Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông dân lập Mikhain Vaxilêvich Lômônôxốp, huyện Từ Liêm, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 113 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM



VÕ THỊ MAI HIỀN




BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG DÂN LẬP MIKHAIN VAXILÊVICH
LÔMÔNÔXỐP, HUYỆN TỪ LIÊM, HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC







HÀ NỘI - 2008



đại học quốc gia hà nội
khoa s- phạm




võ thị mai hiền





biện pháp quản lý hoạt động giáo dục h-ớng nghiệp
cho học sinh tr-ờng trung học phổ thông dân lập
mikhain vaxilêvich lômônôxốp, huyện từ liêm, hà nội



luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
Chuyên ngành: quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Nhật Thăng



Hà Nội - 2008


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



Bộ GD - ĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
CBQL
Cán bộ quản lý

Cao đẳng
DN
Dạy nghề
ĐH
Đại học
ĐHQGHN
Đại học quốc gia Hà Nội
ĐHSPHN
Đại học Sư phạm Hà Nội
HS
Học sinh
KTTH-HN
Kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp
THCN
Trung học chuyên nghiệp
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TP
Thành phố
UBND
ủy ban nhân dân




MỤC LỤC



Trang
MỞ ĐẦU

1.
Lý do chọn đề tài
1
2.
Mục đích nghiên cứu
3
3.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4.
Phạm vi nghiên cứu
3
5.
Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6.
Giả thuyết khoa học
4
7.
Phương pháp nghiên cứu

4
8.
Điểm mới của đề tài
5
9.
Cấu trúc luận văn
5
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
6
1.1.
Một số khái niệm công cụ
6
1.1.1.
Hướng nghiệp
6
1.1.2.
Giáo dục hướng nghiệp
8
1.1.3.
Biện pháp
14
1.1.4.
Quản lý
14
1.1.5.
Quản lý nhà trường
18
1.1.6.
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp

18
1.1.7.
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
19
1.2.
Đặc điểm của loại hình trường dân lập
19
1.3.
ý nghĩa của giáo dục hướng nghiệp đối với mục tiêu giáo
dục học sinh Trung học phổ thông hiện nay
20


1.3.1.
Mục tiêu của giáo dục Trung học phổ thông
20
1.3.2.
ýnghĩa của giáo dục hướng nghiệp đối với thực hiện mục
tiêu giáo dục phổ thông
21
1.4.
Mục tiêu, nội dung của quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp đối với giáo dục Trung học phổ thông
23
1.4.1.
Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
23
1.4.2.
Nội dung quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp hiện
nay trong trường Trung học phổ thông

25

Kết luận chương 1
27
Chương 2: thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh trường trung học phổ thông dân lập lômônôxốp
28
2.1.
Vài nét về trường THPT dân lập Lômônôxốp huyện Từ
Liêm, Hà Nội
28
2.1.1.
Quá trình hình thành và phát triển trường
28
2.1.2.
Nhiệm vụ đào tạo
28
2.1.3.
Thành tích đào tạo
29
2.1.4.
Những vấn đề khó khăn
29
2.1.5.
Kế hoạch những năm tới
29
2.2.
Nhận thức của học sinh, cán bộ giáo viên và phụ huynh học
sinh trong nhà trường về giáo dục hướng nghiệp
30

2.2.1.
Nhận thức của học sinh
30
2.2.2.
Nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về vấn đề giáo dục
hướng nghiệp
40
2.2.3.
Nhận thức của phụ huynh học sinh về vấn đề giáo dục hướng
nghiệp
42
2.3.
Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của
trường hiện nay
43


2.3.1.
Vài nét về thực trạng giáo dục hướng nghiệp ở các trường
Trung học phổ thong hiện nay
43
2.3.2.
Thực trạng xây dựng mục tiêu, nội dung quản lý giáo dục
hướng nghiệp
46
2.4.
Thực trạng về xây dựng cơ sở vật chất dành cho giáo dục
hướng nghiệp
48
2.5.

Đánh giá chung về thực trạng quản lý giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trường trong những năm vừa qua
48
2.5.1.
Các kết quả đạt được
48
2.5.2.
Những mặt còn yếu
49

Kết luận chương 2
49
Chương3: biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông dân lập mikhain
vaxilêvich lômônôxốp, huyện từ liêm, hà nội
50
3.1.
Những nguyên tắc cơ bản của quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp
50
3.1.1.
Nguyên tắc tập trung dân chủ
50
3.1.2.
Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích
50
3.1.3.
Nguyên tắc sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lý
50
3.2

Các căn cứ để đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động
giáo dục hướng nghiệp
51
3.2.1.
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục
hướng nghiệp phục vụ công tác, phân luồng học sinh trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng
cường quản lý giáo dục
51
3.2.2.
Căn cứ vào các yêu cầu của công tác hướng ngiệp trong
chiến lược giáo dục (2001-2010)
53
3.3.
Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
55


3.3.1.
Biện pháp 1: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng
cao nhận thức của cán bộ, giáo viên và phụ huynh và học
sinh về giáo dục hướng nghiệp
55
3.3.2.
Biện pháp 2: Đổi mới công tác lập kế hoạch và công tác
kiểm tra của ban giám hiệu nhà trường nhằm đáp ứng được
nhu cầu học tập của học sinh trong trường và nhu cầu nhân
lực của các doanh nghiệp trên địa bàn nơi trường đóng
60
3.3.3.

Biện pháp 3: Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ dạy hướng nghiệp cho cán bộ quản lý và giáo viên của
nhà trường
62
3.3.4.
Biện pháp 4: Tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra và quản lý
nhà nước đối với trường Trung học phổ thông về công tác
giáo dục hướng nghiệp
64
3.3.5.
Biện pháp 5: Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục hướng nghiệp
65
3.3.6.
Biện pháp 6: Tăng cường cơ sở vật chất
67
3.4.
Khảo nghiệm một số biện pháp
68
3.4.1
Nội dung phiếu hỏi ý kiến
68
3.4.2.
Đối tượng được hỏi ý kiến
69

Kết luận chương 3
72
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
73
1.

Kết luận
73
2.
Khuyến nghị
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
PHỤ LỤC




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, học sinh phổ thổng ra trường thường chọn nghề một cách
ngẫu nhiên, theo cảm tính, không có hiểu biết cần thiết về nghề mà mình định
lựa chọn, thiếu ý thức đúng đắn về ngành nghề; do đó, thiếu ý thức phấn đấu
vươn lên trong nghiệp vụ, thậm chí có học sinh bỏ nghề, ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, vừa lãng phí công lao đào tạo của
nhà nước, vừa có hại cho sự phát triển của cá nhân. Ngoài số học sinh được
đào tạo chính quy, số học sinh tốt nghiệp ở các hệ đào tạo khác nhau sau khi
chủ yếu ra trường tham gia xây dựng quê hương, phần lớn những học sinh
này không yên tâm công tác, sản xuất, mà tư tưởng phổ biến là muốn thoát li
nông thôn, bám lấy thành thị, thiếu năng lực cần thiết để có thể lao động
ngay, không qua trường nghề, tạo ra trong xã hội tình trạng vừa thừa lại vừa
thiếu lao động và là trở ngại lớn cho việc phân công và sử dụng hợp lý học
sinh các cấp khi ra trường.
Tình hình đó có nhiều nguyên nhân. Đối với ngành giáo dục, chính là
do chưa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tâm thế sẵn sàng đi vào lao động sản xuất,

chưa giúp cho học sinh có những hiểu biết nhất định về các ngành, nghề chủ
yếu, nghề cơ bản của đất nước, nhất là nghề truyền thống và phổ biến ở địa
phương, đồng thời chưa tạo cho thế hệ trẻ năng lực và phẩm chất cần thiết để
có thể tham gia lao động ngay khi ra trường.
Từ thực tế đó công tác hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ
thông hiện nay đang là một vấn đề bức xúc của cả xã hội, nó chiếm một vị trí
quan trọng trong việc phân công lao động xã hội, trong phát triển nguồn nhân
lực của cả nước. Giáo dục hướng nghiệp có vai trò quan trọng không chỉ đối
với xã hội mà nó còn ảnh hưởng đến từng cá nhân, từng gia đình. Chính vì
vậy Đảng ta đã xác định: “Cần tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa giáo dục
hướng nghiệp, mở rộng và phát triển các trường dạy nghề…” Trong báo cáo


2
Chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Ở mọi cấp học, bậc
học, kết hợp dạy và học lý thuyết với thực nghiệm và thực hành, gắn công tác
đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất Nhà trường và cơ sở đào tạo
phối hợp với các tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật để truyền bá tri
thức sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho nhân dân. Coi trọng công tác
hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh Trung học, chuẩn bị cho thanh,
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Nhanh chóng hiện đại hóa một số
trường dạy nghề, tăng tỷ lệ đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến
khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề, dân lập, tư thục trang bị cho
thanh niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu
công nghệ mới, để tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập thân, lập
nghiệp”.
Khi cả nước đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả thế
giới đã và đang bước vào nền kinh tế tri thức, sự chuyên môn hóa trong sản
xuất ngày càng ở trình độ cao thì rất cần nguồn lao động có trình độ, có

năng lực, đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó thì hệ
thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục ở bậc Trung học phổ thông cần giúp các
em có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, chính xác phù hợp với khả năng, sở
thích của bản thân và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhằm tránh tình trạng
đào tạo lệch lạc, tránh lãng phí trong đào tạo, đồng thời nâng cao năng suất
lao động. Chính vì vậy hệ thống giáo dục của nước ta đã và đang có sự phân
luồng học sinh, bắt đầu quan tâm đến hướng nghiệp cho học sinh THPT, nhất
là ở những lớp cuối cấp.
Về phía học sinh, hầu hết học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông đều
cảm thấy khó khăn khi phải tự lựa chọn nghề nghiệp, các em thường chọn
nghề theo cảm tính: thấy trường nào hay khoa nào hay hoặc ít người thi thì
đăng ký làm hồ sơ thi, không cần biết ra trường sẽ xin việc ra sao, không cần
biết sau này công việc của mình là như thế nào, liệu có phù hợp với năng lực


3
và phẩm chất của mình không và cũng không cần biết mình có yêu nghề đó
không. Chính vì vậy công tác giáo dục hướng nghiệp cần phải có hiệu quả
nhất định nhưng muốn vậy thì cần phải có những biện pháp quản lý một cách
khoa học, hiệu quả.
Ở trường Trung học phổ thông Dân lập Lômônôxốp hiện nay, giáo
dục hướng nghiệp cũng đã được quan tâm và đã thu được một số kết quả nhất
định, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, vì vậy giáo dục hướng nghiệp
của trường chưa đạt kết quả cao.
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp của trường,
vì vậy chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trường THPT Dân lập Lômônôxốp huyện Từ
Liêm, Hà Nội ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận giáo dục hướng nghiệp và quản lý giáo

dục hướng nghiệp, tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông ở huyện Từ Liêm, đề xuất
những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường
THPT, trong đó có trường THPT Dân lập Lômônôxốp
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường Trung
học phổ thông
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường
Trung học phổ thông Dân lập Lômônôxốp ở huyện Từ Liêm, Hà Nội
4. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung: Nghiên cứu quản lý hoạt động Giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trong trường Trung học phổ thông.
- Giới hạn đối tượng khảo sát:


4
+ Nghiên cứu trên 300 học sinh ở 3 khối 10, 11, 12 trong trường Trung
học phổ thông Dân lập Lômônôxốp huyện Từ Liêm
+ 45 giáo viên, cán bộ quản lý của trường và TTKTTH-HN số 5.
+ 20 cha mẹ học sinh của trường.
- Giới hạn thời gian: Nghiên cứu trong 3 năm học 2004-2007
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông nói chung
- Tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh ở trường Trung học phổ thông Dân lập Lômônôxốp, huyện Từ
Liêm.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp

cho học sinh Trung học phổ thông ở trường THPTDL Lômônôxốp
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, học sinh trường Trung học phổ thông Dân lập Lômônôxốp,
huyện Từ Liêm nói riêng và các trường Trung học phổ thông nói chung ở Hà
Nội chưa nhận thức đầy đủ về nghề nghiệp. Vì vậy các em gặp rất nhiều khó
khăn trong việc lựa chọn nghề cho tương lai.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là do công tác quản lý hoạt động
giáo dục hướng nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Nếu xây dựng được
hệ thống các biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp trong trường có tính
khả thi phù hợp với quy luật, phù hợp với thực tế thì sẽ nâng cao được hiệu
quả công tác giáo dục hướng nghiệp cho các em.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+ Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan
đến đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:


5
+ Điều tra bằng phiếu hỏi.
+ Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn.
+ Quan sát, dự giờ các sinh hoạt thực tế, sinh hoạt hướng nghiệp.

7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ khác
+ Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê toán học.
+ Tổ chức khảo nghiệm.
8. Điểm mới của đề tài
- Về lý luận: Luận văn xác định những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý
hoạt động giáo dục hướng nghiệp đối với học sinh Trung học phổ thông, đặc

biệt học sinh Trung học phổ thông dân lập. Trên cơ sở đó đề xuất những biện
pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp trong hoàn cảnh hiện nay.
- Về thực tiễn: Khảo sát đánh giá thực trạng quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trường Trung học phổ thông Dân lập Lômônôxốp,
tìm nguyên nhân hạn chế quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động hướng nghiệp cho học
sinh Trung học phổ thông
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh trường Trung học phổ thông dân lập Lômônôxốp huyện Từ Liêm
Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh trường Trung học phổ thông dân lập Lômônôxốp trong
giai đoạn hiện nay






6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC HƢỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Hướng nghiệp
Với ý nghĩa là định hướng nghề nghiệp, có nhiều cách hiểu khác nhau
với tiêu chí, mục tiêu quan sát và góc độ chuyên môn khác nhau về khái niệm
hướng nghiệp:
Theo từ điển Tiếng Việt, Hướng nghiệp được hiểu là “thi hành những

biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng
lực, thể lực) nhân dân theo ngành và loại lao động” hoặc được hiểu với nghĩa
“giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề”.
Theo từ điển Giáo dục học: Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp
giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với
nguyện vọng năng lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và điều kiện thực
tế khách quan của xã hội. Công tác hướng nghiệp có ý nghĩa kinh tế xã hội
rất lớn giúp cho thanh niên có cơ hội phát huy được năng lực nâng cao được
hiệu quả lao động say mê sáng tạo trong nghề nghiệp, mặt khác giúp tránh
thay đổi nghề nghiệp nhiều lần hạn chế các hậu quả do nghề nghiệp không
phù hợp mang lại. Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông cần tiến
hành qua các môn học, các giờ lao động, các sinh hoạt ngoại khóa, các buổi
tham gia sản xuất, các cuộc gặp gỡ trao đổi với những người tiêu biểu của
các ngành nghề thông qua phim ảnh, sách báo để phát hiện nắm bắt được đặc
điểm tâm lý xu hướng nghề nghiệp của từng học sinh rồi từ đó có những gợi
ý, hướng dẫn, động viên, khuyến kích giúp các em xác định được nghề
nghiệp trong tương lai của mình. Công tác hướng nghiệp không chỉ được tiến
hành trong trường phổ thong mà còn được thực hiện ở các Trung tâm hướng
nghiệp dạy nghề, tại nhà máy, làng nghề, trang trại để thanh niên chưa có
nghề hoặc muốn chuyển nghề làm quen, thử sức và lựa chọn.


7
Theo tác giả Phạm tất Dong: “Hướng nghiệp như là một hệ thống tác
động của xã hội về giáo dục, về y học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ trẻ
chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của
cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền
kinh tế quốc dân”.
Về phương diện kinh tế học, hướng nghiệp được hiểu là hệ thống
những biện pháp dẫn dắt, tổ chức thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề

nghiệp nhằm sử dụng hợp lý tiềm năng lao động tuổi trẻ của đất nước. hướng
nghiệp góp phần tích cực vào quá trình phấn đấu nâng cao năng suất lao động
xã hội.
Theo các nhà Giáo dục học: “hướng nghiệp vừa là hoạt động dạy học
của giáo viên, vừa là hoạt động của học sinh và kết quả cuối cùng của quá
trình hướng nghiệp là sự tự quyết định của học sinh trong việc lựa chọn nghề
nghiệp tương lai”.
Xét về mặt xã hội, hướng nghiệp được hiểu trong phạm vi rộng hơn,
không phải là công việc chỉ làm một lần trong cuộc đời mỗi con người, đó là
hoạt động có tính lặp lại: xuất phát từ việc định hướng để lựa chọn một nghề,
thích ứng với nghề đó và kết quả là sự phù hợp trong quá trình hành nghề.
Tuy nhiên, do tác động của xã hội cũng như nhu cầu, hoàn cảnh của mỗi cá
nhân, mỗi con người đều có thể và cần phải thực hiện lại việc hướng nghiệp
cho bản thân trước mỗi bước ngoặt trong cuộc đời nghề nghiệp của mình.
Các nhà Luật gia thì hiểu hướng nghiệp là: “các phương tiện y học,
giáo dục và tổ chức pháp quyền nhằm xác định cho mỗi công dân có nghề và
nơi làm việc. Nội dung vạch rõ các yếu tố ảnh hưởng tới việc chọn nghề, hình
thành tổ chức và hình thành công tác giáo dục hướng nghiệp, thể chế hóa quá
trình hướng nghiệp”
Qua hàng loạt định nghĩa được tham khảo chúng tôi hiểu: Hướng
nghiệp là toàn bộ những tác động để giúp con người định hướng đến một


8
nghề hay một số nghề nhất định nhằm đảm bảo được sự phù hợp giữa khả
năng, yêu cầu của cá nhân với yêu cầu của xã hội.
Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế
giới nghề nghiệp, giúp họ phát huy được hết năng lực trong thế giới đó và có
được cuộc sống thoải mái với lao động nghề nghiệp. Từ đó chúng ta có thể
hiểu nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang tính xã hội (sự phân công

xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu cá nhân), trong đó con người với tư
cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn những nhu cầu nhất định của
xã hội và cá nhân.
Đây là công việc mà toàn xã hội phải có trách nhiệm tham gia. Trẻ em
cần được hướng nghiệp liên tục, thường xuyên, bằng nhiều hình thức, nhiều
con đường (như đài báo, câu lạc bộ…) để hướng dẫn nghề cho các em, phải
coi công tác giáo dục hướng nghiệp là quyền trẻ em. Chúng ta cần phấn đấu
để thế hệ trẻ chọn nghề theo hứng thú, sở thích và cũng mong muốn học sinh
càng ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ lao động, nhu cầu về nhân lực mà
xã hội đặt ra. Do đó hướng nghiệp phải được cả xã hội quan tâm đặc biệt
không nên để trẻ em chọn nghề tự phát và cũng không nên để số phận nghề
của học sinh phụ thuộc vào những gì hết sức ngẫu nhiên.
Hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là công việc của tất cả tập
thể sư phạm (của hiệu trưởng, hiệu phó, đoàn thanh niên, cán bộ giáo viên
trong nhà trường…). Là hoạt động dạy của thầy, học của trò, nhằm giúp các
em lĩnh hội được những thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, ở từng địa
phương, từ đó giúp các em có kỹ năng tự đối chiếu những năng lực phẩm
chất, những đặc điểm tâm sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề
nghiệp đang đặt ra cho người lao động. Công tác hướng nghiệp trong trường
phổ thông cần được thống nhất chặt chẽ với công tác hướng nghiệp trong xã
hội, hai bộ phận này quan hệ mật thiết bổ sung hỗ trợ cho nhau mới đem lại
hiệu quả cao cho công tác hướng nghiệp.


9
1.1.2. Giáo dục hướng nghiệp
Theo các nhà chuyên môn: “Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống
các biện pháp giáo dục nhằm chuẩn bị cho học sinh sớm có ý thức chọn
ngành nghề vừa phù hợp với nguyện vọng của cá nhân vừa phù hợp với sự
phân công lao động xã hội ngay từ khi còn học ở trường phổ thông”.

Hoạt động giáo dục hướng nghiệp là một quá trình kéo dài trong suốt cuộc
đời con người, bao gồm:
(1) Đối với thế hệ trẻ (Thanh thiếu niên còn đang ngồi trên ghế nhà
trường): Giáo dục hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà
trường, gia đình và xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ về tư tưởng, tâm lý,
tri thức, kỹ năng để học sinh có thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao động
sản xuất, đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong nhà trường, công tác
hướng nghiệp cho HS còn là quá trình giáo dục nhằm điều chỉnh động cơ,
hứng thú nghề nghiệp của các em nhằm giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân
với xã hội, giữa cá nhân với nghề, giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có ý
thức để đạt tới mục tiêu: giúp cho học sinh khi tốt nghiệp chọn được nghề
phù hợp với năng lực trình độ cá nhân và phù hợp với xu thế phát triển kinh
tế – xã hội. Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông không chỉ giúp
các em làm quen với lao động nghề nghiệp, mà qua đó còn phát hiện năng
khiếu và tìm hiểu khuynh hướng nghề nghiệp của từng em; hướng dẫn, bồi
dưỡng khả năng nghề nghiệp cho các em chuẩn bị vào đời.
(2) Đối với những người đang tham gia các hoạt động lao động sản
xuất: Giáo dục hướng nghiệp là quá trình điều chỉnh sự phù hợp nghề của
người đó đối với công việc mà họ đang làm. Hoạt động hướng nghiệp sẽ giúp
cho người lao động biết được những phẩm chất, đặc điểm tâm lý và sinh lý
của họ có đáp ứng với những yêu cầu cụ thể mà nghề đó đòi hỏi ở người lao
động hay không. Trong quá trình học tập, lao động và phát triển, mỗi người
đều có những biến đổi về lượng và về chất trong những yếu tố phẩm chất,
năng lực; chính vì vậy, việc di chuyển nghề để tìm đến một công việc phù


10
hợp, một cách thức làm việc đạt được hiệu quả cao hơn là hoàn toàn có thể
diễn ra trong suốt cuộc đời lao động của mỗi con người. Thông qua học tập
để nâng cao kiến thức văn hóa phổ thông, trình độ chuyên môn nghiệp vụ

hoặc học thêm nghề mới sẽ giúp cho người lao động có thêm nhiều cơ hội
tìm việc làm, đồng thời cũng có thể đối chiếu được sự thích ứng, phù hợp của
mình với nghề nghiệp đang làm hoặc các nghề nghiệp khác trong xã hội để
chuyển đổi (nếu cần).
(3) Giáo dục hướng nghiệp theo quan điểm phát triển nguồn nhân
lực: được hiểu là hoạt động giáo dục của nhà trường thông qua các hình
thức hướng nghiệp, thực hiện các nội dung hướng nghiệp để nhằm bồi
dưỡng cho học sinh được gia tăng giá trị về các mặt: kiến thức, kỹ năng,
năng lực, đồng thời hướng dẫn việc lựa chọn nghề (điều chỉnh động cơ,
hứng thú chọn nghề) của các em theo định hướng cơ cấu nguồn nhân lực
phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể là:
- Về kiến thức: Giáo dục hướng nghiệp theo quan điểm phát triển nguồn
nhân lực trước hết phải dựa trên sự vững chắc của những kiến thức phổ thông
cơ bản mà học sinh có được trong quá trình học các môn văn hóa. Trên nền
tảng này, các hoạt động Giáo dục hướng nghiệp phải giúp cho học sinh có
những hiểu biết cần thiết về các lĩnh vực sản xuất chủ yếu trong xã hội bao
gồm: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trong đó cần quan tâm đến những
ngành nghề cần có hàm lượng tri thức cao trong các sản phẩm, lĩnh vực dịch
vụ và quá trình công nghệ hóa, số hóa các hoạt động sản xuất. Các hoạt động
giáo dục dựa trên trình độ học vấn và khả năng nhận thức của từng đối tượng
phải có nội dung và hình thức phù hợp, giúp các em tiếp cận với những kiến
thức về khoa học đáp ứng công nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và công nghệ vật liệu mới. Kiến
thức trang bị cho học sinh trong quá trình học tại trường phổ thông là những
kiến thức phổ thông cơ bản. Các nội dung giáo dục hướng nghiệp không thể
tách rời quá trình trang bị kiến thức này.


11
Những kiến thức học sinh thu nhận trong quá trình tham gia các hoạt

động Giáo dục hướng nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Củng cố những kiến thức văn hóa phổ thông đã được trang bị.
+ Có những hiểu biết nhất định về thế giới nghề nghiệp
+ Có những kiến thức kĩ thuật tổng hợp, biết vận dụng những nguyên lý,
kiến thức văn hóa phổ thông vào việc giải thích các vấn đề kỹ thuật, sự phát
triển của tự nhiên, xã hội.
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh theo quan điểm phát triển nguồn
nhân lực phải cung cấp cho học sinh được những kiến thức nền tảng mà mỗi
người lao động trong tương lai cần phải có, làm cơ sở để họ có thể tiếp tục
con đường học vấn ngay chính trong quá trình tham gia lao động sản xuất,
theo quan điểm học tập thường xuyên, suốt đời của UNESCO. Vì vậy, kiến
thức trang bị cho các em phải có tính mở, phải giúp cho các emcó được quy
trình khám phá kiến thức, khám phá thế giới nghề nghiệp. Bên cạnh đó, sự
phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ, thế giới nghề nghiệp trong
một không gian thế giới “phẳng” sẽ bắt buộc mỗi người đều phải tự học, tự
tìm hiểu. Giáo dục hướng nghiệp trong giai đoạn hiện nay là phải trang bị cho
các em kiến thức tự học, tự tìm hiểu. Chẳng hạn: cần phải cung cấp cho các
em biết cấu trúc của một nghề thành thạo, cho học sinh làm quen với một số
bảng mô tả nghề (họa đồ nghề) trên cơ sở đó, các em có thể vận dụng vào tìm
hiểu các nghề khác trong thế giới nghề nghiệp một cách đầy đủ, khoa học.
Khi đã có được các khung, các quy trình của các vấn đề có liên quan đến
việc trang bị kiến thức, cần phải trang bị cho các em cách thức để có được
thông tin và định hướng việc thu thập thông tin cho phù hợp với mục đích
cần sử dụng. Các nguồn trí thức hiện nay là vô cùng lớn, vì vậy, việc chọn
lọc thông tin cũng rất quan trọng trong quá trình cung cấp kiến thức cho học
sinh.
-Về kĩ năng: Giáo dục hướng nghiệp theo quan điểm phát triển nguồn
nhân lực phải tạo cho học sinh những kĩ năng, kỹ xảo mang tính kĩ thuật tổng



12
hợp, vận dụng những kiến thức, kĩ năng này vào việc xử lí các tình huống
trong cuộc sống lao động hoặc học tập sau này. Đặc biệt cần chú ý hình
thành ở học sinh năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ, kỹ năng phân
tích, lựa chọn định hướng ngành, nghề học để sau này tham gia lao động xã
hội. Muốn vậy phải giúp học sinh phân tích so sánh khả năng, trình độ, hoàn
cảnh, sở thích của bản thân với yêu cầu của xã hội giúp các em tiếp cận với
trí thức hiện đại và các kĩ năng này được hình thành trong quá trình các em
tham gia các hoạt động hướng nghiệp bao gồm: kĩ năng lập kế hoạch công
việc, kỹ năng sử dụng công cụ lao động, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng phát biểu trước công chúng và trình bày ý tưởng về một vấn đề
khoa học, kĩ thuật. Để giúp học sinh phát triển năng lực nhằm đáp ứng được
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, các kĩ năng được lựa chọn để hình thành
cho học sinh phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường lao động, là cơ sở để
học sinh phát triển tiếp tục sau khi tốt nghiệp ra trường.
- Về năng lực: Năng lực của người lao động là một yếu tố cơ bản trong
chất lượng nguồn nhân lực. Để giúp con người có thể sống tốt và có trách
nhiệm đối với cộng đồng trong một xã hội luôn luôn phát triển, giàu khả năng
biến động của thời kì nền kinh tế tri thức, các nhà giáo dục trên thế giới đã
khẳng định vai trò quyết định của việc hình thành các năng lực cho người
học, trong đó nhấn mạnh các năng lực chìa khóa như : - năng lực sáng tạo, có
khả năng ứng phó với những sự thay đổi; - năng lực hợp tác, có khả năng
phối hợp hành động trong học tập và đời sống; - năng lực tự khẳng định
mình, tự lập trong học tập và cuộc sống; - năng lực hành động có hiệu quả
trên cơ sở những kiến thức, kĩ năng và phẩm chất đã được hình thành trong
quá trình học tập, rèn luyện và giao tiếp.
Trong thực tế, mỗi người chỉ có thể yên tâm sống và làm việc với nghề
nếu họ có năng lực chuyên môn thực sự, có thể tự mình đóng góp sức lực, trí
tuệ cho nghề mà mình yêu thích. Mặt khác, quan hệ giữa năng lực của người
lao động và năng suất lao động là tỉ lệ thuận, vì vậy, trong quá trình hướng



13
nghiệp phải tạo điều kiện để hình thành ở học sinh những năng lực nghề
nghiệp cần thiết. Nhà trường phải hình thành cho các em học sinh năng lực
nghề nghiệp, đó là khả năng thích ứng, năng lực sử dụng một số máy móc,
thiết bị kĩ thuật hiện đại phổ biến; năng lực di chuyển nghề nghiệp; năng lực
ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, năng lực tự làm việc,
năng lực tự đánh giá bản thân có thể lựa chọn con đường ngành nghề cho
mình sau khi tốt nghiệp. Trong nhà trường phổ thông, con đường tốt nhất để
hình thành năng lực nghề nghiệp là phải đảm bảo hai yếu tố tổ chức các hoạt
động sản xuất kết hợp với dạy nghề. Trong quá trình hướng nghiệp học sinh
sẽ được tiếp cận làm quen với nghề và như vậy tri thức cũng như kĩ năng
nghề nghiệp sẽ từng bước hình thành và phát triển.
- Về phẩm chất đạo đức: Hoạt động Giáo dục hướng nghiệp phải góp
phần vào việc giáo dục cho học sinh những phẩm chất của người lao động
mới, đồng thời, biết chọn lọc, tiếp thu những thành tựu của khoa học, hiểu
biết về pháp luật để tham gia thị trường lao động trong bối cảnh nền kinh tế
cạnh tranh và hội nhập. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước chuyển sang nền
kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa, có những tác động khách
quan làm thay đổi thang giá trị xã hội, phẩm chất của người lao động,… Điều
đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng phát triển nhân cách người học. Do
vậy, Giáo dục hướng nghiệp phải quan tâm đến việc giáo dục phẩm chất đạo
đức, giáo dục đạo đức nghề nghiệp và lao động có văn hóa cho học sinh;
Điều quan trọng đối với học sinh là có động cơ học tập, biết tự đánh giá bản
thân, có thái độ lựa chọn nghề nghiệp, ngành học đúng đắn, xác định trách
nhiệm trong việc lựa chọn nghề phù hợp với khả năng bản thân… đặc biệt là
trau dồi năng lực và phẩm chất của người lao động hiện đại như tính sáng tạo,
tính kỉ luật công nghiệp, năng lực học tập suốt đời, nâng cao trình độ về mọi
mặt, có ý chí và quyết tâm vươn lên tự tìm việc làm - đó là yêu cầu và cũng

là phẩm chất của người lao động mới.


14
Giáo dục hướng nghiệp theo quan điểm phát triển nhân lực có tác động
tích cực thúc đẩy của nền kinh tế quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu về giáo
dục hướng nghiệp theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực để xây dựng
các mô hình giáo dục hướng nghiệp phù hợp cho các đối tượng học sinh
khác nhau là một việc làm cần thiết, góp phần làm cho công tác hướng
nghiệp có hiệu quả thiết thực, đóng góp vào việc nâng cao tỷ lệ cho đào
tạo, chuyển dịch cơ cấu nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.1.3. Biện pháp
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Hà Nội
thì “Biện pháp là cách hành động lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích”.
Trong khi đó theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học của
Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh thì “biện pháp” được hiểu là: “cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Như vậy, biện pháp là một bộ phận tổ thành của phương pháp, có
nghĩa là để sử dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau và cùng một biện pháp có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau.
1.1.4. Quản lý
Từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành.
Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất cổ truyền đến văn minh hiện
đại làm cho trình độ tổ chức, điều hành cũng được nâng cao, phát triển theo
các đòi hỏi ngày càng cao như một tất yếu lịch sử khách quan.
Sự phát triển xã hội dựa vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là phụ
thuộc vào trình độ nắm vững tri thức và trình độ quản lý. Mọi hoạt động xã
hội đều cần đến những tác động quản lý. Khi nói đến quản lý người ta phải đề

cập đến chủ thể và đối tượng quản lý. Chủ thể và đối tượng quản lý có thể là
con người hoặc tổ chức do con người lập nên. Với những lợi ích lớn lao của
quản lý, từ nhiều năm nay đã xuất hiện hàng loạt công trình nghiên cứu được


15
thực hiện theo nhiều cách tiếp cận khác nhau để xác định bản chất, tìm kiếm
lý luận và các kỹ thuật cần thiết làm cơ sở cho thực hành quản lý.
Trong nghiên cứu khoa học có rất nhiều quan niệm về quản lý, theo
những cách tiếp cận khác nhau. Quản lý là cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ
đạo, kiểm tra theo góc độ tổ chức. Theo góc độ điều khiển từ quản lý là lái,
điều khiển, điều chỉnh. Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác
động của chủ thể quản lý (hay đối tượng quản lý) nhằm tổ chức, phối hợp
hoạt động của con người trong quá trình sản xuất - xã hội để đạt được mục
đích đã định.
Khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục
tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì quản
lý xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân
hướng tới những mục tiêu chung. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản
lý:
- Quản lý là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và sau đó
thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
- Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi những
con người kết hợp với nhau trong các nhóm, tổ chức nhằm đạt được mục tiêu
chung.
- Quản lý là quá trình làm việc và thông qua các cá nhân, các nhóm
như các nguồn lực khác để hoàn thành các mục đích chung của một nhóm
người, một tổ chức.
- Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua
việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người

khác
Theo C.Mác: “Bất cứ một lao động mang tính chất xã hội trực tiếp
hay lao động cùng nhau, được thực hiện ở quy mô tương đối lớn, đều cần
đến mức độ nhiều hay ít sự quản lý, nhằm thiết lập sự phối hợp giữa những
công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ sự vận


16
động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động của các cơ quan độc
lập của nó. Một người chơi vĩ cầm đơn lẻ tự điều khiển mình còn dàn nhạc
thì cần người chỉ huy”.
Như vậy trong xã hội đã xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc
thù là tổ chức, điều khiển các hoạt động của con người theo những yêu cầu
nhất định - được gọi là hoạt động quản lý. Từ đó có thể nhận thấy rằng lao
động xã hội và quản lý không tách rời nhau, quản lý là hoạt động điều khiển
lao động chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất, thì trình độ
tổ chức, điều hành tất yếu cũng được nâng lên, phát triển theo với những đòi
hỏi ngày càng cao. Khi lao động xã hội đạt tới một trình độ và quy mô phát
triển nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ dẫn đến việc tách quản lý
thành một dạng hoạt động đặc biệt, sẽ hình thành một bộ phận lao động trực
tiếp và một bộ phận chuyên hoạt động quản lý, tạo thành một mối quan hệ
trong quản lý. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quản lý đã trở
thành một khoa học và ngày càng phát triển toàn diện.
Theo Harld Koontz (Mỹ): “Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm
đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân để đạt được mục đích của
nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường trong đó
con người có thể đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiềm bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một
nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học”.
Quản lý là cách thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung. Vì vậy,

nhiệm vụ của quản lý là biến các mối quan hệ trên thành những yếu tố tích
cực, hạn chế xung đột và tạo nên môi trường thuận lợi để hướng tới mục tiêu,
ở khía cạnh này, quản lý là một nghệ thuật. Đó là “bí quyết” làm việc với con
người, bí quyết sắp xếp các nguồn lực của tổ chức, là sự sáng tạo khi đối phó
với những tình huống khác nhau trong hoạt động của tổ chức.
Tuy nhiên, các bí quyết đó chỉ có thể được khám phá trên sự đúc kết
kinh nghiệm thực tế. Các nhà quản lý chỉ có thể thực hiện sứ mệnh của mình


17
tốt hơn khi vận dụng những kinh nghiệm đã được đúc kết, khái quát hóa
thành những nguyên tắc, phương pháp và kỹ năng quản lý cần thiết. Đó chính
là khoa học, khoa học quản lý. Vì thế, quản lý vừa là khoa học, nhưng lại vừa
là nghệ thuật.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý)
lên khách thể (đối tượng) quản lý về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh
tế bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng”.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định”.
Theo Nguyễn Bá Sơn: “Quản lý là sự tác động có hướng đích của chủ
thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay
đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối
cùng, phục vụ lợi ích của con người”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là
khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu, dự kiến”.

Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý
là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý)
lên khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.
Một cách tiếp cận khác của nhà lý luận quản lý nước ngoài O. Donnel
đã cho rằng: “Quản lý là sự thiết lập và giữ gìn môi trường nội bộ của một tổ
chức mà ở đó, mọi người cùng nhau làm việc thoải mái, cộng tác để đạt được
những hiệu quả và hiệu suất trong công việc vì mục đích chung của tập thể,
của tổ chức đó”.


18
Như vậy, quản lý được hiểu là sự trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu
nhất định của tổ chức và điều khiển các hoạt động của mọi tổ chức, cá nhân
theo những yêu cầu nhất định. Có người cho rằng quản lý là quá trình hoàn
thành công việc thông qua con người và làm việc với con người.
Về thực chất quản lý là hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo,
kiểm soát công việc và những nỗ lực của con người nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Yêu cầu của quản lý là biết cách vận dụng, khai thác được các nguồn lực hiện
hữu cũng như tiềm năng kể cả nguồn nhân lực, để đạt đến những kết quả kỳ
vọng. Quản lý là sự tác động của con người cùng các cơ quan quản lý đến
con người và tập thể người nhằm làm cho hệ thống quản lý được hoạt động
bình thường, có hiệu lực, giải quyết tốt các nhiệm vụ đề ra để tiến hành sự
trông coi, giữ gìn chúng theo những yêu cầu nhất định cũng như tổ chức và
điều hành các hoạt động theo những yêu cầu của nhiệm vụ nhất định.
Có tác giả lại cho rằng quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn hành vi, quá trình xã hội để làm cho chúng phát triển hợp quy luật
đạt được mục đích đề ra và ý chí của người quản lý.
Nghiên cứu nội hàm các định nghĩa về quản lý mà các tác giả đã nêu ra
tùy theo cách tiếp cận của mình tuy có khác nhau song bản chất của hoạt động

quản lý cũng là cách thức thực hiện tác động tổ chức, điều khiển, chỉ huy cho
hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm làm cho tổ chức
được vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu đề ra.
1.1.5. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thể chế xã hội hoàn chỉnh, một cơ quan giáo dục
chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục - đào tạo của Nhà nước và của
cộng đồng xã hội, chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống. Quản lý nhà
trường là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo dục.
Theo GS. TSKH. Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà

×