh, trong sáng, phần nào làm ảnh hưởng đến đạo đức xã hội chủ
nghĩa mà Đảng ta và Bác Hồ đã dày công vun đắp. Những biểu hiện tiêu cực
thiếu văn hoá, mất đạo đức của một bộ phận trong cộng đồng dân cư, trong xã hội
đã làm ảnh hưởng đến nhà trường đặc biệt là trường THPT.
Đứng trước thực tế này, GDĐĐ cho học sinh là vấn đề rất bức xúc, đã
được Đảng, nhà nước quan tâm và được nhiều nhà giáo dục nghiên cứu. Chúng
ta có thể tìm hiểu qua các tác giả như :Phạm Minh Hạc, Đặng Quốc Bảo, Hà
Nhật Thăng, Phạm Khắc Chương, ……
Rõ ràng về mặt lí luận cũng như thực tiễn, vấn đề đạo đức và GDĐĐ trong
nhà trường đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục quan tâm, nghiên cứu về



7
con người trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa, đổi mới ở
nước ta, dựa vào đó các nhà QLGD có thể đưa ra những biện pháp hữu hiệu hơn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
những biện pháp QL công tác GDĐĐ của Hiệu trưởng trường THPT trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên một tỉnh giàu truyền thống cách mạng và có nhiều tiềm năng
về phát triển kinh tế .
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Bất kì lao động nào của xã hội hay cộng đồng ở một quy mô tương đối
lớn đều cần một chừng mực nhất định của hoạt động QL. Vì thế Các- Mác đã
khẳng định: “Tất cả mọi người lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để
điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát
sinh từ sự vận động những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm
thì tự mình điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng ”.
[31]
Bản chất của QL là họat động lao động để điều khiền lao động, một hoạt
động tất yếu và vô cùng quan trọng của XH loài người. Nó bắt nguồn từ lao
động và tồn tại với tư cách là một loại lao động điều khiển mọi hoạt động XH
về kinh tế, chính trị, văn hoá, GD,… Các loại hình lao động ngày càng phong
phú, phức tạp thì hoạt động QL ngày càng có vai trò quan trọng có những chức
năng đặc biệt và phải luôn được thay đổi phù hợp, thích ứng với lao động xã
hội. Do vậy người ta thường nói: “QL là nghiệp xưa nhất nhưng cũng là nghề
mới nhất”.
Quản lý ra đời nhằm tạo ra một hiệu quả lao động cao hơn so với việc
làm của từng cá nhân riêng lẻ của một nhóm người khi họ tiến hành các công
việc có mục tiêu chung với nhau. Quản lý phải trả lời câu hỏi. Phải đạt mục tiêu

nào? Đạt mục tiêu đó bằng cách nào? Phải mở rộng ảnh hưởng của tổ chức bằng


8
cách nào? Phải thu hút lôi kéo thêm ai vào tổ chức và bằng cách nào để họ phát
huy hết tài năng trong quá trình làm việc?
Quản lý là một khái niệm rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau,vì vậy
khái niệm về quản lý khi được đưa ra luôn gắn với các loại hình quản lý cụ thể.
Sau đây là một số quan niệm :
+Theo tác giả Trần Đình Nghiêm: “Quản lý là một quá trình dựa vào
các quy luật khách quan vốn có của hệ thống để tác động đến hệ thống nhằm
chuyển hệ thống đó sang một hệ thống mới”. [22]
+Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý là hệ thống là một quá trình tác động đến
hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”. [14]
+ Theo Nguyễn Văn Lê : “Quản lý là một hệ thống tác động khoa học, nghệ
thuật vào từng thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được
các mục tiêu đề ra của hệ thống và cho từng thành tố của hệ thống”. [16]
+Theo đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì : “Quản lý là tổ chức
điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan”. [30]
Quản lý là một quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con
người để đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy
luật khách quan bằng các phương pháp thích hợp.
Xem xét nội hàm của những khái niệm quản lý nêu trên, ta thấy quản lý là
một dạng hoạt động xã hội và tồn tại với tư cách là một hệ thống bao gồm chủ
thể, khách thể và phương tiện quản lý.
Mục đích và phương tiện là cặp phạm trù trong mối quan hệ biện chứng
của mọi hoạt động, vì thế để thực hiện được từng mục tiêu cụ thể nhằm đạt được

mục đích quản lý cần phải có phương tiện quản lý thích hợp.
Quản lý có phạm vi tác động lên khách thể rất rộng, do đó ngày nay nó
được xem là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố quyết định sự thành công


9
của sự phát triển KT- XH (vốn, nguồn lực lao động, khoa học kĩ thuật, tài
nguyên và quản lý).
Như vậy: Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ
thể lên khách thể thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả cao
nhất các nguồn lực bên trong và bên ngoài trong điều kiện môi trường luôn luôn
có biến động, để cho hệ thống ổn định và vận động theo chiều hướng phát triển
tích cực đạt được những mục tiêu đề ra.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục ở trong và
ngoài nước, những kết quả nghiên cứu ấy đã được ứng dụng rộng rãi trong xã hội
đặc biệt là trong ngành giáo dục và đã mang lại những kết quả nhất định.
Trên thực tế khái niệm quản lý giáo dục được hiểu theo cả hai nghĩa,
nghĩa rộng và nghĩa hẹp tuỳ theo phạm vi áp dụng của từ “Giáo dục”.
Quản lý giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng khi “Giáo dục” là hoạt động
diễn ra ngoài xã hội. Còn khi “Giáo dục” được diễn ra trong ngành GD thì quản
lý GD được hiểu theo nghĩa hẹp.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm QLGD chúng ta xem xét một số quan điểm sau:
+ Theo Phạm Minh Hạc: “QL giáo dục là QL trường học, thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. [11]
+Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công tác giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ
theo yêu cầu phát triễn xã hội”. [1]

Quản lý GD với đặc trưng cơ bản là quản lý con người, nên đòi hỏi phải có
tính khoa học và có tính nghệ thuật cao. Hiệu qủa quản lý giáo dục được đo bằng
kết quả thực hiện các mục tiêu quản lý trong đó mục tiêu giáo dục là cơ bản.
Để thực hiện mục tiêu đã định, đảm bảo sự ổn định và phát triển của hệ
thống giáo dục, người quản lý giáo dục phải thực hiện bốn chức năng cơ bản là:


10
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Đó chính là những nội dung phương
thức hoạt động mà trong quá trình quản lý, chủ thể sử dụng nhằm tác động đến
các đối tượng để thực hiện mục tiêu quản lý .
QL GD được tồn tại dưới hai cấp độ quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
QL vĩ mô là QL nhà nước mà cơ quan trực tiếp là Bộ giáo dục - Đào tạo, sở
giáo dục đào tạo, quản lý giáo dục ở tầm vi mô là quản lý trường học.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là QLGD theo nghĩa hẹp ở tầm vi mô, là quá trình tác
động có định hướng, có kế hoạch của Hiệu trưởng nên tất cả các nguồn lực
nhằm đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo nguyên lí giáo dục của Đảng,
mà trọng tâm của nó là đưa hoạt động dạy học tiến lên trạng thái mới về chất.
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên, HS và các lực
lượng giáo dục cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục và đào tạo
trong nhà trường”[29].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là quản lý hệ thống xã
hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có
khoa học và có định hướng của chủ thể quản lý trên tất cả các mặt đời sống của
nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu về mặt xã hội, kinh tế và tổ chức sư
phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ trẻ đang lớn lên” [23].
Quản lý nhà trường thực chất là quản lý của HT trên tất cả các hoạt động
diễn ra trên trường đó, như quản lý dạy - học, quản lý hoạt động GDĐĐ, hoạt

động GD ngoài giờ lên lớp, QL hoạt động XH, đồng thời quản lý việc sử dụng
cơ sở vật chất, kĩ thuật, tài chính nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng
yêu cầu của xã hội.
Như vậy quản lý nhà trường cơ bản không giống với quản lý các lĩnh vực
khác, vì đối tượng là con người, con người biết năng động và sáng tạo, sản
phẩm của GD là tri thức, là nhân cách của HS, mục tiêu của GD phổ thông là
giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản


11
nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và
trách nhiệm của công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động sản xuất, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Quản lý nhà trường là một hoạt động dựa trên những qui luật chung của
quản lý, đồng thời có những nét đặc thù riêng của giáo dục, người HT phải biết
vận dụng sáng tạo và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt đông của nhà trường đó.
Qua những khái niệm và phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng:
Quản lý nhà trường là quản lý của HT trong quá trình “dạy chữ” và “dạy
người”, đưa hoạt động dạy học ngày càng dần đến mục tiêu GD của Đảng, là
quá trình đào tạo thế hệ trẻ có những phẩm chất, đạo đức, năng lực và sức khoẻ
để kế tục sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu của xã hôi.
1.2.4. Đạo đức
Sống trong xã hội dù muốn hay không con người vẫn phải có quan hệ trực
tiếp hoặc gián tiếp với những người xung quanh. Các quan hệ ấy vô cùng phong
phú và phức tạp, đòi hỏi con người phải có cách ứng xử giao tiếp và thường
xuyên điều chỉnh thái độ, hành vi của mình sao cho phù hợp với yêu cầu, chuẩn
mực và lợi ích chung của XH. Trong trường hợp này con người được xem là có
đạo đức. Ngược lại, những cá nhân biểu hiện thái độ, hành vi không phù hợp với
chuẩn mực XH, với cộng đồng, vì lợi ích cá nhân gây nên tổn hại lợi ích của
người khác, của XH, bị cộng đồng lên án, chê trách thì người đó coi là vô đạo

đức
Đạo đức liên quan chặt chẽ đến phạm trù chính trị, pháp luật, nhưng khác
với pháp luật, ĐĐ là phạm trù vĩnh cửu, nó được xuất hiện và tồn tại cùng với
xã hội loài người, còn pháp luật là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong xã
hội có giai cấp. Vì thế người ta nói : Pháp luật thống trị con người chỉ một thời
gian, còn ĐĐ thống trị con người mãi mãi. Ta nghiên cứu một số quan niệm:
+Theo Phạm Minh Hạc: “Đạo đức là thành phần căn bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách của một cấ nhân đã được xã hội hoá” .{11}


12
+Theo Phạm Khắc Chương: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh những tồn tại xã hội, phản ánh những quan hệ XH hiện thực trên cơ sở kinh
tế. Sự phát triển của đạo ĐĐ xã hội từ thấp đến cao như những nấc thang giá trị
của văn minh con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật chất và thông
qua sự đấu tranh gạn lọc, kế thừa mà nội dung ĐĐ ngày càng phong phú và hồn
nhiên hơn”[3]
Theo từ điển tiếng việt “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc
qui định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với XH, là những
phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức của một giai
cấp nhất định”.[30]
Khi bàn về ĐĐ chúng ta không thể không nói đến các quan điểm ĐĐ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người quan niệm đạo đức là Nhân- Nghĩa- Trí - –Dũng
- Liêm. Đó là ĐĐ cách mạng, đạo đức mới XHCN luôn vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc và của lòng người. Theo Người đạo đức là thống nhất giữa tư
tưởng và cách sống.
Tuy có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng chúng ta có thể khái quát như
sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, chuẩn
mực, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của con người trong mối quan hệ với
nhau, quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền

thống và sức mạnh của dư luận xã hội .
Ở Việt Nam chúng ta hiện nay đang thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, giao lưu, hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.
Do vậy khái niệm ĐĐ cũng đang thay đổi theo tư duy nhận thức, theo quan niệm
và cách nhìn nhận của từng thành viên trong cộng đồng XH. Định hướng giá trị
ĐĐ hiện nay phải theo đúng đường lối lãnh đạo của Đảng, là sự kết hợp sâu sắc
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với xu thế tiến bộ của thời đại, của nhân loại.
Nguồn gốc của giá trị ĐĐ là tinh thần cần cù lao động, sáng tạo, là tình yêu quê
hương đất nước gắn với yêu CNXH, Sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có
tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả, phấn đấu để đạt được phẩm giá con


13
người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Cần-Kiệm -Liêm-Chính-Chí công
vô tư”.
Đạo đức có ba chức năng cơ bản đó là: Nhận thức, giáo dục và điều chỉnh
hành vi, trong đó chức năng điều chỉnh hành vi là quan trọng nhất.
* Về chức năng nhận thức: Đạo đức là công cụ giúp con người nhận thức
xã hội về mặt đạo đức, các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực là kết quả của sự
phản ánh tồn tại xã hội, được mọi người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành
những khuôn mẫu, thước đo các giá trị xã hội.
* Chức năng giáo dục: Trên cơ sở nhận thức về đạo đức, chức năng giáo
dục giúp con người hình thành những phẩm chất nhân cách, hình thành hệ thống
định hướng giá trị và chuẩn mực ĐĐ, điều chỉnh ý thức và hành vi con người.
* Điều chỉnh hành vi: Cùng với chức năng GD, chức năng điều chỉnh hành
vi ĐĐ có tác dụng làm cho hoạt động của con người phù hợp với lợi ích của xã hội,
của cộng đồng, biến yêu cầu ĐĐ của XH thành nhu cầu của bản thân.
1.2.5. Giáo dục đạo đức
GDĐĐ là quá trình tác động của con người GD đến đối tượng được GD,
nhằm biến hệ thống các chuẩn mực đạo đức, từ đòi hỏi bên ngoài của XH đối

với cá nhân, thành những đòi hỏi bên trong, thành nhu cầu, niềm tin và thói
quen của cá nhân đó - Cá nhân được GD. Đó là quá trình hình thành những quan
điểm cơ bản, những nguyên tắc chuẩn mực của xã hội, nhờ vậy mà con người có
khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức trong cộng đồng
cũng như tự đánh giá các hành vi của bản thân mình. Công tác GDĐĐ góp phần
vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người phù hợp với từng giai
đoạn phát triển cụ thể.
Bất cứ ở thời đại nào, dưới chế độ nào thì việc GDĐĐ cho thế hệ trẻ cũng
luôn luôn là tâm điểm chú ý của mọi thành viên trong xã hội. Trước đây nhiều
người cho rằng khi kinh tế phát triển, XH văn minh thì các mối quan hệ XH sẽ
tốt đẹp hơn, quan hệ giữa con người với con người mang tính nhân văn hơn.
Thế nhưng ngày nay, khi xã hội phát triển, đời sống tương đối ổn định thì


14
nhưĩng dấu hiệu suy thoái ĐĐ lại xuất hiện ngày càng nhiều thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Hiện nay có không ít những người không thống nhất giữa
nhận thức và hành động, biết việc sai, việc phi đạo đức mà vẫn cứ làm, biết việc
đúng, việc nghĩa nhưng vẫn không làm, tạo thành thói quen “ hành vi không
hành động, kìm hãm sự phát triển của xã hội ” .
Chính vì vậy mà việc GDĐĐ cho học sinh THPT là việc làm cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. Đó là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch
nhằm giúp cho nhân cách của mỗi HS được phát triển vẹn toàn, có những hành
vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ, hình thành và phát triển ý thức, tình
cảm, niềm tin, thói quen đạo đức cho học sinh .
Quá trình GDĐĐ cho HS bao gồm nhiều tác động của nhiều nhân tố
khách quan, chủ quan, bên ngoài lẫn bên trong. Có thể nói rằng có bao nhiêu
mối quan hệ ở trong nhà trường và xã hội mà HS tham gia, hoạt động, giao tiếp,
thì có bấy nhiêu tác động GDĐĐ. Những tác động này có thể thống nhất nhằm
tăng cường, hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh trong quá trình GD, nhưng cũng

có thể mâu thuẫn, làm vô hiệu hoá, suy yếu các kết quả tác động. Như vậy
GDĐĐ chỉ đạt hiệu quả khi nhà sư phạm biết tổ chức, biết kế hoạch và đưa ra
các biện pháp GD một cách hợp lí nhằm đạt được mục tiêu GD.
Ngày nay GDĐĐ cho học sinh là đạo đức XHCN. Đó là tận trung với
Đảng, tận hiếu với dân, yêu quê hương, đất nước, có lòng vị tha, nhân ái, cần cù,
tiết kiệm, liêm khiết, công minh, chính trực. Đó là GD truyền thống tốt đẹp của
ông cha ta qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, GD bản sắc văn hoá của
các dân tộc Việt Nam .
Về mục tiêu GDĐĐ cho học sinh ở trường THPT là giúp cho mỗi cá nhân
nhận thức đúng đắn các giá trị ĐĐ, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và
nhân đạo, biết sống vì mọi người, vì gia đình, vì sự tiến bộ của xã hội và phồn
vinh của đất nước.Trong đó mục tiêu quan trọng nhất của GDĐĐ là tạo lập
được những thói quen hành vi đạo đức.


15
Về nhiệm vụ GDĐĐ là làm sao cho mỗi con người được GD nhanh
chóng tiếp cận được với mục tiêu, do vậy GD phải tăng cường GD ý thức ĐĐ
tình cảm đạo đức, khơi dậy ở HS những rung động, cảm xúc với hiện thực xung
quanh biết yêu thương với những thái độ và hành vi đúng đắn, biết phản đối,
căm ghét những hiện tiêu tiêu cực, vô đạo đức, vô lương tâm, làm phương hại
đến uy tín, danh dự cá nhân và tập thể.
Về nội dung GDĐĐ là giáo dục ý thức, GD tình cảm và GD hành vi,
trang bị cho HS những hiểu biết, niềm tin về chuẩn mực và những quy tắc ứng
xử trong cuộc sống, trong học tập và lao động, về nghĩa vụ công dân trong việc
xây dựng và việc bảo vệ tổ quốc.
Về phương pháp giáo dục đạo đức thì nhà giáo dục thường chia làm ba
nhóm chính đó là:
Nhóm phương pháp thuyết phục, nhóm phương pháp tổ chức hoạt động
và nhóm phương pháp kích thích hành vi.

+ Nhóm phương pháp thuyết phục là nhóm phương pháp tác động vào
mặt nhận thức và tình cảm của con người để hình thành ở họ ý thức thái độ tốt
đẹp đối với cuộc sống. Nhóm này gồm các phương pháp như khuyên giải, tranh
luận, nêu gương, …
+ Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động là nhóm phương pháp đưa con
người vào hoạt động thực tiễn để tập dượt, rèn luyện tạo nên các hành vi thói
quen. Nhóm này có các phương pháp như luyện tập , rèn luyện,…
+ Nhóm các phương pháp kích thích hành vi là nhóm các phương pháp
tác động vào mặt tình cảm của đối tượng được giáo dục, nhằm tạo ra các phấn
chấn, thúc đẩy tích cực hoạt động, đồng thời giúp cho những người có khuyết
điểm nhận ra và khắc phục những sai lầm đó. Nhóm này có các phương pháp
như
khen thưởng, trách phạt, thi đua,
Phương pháp GDĐĐ là rất đa dạng, nhà giáo dục cần phải biết vận
dụng linh hoạt sao cho phù hợp với đối tượng và mục đích giáo dục trong


16
từng tình huống cụ thể. Chính vì vậy mà người ta nói rằng giáo dục mang
tính nghệ thuật cao.
Về hình thức tổ chức giáo dục đạo đức có thể thông qua việc dạy các bộ
môn, thông qua lao động, sinh hoạt và các hoạt động khác, và cả con đường tự
rèn luyện, tự tu dưỡng, tự giáo dục để phát triển nhân cách.
Nghị quyết TW 2 khoá VIII có viết: “Nâng cao nhận thức chính trị, hiểu rõ
các yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH. Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, gắn liền với sự
nghiệp đổi mới của nước nhà. Có nhân sinh quan trong sáng, có quan điểm rõ
ràng về lối sống, thích ứng với yêu cầu của giai đoạn mới ”[7]
1.3. Hoạt động GDĐĐ cho HS THPT là hoạt động có ý nghĩa then chốt
trong nhà trƣờng

1.3.1. Tầm quan trọng của trường THPT trong công tác GDĐĐ cho học sinh
trong giai đoạn hiện nay.
Bất kì một nền giáo dục, một hệ thống giáo dục quốc dân nào cũng phải
có bậc THPT. Tuy nhiên số năm học, chương trình giảng dạy và phương pháp
giáo dục ở mỗi nước có khác nhau. Chúng ta có thể khẳng định rằng : Bậc
THPT có vai trò quan trọng, giữ vị trí đặc biệt trong giáo dục. Đây chính là bậc
học tạo nguồn chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp, hoặc là bước vào đời theo hướng lao động, sản xuất. Trường
THPT là nơi chuẩn bị hành trang thiết yếu, cơ bản nhất cho các em trở thành
người công dân có ích cho xã hội.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là công việc của toàn xã hội, kết hợp chặt
chẽ của ba lực lượng GD, Song nhà trường vẫn là lực lượng quan trọng nhất.
Bởi lực lượng giáo dục trong nhà trường là một đội ngũ thầy cô giáo đã được
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, và giáo dục nhà trường luôn có tổ chức, có
phương pháp, có chương trình, mục tiêu. Giáo dục đạo đức trong trường THPT
là một bộ phận quan trọng trong quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ biện


17
chứng với các bộ phận: Đức-Trí-Thể-Mỹ và lao động, giúp học sinh hình thành
và phát triển nhân cách toàn diện.
1.3.2. Một số đặc điểm tâm lí, nhân cách, hoạt động của học sinh THPT
Học sinh THPT là lứa tuổi đầu của tuổi thanh niên, là giai đoạn có những
đặc điểm sinh lí phát triển mạnh. Tuổi dậy thì ở các em là thời kì xảy ra những
mãnh liệt về tâm lý và cũng là thời kì then chốt của sự phát triển nhân cách, các
em phải ứng xử với những thay đổi to lớn trong môi trường học tập khi chuyển
từ THCS lên bậc THPT và rất nhiều những yêu cầu mới của xã hội, dẫn đến
những biến động về tâm lí. Những đặc điểm chung của lứa tuổi dễ thấy là :
+ Về mặt thể lực và trí lực .
Có thể nói đây là thời kì hoàn kim của quá trình phát triển thể lực và trí

lực. Khả năng phân tích, tổng hợp, phán đoán và suy luận được nâng cao, thân
hình phát triển, chuyển hoá trong cơ thể mạnh mẽ, sinh lực dồi dào, hiếu động
chân tay, trong hoạt động thi đua luôn thể hiện tính ganh đua, thách đố, cùng
với sự tự cao, ý thức hơi thái quá, nôn nóng, tạo ra sự bất kham, thích mạo
hiểm, luôn muốn thử sức để bộc lộ nguyện vọng mãnh liệt của bản thân. Đây là
thời kì mà các em muốn tỏ rõ người thanh niên cường tráng, có lí tưởng có trí
tiến thủ .
Xuất phát từ quá trình phát triển trí lực và thể lực của học sinh, nhà
trường cần tổ chức tốt những hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, vui
chơi giải trí có hình thức và nội dung phong phú, phù hợp với lứa tuổi nhất là tổ
chức các đợt thi đua để các em được phấn đấu, được thể hiện mình trước tập thể
nhằm thu hút các em hướng vào những nội dung hoạt động bổ ích, có tính GD,
theo chuẩn mực của xã hội .
+ Về mặt tính cách .
Là thời kì của sự bộc lộ hết sức mạnh mẽ về tính cách, các trạng thái tâm
lí rất không ổn định, dễ chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác từ tích cực
sang tiêu cực, yêu và ghét, vui vẻ và buồn chán luôn đan xen, thay đổi thất
thường. Tính khí thất thường là vì ở tuổi này chức năng nội tiết phát triển mạnh


18
nhưng tác dụng ức chế của vỏ não thì chưa tới mức hoàn hảo. Vì vậy nhà trường
cần phải thông qua các môn học, nhất là môn GDCD, qua các hoạt động GD
khác, nhằm trang bị cho các em những kiến thức, chuẩn mực về ĐĐ, về pháp
luật, về những nguyên tắc ứng xử, giao tiếp trong gia đình, trong nhà trường và
ngoài xã hội .
+ Về mặt phát triển ý thức đạo đức
Đây là giai đoạn các em đã có cảm nghĩ mình là người lớn vì vậy tính tự
giác cũng được nâng cao nhanh chóng luôn hướng về phía trước, về lẽ phải, có
ý thức tìm kiếm cái cốt lõi của cuộc sống, ý thức XH cũng được thể hiện rõ nét,

rất nhạy bén với những biến động XH, dám nghĩ dám làm, dám nói lên ý kiến
và nhận định của bản thân, khao khát được mọi người đánh giá cao về mình,
quan tâm đến sự phát triển tài năng của bản thân và thường xuyên trao dồi phẩm
chất ĐĐ, khả năng tự kiềm chế dần được nâng cao, hành vi thiếu tự chủ được
giảm bớt, biết khép mình vào khuôn phép XH. Tuy nhiên với kinh nghiệm sống
chưa nhiều các em dễ bị cám dỗ, và ảnh hưởng những tác động xấu của ngoại
cảnh.
+ Về mặt tâm lí giới tính
Giai đoạn từ 15-17 tuổi là giai đoạn mà các em rất thích biểu hiện mình
trước bạn khác giới, thích làm dáng, làm điệu. Hiện tượng phát dục ở các em đã
đưa đến những biến đổi về mặt sinh lí dẫn đến những biến đổi về tâm lí, các em
ý thức được sự khác biệt về giới tính và nảy sinh “tình cảm” trong quan hệ,
ngưỡng mộ nhau trong giao tiếp. Trong các em bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt
giữa nhu cầu hứng thú, sở thích cá nhân với khả năng vốn có cộng với những
quy tắc, quy phạm chặt chẽ của xã hội .
Tác giả Phạm Khắc Chương đã khẳng định :“Các em là những nhân
cách đang vươn lên để trở thành người công dân, các em vừa là đối tượng
mang tính đặc thù của lứa tuổi, vừa là chủ thể của GDĐĐ. Trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách học sinh THPT đã có đầy đủ các điều
kiện cơ bản về nhận thức, ý thức, hoạt động, Để biến quá trình đào tạo


19
thành quá trình tự đào tạo, quyết định kết quả phát triển tài đức cá nhân.
Tuy nhiên với kinh nghiệm, vốn sống của cá nhân chưa nhiều, học sinh
THPT dễ chao đảo trong hành vi hoạt động của mình”.[3]
Trong thực tế, có không ít thanh niên năng nổ, nhiệt huyết, dũng cảm,
nhưng vì nhận thức chưa chín, sức kiềm chế kém, dễ bị kích động, dễ đi đến
những hành động cực đoan, thậm chí vượt qua cả rào chắn của lí trí dẫn đến
những hành động thô bạo bất chấp hậu quả cho bản thân và xã hội.

Qua những đặc điểm tâm lý, tính cách trên cho ta nhận thấy nếu chỉ
có giáo dục từ một phía nhà trường thì không thể quán xuyến hết toàn bộ
cuộc sống sinh hoạt và hoạt động của chủ thể đang trưởng thành, không thể
loại trừ được các nhóm tự phát với những đặc tính lứa tuổi mà cần có sự kết
hợp GD của nhiều lực lượng, tác động từ nhiều phía với những hoạt động đa
dạng nhằm thúc đẩy và phát huy được tính tích cực của thế hệ trẻ.
1.3.3. Một số quan điểm của Đảng về GDĐĐ cho học sinh nhà trường THPT
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài làm điều gì cũng khó ” .
Đức và tài là hai mặt thống nhất trong một con người, trong đó đức là cái
gốc, cái quan trọng nhất. Đạo đức mà con người Vệt Nam cần xậy dựng là
“Cần-Kiệm-Liêm-Chính”. Bác nói :
“Trời có bốn mùa : Xuân-Hạ-Thu-Đông
Đất có bốn phương : Đông-Tây-Nam-Bắc
Người có bốn đức : Cần-Kiệm-Liêm-Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Nghị quyết TW2 khoá VIII đã cụ thể hoá : “Mục tiêu chủ yếu là thực hiện
GD toàn diện, đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi
trọng GD chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực
hành”. Nghị quyết còn nhấn mạnh phải coi đầu tư cho GD là đầu tư cơ bản, quan

×