Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 138 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





HỒ MAI HOA





Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm cho giáo viên trường Cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật Công nghiệp I



luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC









Hµ néi - 2007






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM




HỒ MAI HOA




Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm cho giáo viên trường Cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật Công nghiệp I


Mã số : 60 14 05



luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thị Kim Thoa


Hµ néi - 2007




MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
5. Giả thuyết khoa học
3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3
7. Phạm vi nghiên cứu
3
8. Phương pháp nghiên cứu
4

9. Kế hoạch thực hiện
4
10. Cấu trúc luận văn
4
Chương 1: CƠ Sở Lý LUậN CủA vấn đề nghiên cứu
5
1.1.Tổng quan của vấn đề nghiên cứu
5
1.2. Một số khái niệm cơ bản
7
1.2.1. Quản lý và quản lý nhà trường
7
1.2.2. Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và quản lý hoạt động bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm

15
1.3. Quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
23
1.3.1. Nguyên tắc quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
23
1.3.2. Các nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
24
Tiểu kết chương 1
35
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm cho giáo viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công
nghiệp I


37

2.1. Sơ lược về trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I
37
2.1.1. Tiến trình phát triển, chức năng và nhiệm vụ của nhà trường
37
2.1.2. Cơ cấu tổ chức Nhà trường
40
2.1.3. Phân loại giáo viên
44
2.1.4. Định hướng phát triển trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công
nghiệp I trong giai đoạn mới

48
2.2. Thực trạng hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên
và công tác quản lý hoạt động này tại trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Công nghiệp I


50
2.2.1. Thực trạng hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên



của nhà trường
50
2.2.2. Thực trạng về quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I

54
2.2.3. Đánh giá các nguyên nhân của thực trạng
72

Tiểu kết chương 2
74
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho giáo viên trường cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp
I


76
3.1. Các nguyên tắc đề xây dựng biện pháp
76
3.2. Quy trình thực hiện biện pháp
76
3.3. Điều kiện để thực hiện các nhóm biện pháp
78
3.4. Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
78
3.4.1. Tăng cường nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các hoạt
động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm

78
3.4.2. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng các đối tượng giáo viên
khác nhau

80
3.4.3. Cải tiến hình thức tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm

81
3.4.4. Cải tiến công tác kiểm tra đánh giá kết quả bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm


83
3.4.5. Tăng cường các điều kiện vật chất đảm bảo cho hoạt động bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm có hiệu quả

85
3.4.6. Nhóm biện pháp tăng cường quản lý giảng viên các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm và phối hợp các lực lượng tham gia hoạt động bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm


87
3.4.7. Kịp thời đánh giá hiệu quả bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và xác
định nhu cầu bồi dưỡng tiếp theo

89
3.5. Mối quan hệ giữa các biện pháp
91
3.6. Khảo nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp
93
3.6.1. Khảo nghiệm bằng phương pháp xin ý kiến chuyên gia
93
3.6.2. Khảo nghiệm bằng phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý
96
Tiểu kết chương 3
97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
98
1. Kết luận
98
2. Khuyến nghị

100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101


PHẦN PHỤ LỤC




Hồ Mai Hoa


KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
GD : giáo dục
ĐT : đào tạo
QL : quản lý
CBQL : cán bộ quản lý
CBQLGD : cán bộ quản lí giáo dục
BD : bồi dưỡng
NVSP : bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
GV : giáo viên
CĐ : cao đẳng
CĐKTKTCNI : Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I
HS : học sinh
SV : sinh viên
MT : mục tiêu
ND : nội dung
PP : phương pháp
NCKH : nghiên cứu khoa học

CNH - HĐH : công nghiệp hoá - hiện đại hoá
KTĐG : kiểm tra đánh giá
CSVC : cơ sở vật chất
TTB : trang thiết bị






1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của khoa học công nghệ, của sự
phát triển như vũ bão trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một trong
những vấn đề nóng bỏng được cả xã hội quan tâm, ảnh hưởng tới mọi
người, mọi nhà là giáo dục và đào tạo. Giáo dục không chỉ là sản phẩm của
xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Trên phạm vi toàn thế giới hiện nay đang diễn ra một cuộc đua
tranh về kinh tế, mà thực chất là đua tranh về khoa học và công nghệ. Bản
chất của khoa học và công nghệ là trí tuệ của con người. Giáo dục hiện đại
giúp các quốc gia giành thắng lợi trong các cuộc đua tranh đó.
Phát triển GD là bí quyết thành công, là con đường ngắn nhất, đi tắt,
đón đầu trong công cuộc CNH - HĐH, tạo điều kiện cho mỗi quốc gia đào
tạo ra nguồn nhân lực và là nguồn gốc để BD nhân tài, làm giàu thêm
“nguyên khí của quốc gia” là nguồn tài sản vô giá của dân tộc và nhân loại.
Mục đích của GD hiện đại là đào tạo những con người phát triển toàn diện,
có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học và
công nghệ, đủ sức cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc tế.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của WTO và

yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao là điều mà chúng ta đang phải
đối mặt. Thách thức này cũng đặt ra cho các trường cao đẳng và đại học
của Việt Nam. Nhưng khi chúng ta quyết tâm vượt qua các thách thức đó
thì chúng lại trở thành cơ hội. Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo,
quản lý giáo dục đóng vai trò then chốt.
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I, một trường cao đẳng thuộc Bộ Công
nghiệp với bề dày 50 năm xây dựng và phát triển, có nhiệm vụ đào tạo ra


2
đội ngũ những người lao động các ngành kinh tế và kỹ thuật thuộc các lĩnh
vực công nghiệp có trình độ từ công nhân kỹ thuật đến cao đẳng, cung cấp
một phần đáng kể cho nguồn nhân lực ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, đặc
biệt là các tỉnh đồng bằng Nam Sông Hồng.
Trong bối cảnh chung cũng như trong điều kiện phát triển của Nhà
trường, chất lượng đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng, trong đó không
thể không kể đến vai trò của đội ngũ cán bộ QLGD và đội ngũ GV trực tiếp
tham gia giảng dạy. Chất lượng đội ngũ GV phụ thuộc vào trình độ chuyên
môn của họ cùng với việc rèn luyện năng lực sư phạm. Tuy nhiên đa số
giáo viên của trường, ngoại trừ một số nhỏ giáo viên dạy các môn khoa học
cơ bản, chưa qua đào tạo tại các trường sư phạm, cho nên việc dạy học chủ
yếu dựa trên kinh nghiệm là chính. Để góp phần nâng cao chất lượng quản
lý đội ngũ cũng như giúp giáo viên hoàn thiện và nâng cao kỹ năng dạy học
và giáo dục, tiến tới đạt chuẩn về đội ngũ, tác giả chọn đề tài nghiên cứu:
“Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo
viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ

thuật Công nghiệp I, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm trong bối cảnh hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của Nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.2. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I.
3.1. Đối tượng nghiên cứu


3
Quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến quản lý hoạt
động bồi dưỡng NVSP cho giáo viên các trường cao đẳng công nghệ.
- Đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân thực trạng của công tác
quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho giáo viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I đã được thực hiện thường xuyên
song chất lượng chưa cao. Nếu bao quát được các chức năng quản lý, nắm
được đặc thù của hoạt động BDNVSP và thực hiện tốt các biện pháp quản
lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên của trường thì sẽ
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Nghiên cứu đề tài sẽ là cơ hội để tìm hiểu, đánh giá và đề xuất các
biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng NVSP cho giáo viên của trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I nơi tác giả đang công tác. Đề
tài này nếu được thông qua và chấp thuận thì sẽ đóng góp một phần cho
công tác quản lý hoạt động BDNVSP cho giáo viên của trường theo tinh
thần khoa học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
7. Phạm vi nghiên cứu


4
Đề tài chỉ dừng ở việc xây dựng một số biện pháp quản lý hoạt động
BDNVSP cho giáo viên của trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công
nghiệp I, khảo nghiệm về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp.
8. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp sách, tài liệu, báo cáo khoa học
trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu,
- Tham khảo Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng, Nhà nước và Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp khảo sát, điều tra.
- Phỏng vấn.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp toán thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
9. Kế hoạch thực hiện
Bắt đầu từ tháng 1, kết thúc tháng 11 năm 2007:
Quý 1: Xác định đề tài.
Quý 2: Nghiên cứu tài liệu.
Quý 3: Nghiên cứu tài liệu, điều tra thực tiễn.

Quý 4: Hoàn chỉnh và bảo vệ luận văn.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn sẽ trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm cho GV trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I.


5
- Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho giáo viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I.



6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng và hiệu
quả của sự nghiệp giáo dục - đào tạo chính là đội ngũ giáo viên. Sự phát
triển của GD & ĐT ngày nay đòi hỏi người giáo viên cần có nhiều năng
lực, bởi họ sẽ là những người trực tiếp tham gia vào sự nghiệp đào tạo, GD
thế hệ trẻ thành những con người có đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu của
xã hội hiện đại. Để có được đội ngũ giáo viên đủ mạnh, đáp ứng được yêu
cầu đổi mới hiện nay, vấn đề đào tạo bồi dưỡng GV là hết sức cần thiết và
quan trọng. Vấn đề này đã được các nhà khoa học GD, các nhà QLGD
quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đã bước sang thế kỉ
21 với nền kinh tế trí thức và yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo
dục.
Hiện nay ở nước ngoài đã có nhiều tác giả nghiên cứu về nghề dạy

học. Tác giả N.L.Bônđurep có sách: “Chuẩn bị cho sinh viên làm công tác
giáo dục ở trường phổ thông”. Trong cuốn sách này vai trò kỹ năng sư
phạm đối với nghề dạy học được tác giả quan tâm đặc biệt và nhấn mạnh
rằng những kỹ năng đó chỉ được hình thành và củng cố trong hoạt động
thực tiễn của người thầy giáo. Theo tác giả những yêu cầu chuyên môn của
người thầy giáo không phải chỉ có những kiến thức phong phú mà còn phải
có những kĩ năng cần thiết để tổ chức và thực hành công tác GD. Muốn làm
công tác giáo dục tốt cần phải có những kĩ năng giáo dục và thời gian. Vì
vậy việc BDGV nhất thiết phải được làm thường xuyên. [3]
Tác giả Michell Develey trong cuốn “Một số vấn đề đào tạo giáo
viên” có đề cập đến vấn đề đào tạo GV bao gồm nhiều công đoạn: quan
niệm, nội dung, phương thức đào tạo, tính chất và bản sắc nghề nghiệp…
đó là một cuốn sách góp phần đổi mới sự nghiệp đào tạo BDGV. [12]


7
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục, nhiều cán
bộ giảng dạy, cán bộ quản lý giáo dục,… quan tâm nghiên cứu vấn đề bồi
dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên ở các góc độ, nội dung, hình thức khác
nhau nhằm nâng cao trình độ, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên
và của công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên.
Trước những năm 1970 việc nghiên cứu về xây dựng đội ngũ GV
không theo những đề tài riêng mà được tiến hành gần với các đề tài giáo
dục học và tâm lý học, về nội dung và phương pháp dạy học các môn học.
Từ đầu những năm 1970, do nhu cầu nghiên cứu chuẩn bị cho cải
cách giáo dục nên những vấn đề người GV và việc xây dựng đội ngũ GV
được coi trọng hơn. Tổ chức nghiên cứu cải cách sư phạm đã được hình
thành ở Cục đào tạo và BDGV với những vấn đề như: tổng kết kinh
nghiệm xây dựng đội ngũ giáo viên ở các trường tiên tiến; nghiên cứu vị
trí, vai trò và nhiệm vụ của người giáo viên và của công tác đào tạo và

BDGV,… Nhưng vấn đề chỉ là những bài viết, những quy định của ngành
trong các cuốn nội san hoặc các quyết định về quy chế tạm thời của Bộ
GD.
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ năm 1987 sau khi cơ quan nghiên
cứu của Bộ Giáo dục hợp nhất thành Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, là
trung tâm nghiên cứu ĐT và BD giáo viên với nhiệm vụ nghiên cứu những
vấn đề cơ bản và cấp bách về người GV và việc xây dựng đội ngũ GV.
Nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu về nghề dạy học, về những
vấn đề như thực tập NVSP tập trung, rèn luyện NVSP thường xuyên, nhân
cách người thầy giáo, đặc điểm lao động sư phạm của người thầy giáo,
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, vấn đề bồi dưỡng
được nâng lên một tầm cao mới. Nghị quyết các Đại hội Đảng từ khoá IV
đã tiếp thêm sức mạnh cho giáo dục phát triển. Đến năm 1998, vấn đề bồi
dưỡng giáo viên đã được đưa thành chính sách quốc gia và tiếp tục duy trì


8
ở Luật GD 2005: “Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên
môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hoá nhà giáo. Nhà giáo được
cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, được
hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ” (Mục 3, Điều 80)
Bồi dưỡng NVSP là một hoạt động không thể thiếu được trong công
tác BDGV đang tham gia công tác giảng dạy. Các vấn đề liên quan tới đào
tạo và BDNVSP cho GV đã được nhiều nhà giáo dục, nhiều chuyên gia đề
cập tới. Đã có khá nhiều công trình như: Lê Trần Lâm với “Đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên” (1992); Nguyễn Hữu Long chủ nhiệm đề tài: “Xây dựng
và hoàn thiện quy trình rèn luyện kỹ năng sư phạm theo quy trình đào tạo
mới” (Đại học SP 1 Hà Nội - 1994); Nguyễn Minh Đường với “Bồi dưỡng
và đào tạo lại nguồn nhân lực” (1996); Nguyễn Hữu Dũng với “Hình thành
kỹ năng sư phạm cho sinh viên” (1995); Phạm Trung Thanh và Nguyễn Thị

Lý với “Rèn luyện nghiệp vụ SP thường xuyên” (2004),…
Ngoài ra còn khá nhiều các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, các
luận văn, bài báo đề cập tới hoạt động bồi dưỡng giáo viên nhưng ít công
trình đề cập tới hoạt động BDNVSP cho giáo viên các trường cao đẳng
công nghệ. Trong bối cảnh chung của các trường cao đẳng công nghệ, đa
số giáo viên của trường, ngoại trừ một số nhỏ giáo viên dạy các môn khoa
học cơ bản, chưa qua đào tạo tại các trường sư phạm thì việc nghiên cứu
biện pháp quản lý hoạt động BDNVSP cho giáo viên là hết sức cần thiết để
góp phần nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ cũng như giúp giáo viên
hoàn thiện và nâng cao kỹ năng dạy học và giáo dục, tiến tới đạt chuẩn về
đội ngũ.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý và quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý và quản lý giáo dục


9
* Khái niệm quản lý
Từ khi xuất hiện hoạt động lao động tạo ra các giá trị phục vụ cuộc
sống đã hình thành sự phân công lao động, sự hợp tác lao động trong một
tổ chức nhất định nhằm đạt hiệu quả và năng suất lao động cao hơn. Do đó
cần có người đứng đầu để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh…, xuất
hiện người quản lý và sự quản lý.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1: Quản lý khi là động từ
mang ý nghĩa:
+ “Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định
+ “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất
định
Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai
quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm

sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”.; quá trình “lý” gồm
việc sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người
quản lý chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ
trì trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến việc “lý” tức là chỉ lo việc sắp xếp,
tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì hệ phát
triển không bền vững. Nói chung, trong “quản” phải có “lý” và trong “lý”
phải có “quản”, làm cho trạng thái hoạt động của hệ ở thế cân bằng động.
Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa
các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực). Sự
quản lý đưa đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ
thuật làm cho hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau.
Nói đến quản lý không thể không nhắc đến tư tưởng sâu sắc của Các
- Mác, ông nhìn nhận vấn đề quản lý dưới ý tưởng phân công và hợp tác


10
trong lao động: “Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc
thì cần phải có nhạc trưởng”.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Khổng Tử (551 - 479 TCN) cũng đã
xác định vai trò của người quản lý, đó là người quản lý mà chính trực thì
không cần phải tôn nhiều công sức mà vẫn có thể “chính tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Warren Bennis, một chuyên gia nổi tiếng về nghệ thuật lãnh đạo đã
từng nói rằng: “ Quản lý là một cuộc thử nghiệm gắt gao trong cuộc đời
mỗi cá nhân, và điều đó sẽ mài giũa họ trở thành các nhà lãnh đạo”. Tiếng
Việt cũng có từ “quản lý” và “lãnh đạo” riêng rẽ giống như “manager” và
“leader” trong tiếng Anh. Trong thực tế chúng ta vẫn thường lẫn lộn hai
khái niệm . Không phải nhà quản lý nào cũng là nhà lãnh đạo và không
phải nhà lãnh đạo nào cũng là nhà quản lý.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề quản lý theo khoa học mới

xuất hiện. Người khởi xướng là Fredrich Winslow Taylor với cuốn sách
“Các nguyên tắc quản lý theo khoa học”. Theo ông thì người quản lý phải
là nhà tư tưởng, nhà lên kế hoạch chỉ đạo tổ chức công việc. [29]
Tác giả Nguyễn Minh Đạo trong cuốn “Cơ sở khoa học quản lý” thì
cho rằng quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh
tế,… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện
cho sự phát triển của đối tượng. [18]
Tác giả Đỗ Hoàng Toàn trong cuốn “Lý thuyết quản lý” cho rằng:
“Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội


11
của hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi
trường”. [31]
Trong cuốn “Khoa học tổ chức và quản lý”, tác giả Đặng Quốc Bảo
quan niệm rằng quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung, và quản lý là
một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực
của các thành viên trong một tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức
để đạt dược những mục tiêu cụ thể”. [2]
Từ các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, chúng ta thấy
rằng tất cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm quản lí, đó là
trả lời câu hỏi: Ai quản lý? (Chủ thể QL); Quản lý ai? Quản lý cái gì?
(Khách thể QL); Quản lý như thế nào? (Phương thức QL); Quản lý bằng
cái gì? (Công cụ QL); quản lý để làm gì (Mục tiêu QL) và từ đó chúng ta
có thể đưa ra định nghĩa:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục

đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy,
điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể
thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm
đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý là hệ thống gồm bốn
chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Trong một chu trình quản
lý cả bốn chức năng trên phải được thực hiện liên tiếp và đan xen vào nhau;
phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối giữa chu trình này sang chu trình
theo hướng phát triển trong đó thông tin luôn là yếu tố xuyên suốt không
thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc ra
quyết định trong quản lý. Có thể sơ đồ hoá chu trình quản lý như sau:

Kế hoạch


12







* Khái niệm quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hóa dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không ngừng
tiến lên. Giáo dục tồn tại, vận động và phát triển với tư cách là một hệ
thống. Theo cách nói của Marx thì “dàn nhạc” giáo dục trong quá trình tồn

tại và phát triển tất yếu phải có “nhạc trưởng” là quản lí giáo dục. Về quản
lí giáo dục cũng có khá nhiều quan điểm, được hiểu khá rộng trong nhiều
phạm vi, từ vĩ mô đến vi mô và có nhiều định nghĩa như sau:
Trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”, tác giả
M.I Kônđacốp định nghĩa: “Quản lý giáo dục là tập hợp các biện pháp tổ
chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành
bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển
và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như mặt chất lượng”. [22,33]
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội
Kiểm tra đánh giá
Thông tin
Tổ chức
Chỉ đạo


13
tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. [25,37].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [2,31].
Đối với Phạm Minh Hạc thì “Quản lý giáo dục là quản lý trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ
và với từng học sinh” [20,71].
UNESCO định nghĩa QLGD là cách thức điều hành hệ thống giáo

dục, nhất là các quy trình, thủ tục, quy định, quy chế … và cách thức vận
hành của hệ thống giáo dục, tất cả các cấu phần hoạt động của hệ thống.
Quản lý giáo dục gồm 3 lĩnh vực:
- QL chính sách (hoạch định chính sách, lập kế hoạch, thực hiện
chính sách và phân bổ nguồn lực).
- QL hành chính (sử dụng nguồn lực tài chính, con người và vật
chất).
- QL sư phạm (sử dụng giáo viên, tổ chức quá trình dạy học, quá
trình giáo dục, thành tích và quá trình học tập.
Ngày nay, giáo dục không còn là một thứ phúc lợi xã hội đơn thuần
vì nó được gắn với quá trình phát triển xã hội. Việc đi học của mỗi người
phải là: “học thường xuyên, học suốt đời”. Do vậy giáo dục không chỉ giới
hạn ở thế hệ trẻ mà là giáo dục cho mọi người, cho nên quản lí giáo dục
cũng có thể hiểu là: sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực
hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Như vậy ta có thể định nghĩa:


14
Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức điều khiển hoạt động của khách
thể quản lý thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra. Quản lý giáo dục từ cấp
vĩ mô đến tầm vi mô đều hướng tới sử dụng có hiệu quả những nguồn lực
dành cho giáo dục để đạt được kết quả (đầu ra) có chất lượng cao nhất.
Đặc điểm của quản lý giáo dục:
- Quản lý giáo dục gắn liền với việc quản lý con người, đặc biệt là
lao động sư phạm của người giáo viên. Đặc thù lao động của người giáo
viên mà đối tượng lao động sư phạm là người học với những đặc điểm về
tâm sinh lý lứa tuổi hết sức phức tạp. Người học vừa là đối tượng của hoạt
động giáo dục, vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục, do đó kết quả giáo

dục không chỉ phụ thuộc vào bản thân nhà giáo mà còn phụ thuộc vào thái
độ của người học. Đây chính là điểm khác biệt của lao động sư phạm so
với lao động xã hội nói chung. Mặt khác phương tiện lao động của GV chủ
yếu là phương tiện tinh thần bằng lời, bằng tấm gương, thái độ, bằng “điểm
tựa”, bằng cảm hóa….Thời gian lao động của người giáo viên cũng khác,
nó không được tách bạch, rạch ròi với thời gian không lao động sư phạm.
Với bất kỳ lúc nào, ngay cả khi nghỉ ngơi, giải trí hay làm việc gia đình,…
người GV có thể vẫn nghĩ về công việc sư phạm của mình. Vì vậy trong
công tác quản lý giáo dục cần tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh
thần cho giáo viên, đặc biệt là tạo điều kiện để nâng cao tiềm lực của họ, để
họ toàn tâm, toàn ý cống hiến cao nhất cho sự nghiệp “ trồng người”.
- Sản phẩm của giáo dục có tính đặc thù nên quản lý giáo dục phải
chú ý ngăn ngừa sự rập khuôn, máy móc trong công việc tạo ra sản phẩm,
cũng như không được phép tạo ra phế phẩm.
- Quản lý giáo dục đòi hỏi cao về tính toàn diện, tính thống nhất, tính
liên tục, tính kế thừa, tính linh hoạt và tính phát triển.


15
- Quản lý giáo dục và phát triển quan điểm quần chúng, kết hợp nhân
tố bên trong và bên ngoài, trong đó nhân tố bên trong có tính chất quyết
định. Nên cần phải phối hợp chặt chẽ và đồng bộ các lực lượng trong nhà
trường, gia đình và xã hội.
- Quản lí giáo dục là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc, nó thu
hút sự tham gia của rất đông các thành viên xã hội và có ảnh hưởng rất lớn
đến mọi mặt đời sống xã hội.
- Quản lí giáo dục là hoạt động mang tính sáng tạo vì đối tượng của
hoạt động quản lí giáo dục là con người với các mối quan hệ phức tạp của
nó. Quản lí giáo dục phải là một hoạt động mang tính sáng tạo mới phát
huy được sự sáng tạo của con người.

- Quản lí giáo dục thể hiện tính bao hàm giữa học thuật và nghệ
thuật, vì đây là dạng quản lí phức tạp, do quan hệ đa chiều với môi trường
xã hội ở nhiều phạm vi, mức độ, tầng bậc khác nhau.
Nội dung quản lý giáo dục: là quản lý các yếu tố cấu thành của hệ
thống giáo dục bao gồm: Mục tiêu GD, nội dung GD, phương pháp GD, tổ
chức GD, người dạy, người học, trường sở và trang thiết bị dạy học, môi
trường GD, các lực lượng GD, kết quả GD.
Bản chất của quản lý giáo dục: là quản lý quá trình sư phạm, quá
trình dạy và học diễn ra ở các cấp học, bậc học và tất cả các cơ sở giáo dục.
Từ góc độ tổ chức và quản lý, quá trình sư phạm là quá trình tạo ra các điều
kiện và cơ hội, đồng thời tổ chức việc sử dụng, tận dụng chúng làm cho
người học tiếp thu, chiếm lĩnh, lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội để phát
triển nhân cách tốt nhất. Nơi thực hiện quản lý quá trình sư phạm có hiệu
quả nhất là nhà trường, một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp thực hiện mục
tiêu giáo dục đào tạo nhân cách bằng việc truyền thụ những tri thức đạo
đức mà nhân loại đã sàng lọc chiết suất được cho thế hệ trẻ.


16
1.2.1.2. Quản lý nhà trường
Nhà trường với tư cách là một thiết chế hiện thực hoá sứ mệnh của
nền giáo dục trong đời sống kinh tế - xã hội; trực tiếp đào tạo, giáo dục thế
hệ trẻ, là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ thống giáo dục nào từ Trung ương
đến địa phương. Là một bộ phận trong quản lý giáo dục, nhà trường (cơ sở
giáo dục) chính là nơi tiến hành GD - ĐT có nhiệm vụ trang bị kiến thức
cho một nhóm dân cư nhất định.
Nhà trường có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo
mục tiêu chương trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ
theo thẩm quyền.

- Tuyển dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên tham gia vào quá
trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với nhà
giáo cán bộ, nhân viên;
- Tuyển sinh và quản lý người học;
- Quản lý và sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính
theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp với gia đình người học, tổ chức cá nhân trong HĐGD.
- Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các
hoạt động xã hội.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng
giáo dục của cơ quan có thấm quyền kiểm định chất lượng giáo dục.
Như vậy quản lý nhà trường là một hệ thống những hoạt động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho nhà
trường vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thể hiện tính
chất nhà trường xã hội chủ nghĩa, mà điểm hội tụ là quá trình dạy học, GD
thế hệ trẻ.


17
1.2.2. Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và quản lý hoạt động BDNVSP
1.2.2.1. Đào tạo và bồi dưỡng
* Đào tạo
Theo quan niệm phổ biến, đào tạo là một quá trình trang bị kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ phẩm chất đạo đức cho người học để họ có
thể trở thành những người lao động có kỹ thuật, có năng suất lao động cao.
Quá trình đào tạo diễn ra theo kế hoạch, chương trình ứng với từng thời
gian quy định. trong các cơ sở đào tạo.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì đào tạo là quá trình tác động đến một
con người, làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc

sống và có khả năng nhận được sự phân công lao động nhất định, góp phần
của mình vào sự phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của
loài người. [32]
Hiện nay đào tạo có nhiều dạng: đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên sâu,
đào tạo cơ bản, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa và đào tạo lại (tương đương
với bồi dưỡng),… Tùy theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao
động mà người ta phân loại đào tạo gồm đào tạo chuyên môn và đào tạo
nghề nghiệp và chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào tạo
một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới thực sự có kết quả cao.
Theo Hồ Ngọc Đại thì “ Đào tạo” được hiểu là quá trình hoạt động
có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ
thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và thái độ của người lao
động nhằm xây nhân cách cơ bản cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho họ có
thể tham gia lao động nghề nghiệp trong cuộc sống xã hội. [14]
Nguyễn Minh Đường cùng nhóm tác giả đề tài KX 07 – 14 thì cho
rằng: Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình


18
thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ,…để hoàn
thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành
nghề một cách năng suất và hiệu quả.[19]
Như vậy chúng ta có thể hiểu: Đào tạo là một quá trình trang bị kiến
thức, kỹ năng ban đầu cùng với những phẩm chất, thái độ cần thiết để
người được đào tạo có thể hành nghề và trở thành người lao động có kiến
thức, có kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của xã hội.
* Bồi dưỡng
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng
lực hoặc phẩm chất [32]. Như vậy, có thể hiểu: bồi dưỡng chính là quá
trình bổ sung tri thức và kỹ năng nhằm tăng cường về năng lực và phẩm

chất.
Theo UNESCO định nghĩa bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề
nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng
cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp
ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Nguyễn Minh Đường cùng nhóm tác giả đề tài KX 07 - 14 cho rằng
bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu
hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường xuyên được xác nhận
bằng một chứng chỉ. [19]
Mục đích bồi dưỡng nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên
môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ
thống tri thức, kỹ năng kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả công việc đang làm.
Bồi dưỡng thực chất là bổ sung “bồi đắp” những thiếu hụt về tri
thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng” những cái cũ còn phù hợp


19
để mở mang có hệ thống những tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn
hiểu biết, nâng cao hiệu quả lao động.
Trong giáo dục và đào tạo, với phương châm “giáo dục thường
xuyên”, “học tập suốt đời” thì đào tạo, bồi dưỡng là quá trình thống nhất.
Bồi dưỡng là sự tiếp nối quá trình đào tạo chứ không phải là khởi đầu; cũng
có khi bồi dưỡng lại tạo ra tiền đề về tiêu chuẩn cho quá trình đào tạo chính
quy ở bậc cao hơn về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực cụ thể.
1.2.2.2. Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
* Nghiệp vụ sư phạm
Thuật ngữ “nghiệp vụ sư phạm” là từ ghép của hai từ “nghiệp vụ” và
“sư phạm”. Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “nghiệp vụ” là
công việc thuộc chuyên môn riêng của từng nghề và “sư phạm” là khoa học

về giáo dục và giảng dạy, khuôn phép của nghề dạy học [32].
Nói đến sư phạm có thể hiểu theo 2 góc độ:
- Thứ nhất: có thể hiểu sư phạm là khoa học về giáo dục mà đối
tượng nghiên cứu là quá trình GD con người, tìm tòi, phát hiện những quy
luật GD, những con đường có hiệu quả để nâng cao chất lượng GD, đặc
biệt là sự can thiệp về mặt GD của giáo viên trong những tình huống giáo
dục thực. Môn khoa học sư phạm này thường được gọi là giáo dục học.
- Thứ hai: có thể hiểu sư phạm là tên gọi chuyên ngành đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên các cấp: trường đại học sư phạm, trường cao đẳng sư
phạm, trường trung học sư phạm,…
Như vậy cũng có thể hiểu nghiệp vụ sư phạm chính là công việc
chuyên môn của nghề dạy học, là những hoạt động giáo dục và phương
pháp dạy môn học cụ thể nào đó của người giáo viên.
Theo chúng tôi, nghiệp vụ sư phạm chính là khả năng lao động sư
phạm của người giáo viên tạo ra sản phẩm đặc biệt là nhân cách học sinh.

×