Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.91 KB, 104 trang )


5
Môc lôc

Lời cảm ơn
i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt (xếp theo A B C )
ii
Danh mục các bảng
vi
MỞ ĐẦU trang
1
1. Lý do chọn đề tài.
1
2. Lịch sử vấn đề.
4
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
7
3.1. Mục đích nghiên cứu.
7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
7
4.1. Đối tượng.
7
4.2. Phạm vi khảo sát.
7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
8
6. Cấu trúc luận văn.


8
Chƣơng 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
9
1.1. Xu hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học.
1.1.1. Xu hướng đổi mới.
1.1.2. Một số quan niệm về dạy cách học.
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực.
1.1.3.1.Quan niệm về PPDH nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
1.1.3.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.
1.2. Cơ sở lý luận về tự học.
1.2.1. Một số quan điểm về tự học.
1.2.2. Các hình thức tự học.
1.2.2.1. Tự học hoàn toàn.
1.2.2.2. Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
1.2.2.3. Tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.
1.2.3. Tự học có hướng dẫn.
1.2.4. Vai trò của tự học.
1.2.5. Năng lực tự học.
1.2.5.1. Khái niệm năng lực tự học.
1.2.5.2. Một số năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho học
9
9
10
11
11
12
16
16
18
18

18
18
19
20
21
21
22

6
sinh.
1.2.6. Những kĩ năng tự học cơ bản.
1.3. Cơ sở lí luận về loại tác phẩm tự sự.
1.3.1. Định nghĩa Tự sự
1.3.2. Đặc trưng của thể loại tự sự.
1.4. Khảo sát phần Đọc thêm môn Ngữ văn.
1.4.1. Vị trí của phần Đọc thêm môn Ngữ văn ở nhà trường THPT.
1.4.2. Hướng dẫn thực hiện phần Đọc thêm.
1.5. Thực trạng dạy-học phần Đọc thêm môn Ngữ văn THPT.
1.5.1. Khảo sát chương trình dạy học phần đọc thêm bậc THPT
1.5.1.1. Bảng thống kê phần đọc thêm môn Ngữ văn bậc THPT.
1.5.1.2. Nhận xét chung.
1.5.2. Thực trạng phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12.
1.5.3. Thực trạng dạy – học phần Đọc thêm môn Ngữ văn THPT.
1.5.3.1. Thực trạng dạy phần Đọc thêm môn Ngữ văn THPT.
1.5.3.2. Khảo sát các nguồn tài liệu hướng dẫn đọc thêm.
1.5.3.3. Khảo sát thời gian dành cho việc hướng dẫn đọc thêm các tác
phẩm tự sự trong chương trình ngữ văn lớp 12.
1.5.3.4. Điều tra thực trạng tự học phần đọc thêm của học sinh THPT
lớp 12.
1.5.3.5. Kết luận chung.

1.6. Tiểu kết.
Chƣơng 2: ĐỀ XUẤT PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC PHẦN ĐỌC
THÊM CÁC TÁC PHẨM TỰ SỰ
2.1. Những tiền đề định hƣớng cho việc dạy học phần đọc thêm các
tác phẩm tự sự.
2.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh qua việc
tự học, tự nghiên cứu.
2.1.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.1.1.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên
cứu.
2.1.2. Dạy đọc- hiểu các văn bản đọc thêm theo đặc trưng loại thể.
2.1.3. Rèn năng lực quy chiếu ngữ cảnh cho HS thông việc đọc hiểu
văn bản văn học trong trường THPT.

25
26
26
26
28
28
29
29
29
29
33
33
37
37
37
42


42

43
45
46

46

46

46
47

47

48

7
2.1.4. Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xã hội cho HS
thông qua việc dạy văn bản đọc thêm ở trường THPT.
2.2. Nguyên tắc và thao tác hƣớng dẫn tự học tác phẩm tự sự phần
đọc thêm.
2.2.1. Về nguyên tắc.
2.2.2. Hướng dẫn tự học phần đọc thêm tác phẩm tự sự trong chương
trình 12 THPT.
2.2.2.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa.
2.2.2.2. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản qua hệ thống câu hỏi.
2.2.2.3. Hướng dẫn học sinh thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu có liên
quan tới các văn bản đọc thêm.

2.2.2.4.Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
2.3. Tiểu kết.
Chƣơng 3 : THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm sƣ phạm.
3.2. Nội dung thực nghiệm.
3.3. Tổ chức thực nghiệm.
3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm.
3.3.2. Tiến hành thực nghiệm.
3.3.3. Giáo án thực nghiệm.
3.3.3.1. Mùa lá rụng trong vườn (Trích) -Ma Văn Kháng- (Ngữ văn 12,
ban cơ bản).
3.3.3.2. Một người Hà Nội - Nguyễn Khải - (Ngữ văn 12, ban cơ bản).
3.3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm.
3.4. Tiểu kết.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 : Phiếu tham khảo ý kiến giáo viên
Phụ lục 2 : Phiếu thu thập ý kiến học sinh
49

50

50
50

50
52

61

61
65
66
66
66
66
66
66
67
67

74
84
88
89
89
90
92
95
95
98



4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BCH TW : Ban chấp hành trung ương
CNH : Công nghiệp hóa
GD- ĐT : Giáo dục – Đào tạo
GS : Giáo sư
HĐH : Hiện đại hóa
HS: Học sinh
NCGD : Nghiên cứu giáo dục
NXB ( Nxb) : Nhà xuất bản
NXB ĐHSP : Nhà xuất bản Đại học sư phạm
NXB ĐHQG : Nhà xuất bản Đại học quốc gia
PGS.TS : Phó giáo sư. Tiến sĩ.
PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
SV: Sinh viên
THPT: Trung học phổ thông
















8



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1 : Thống kê các bài đọc thêm môn Ngữ văn bậc THPT
Bảng 3.1 : Điều tra về kết quả tự học của HS sau thực nghiệm sư phạm
Bảng 3.2 : Điều tra thái độ của HS sau thực nghiệm sư phạm
Bảng 3.3 : Điều tra về nội dung hướng dẫn sau thực nghiệm sư phạm
Bảng 3.4 : Thống kê kết quả bài tập giải quyết vấn đề.
Bảng 3.5 : Đánh giá kết quả thu hoạch về năng lực tự học của học sinh
Bảng 3.6 : Thăm dò ý kiến GV sau thực nghiệm sư phạm





























9

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Theo tiêu chuẩn giáo dục của thanh niên thế giới khi bước vào thế kỷ
XXI, thì giới trẻ phải đạt được 10 kỹ năng ứng dụng học vấn vào đời sống,
trong đó “kỹ năng tự học, tự nâng cao trình độ cá nhân trong mọi tình
huống”, [8, tr.4] là có tính bao trùm và quan trọng hơn cả. Ta thấy "Tự học là
con đường tự khẳng định, là con đường sống, là con đường thành đạt của mỗi
con người muốn vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại" [16]. Như vậy "Nếu
kỷ nguyên tin học trước hết phải là một kỷ nguyên giáo dục, thì kỷ nguyên
giáo dục cốt lõi là kỷ nguyên tự học – tự đào tạo" [26].
Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục
đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học là phương thức cơ bản
để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Tự
học - tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó cũng là
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua các câu thành

ngữ, tục ngữ "Học một, biết mười", "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn",
"Học thầy không tày học bạn". Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng
lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến quá trình giáo
dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong
trào toàn dân tự học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về việc "lấy tự học làm gốc" đã được nhân
dân ta luôn coi trọng. Điều 5 của Luật Giáo dục 2005 quy định "Phương pháp
giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên"; " đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh phát triển phong trào tự học, tự đào tạo ."; " tạo ra năng lực
tự học sáng tạo của mỗi học sinh" [23].

10
Hội nghị lần thứ II BCH TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII đã
thông qua Nghị quyết số 02 – NQ /HNTW “ Về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”
nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy- học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào
tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”[25]. Giáo
sư Phan Trọng Luận cũng khẳng định : “Tự học xét cho kỹ là một vấn đề then
chốt của giáo dục đào tạo đồng thời cũng là vấn đề có ý nghĩa văn hóa, khoa
học, xã hội và chính trị sâu sắc. Đề cao tự học trong bối cảnh hiện nay của
đất nước và thế giới trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI là một cách nhìn thực
tế, vừa có ý nghĩa chiến lược.” [17]. Từ đó có thể thấy tự học, tự nghiên cứu
là một tư tưởng chiến lược của chương trình phát triển giáo dục thời đại mới
cũng như của khoa sư phạm hiện đại.

1.2. Xuất phát từ yêu cầu của chiến lược phát triển con người và những đòi
hỏi bức bách của công cuộc cải cách giáo dục ở nước ta, những năm gần đây,
trong ngành giáo dục có cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học trong
đó một số phương pháp dạy học tích cực được đề cập và quan tâm như một
biện pháp hữu hiệu để người học hoạt động tự giác, tích cực, độc lập và sáng
tạo trong quá trình học tập, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

11
"Tích cực" trong PPDH được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái
nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu
cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
dạy.
1.3. Nhằm hiện thực hóa Khung chương trình môn Ngữ văn bậc THPT của
Bộ GD-ĐT, phân phối chương trình môn Ngữ văn THPT của Sở GD-ĐT Hải
Phòng hướng dẫn thực hiện dạy các bài Đọc thêm và các bài Tự học có ghi rõ
: “Giáo viên cần dành thời lượng nhất định (3 đến 5 phút hoặc có thể nhiều
hơn tùy theo mục tiêu đề ra sau khi đã dạy phần chính), hướng dẫn học sinh
rất ngắn gọn cách thức tự học, tự đọc. Dành tỉ trọng câu hỏi và điểm kiểm tra
thích đáng để kiểm tra kiến thức và kĩ năng Tự học và Đọc thêm”[28]. Từ yêu
cầu đó có thể thấy, phần Đọc thêm và Tự học có hướng dẫn chiếm một vị trí
quan trọng trong việc giúp học sinh hoàn chỉnh thêm kiến thức về mặt loại thể
và làm phong phú hơn kiến thức văn học trong một thời kỳ, một giai đoạn văn
học nhất định. Đồng thời, nó còn giúp học sinh rèn năng lực đọc hiểu văn bản

và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu.
1.4. Tự học là một hình thức học. Vậy hoạt động tự học cũng phải có mục
đích, nội dung và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học có hướng dẫn vừa
phải đảm bảo thực hiện đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc
điểm nhận thức của HS. Cần hiểu mối quan hệ giữa dạy và tự học là quan hệ
giữa tác động bên ngoài và hoạt động bên trong. Tác động dạy của GV là bên
ngoài, hỗ trợ cho HS tự phát triển, chỉ có tự học của HS mới là nhân tố quyết
định sự phát triển của bản thân HS.
Từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Dạy học phần đọc thêm
các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học
có hướng dẫn”.

12
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung.
Vấn đề tự học của HS – SV đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan
tâm ở nhiều góc độ khác nhau. Ở nước ngoài, trong sách “Học tập hợp lí”
(Cộng hòa dân chủ Đức trước đây) do R.Retzke chủ biên, các tác giả đã đề
cập đến vấn đề bồi dưỡng năng lực tự nghiên cứu cho HS mới vào trường.
Năm 1984, NXB Thanh niên giới thiệu cuốn “Nghiên cứu học tập như thế
nào” của Hebơc Smitman (Cộng hoà dân chủ Đức). Với cuốn sách này, tác
giả đã đề cập tới nhiều vấn đề về phương pháp nghiên cứu và tự học như thế
nào cho khoa học và đạt kết quả cao. Cuốn“Tự học như thế nào” của
Rubakin, dịch giả là Nguyễn Đình Côi, xuất bản năm1982 đã giúp bạn đọc
biết tự học tập, nâng cao kiến thức toàn diện của mình. Cuốn “Phương pháp
dạy và học hiệu quả” – Cark Rogers – một nhà giáo dục học, nhà tâm lý học
người Mĩ do Cao Đình Quát dịch đã giải đáp cho HS câu hỏi học cái gì và học
như thế nào? Câu hỏi dạy cái gì và dạy như thế nào cũng được giải đáp. Ngoài
ra, còn khá nhiều cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề tự học.
Ở nước ta, trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện một số bài viết

về tự học. Tác giả Vũ Quốc Anh có bài viết: “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo
của HS THPT”. GS. Phan Trọng Luận với bài: “Dạy văn để HS tự học văn”.
Tại Hà Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên cứu tự
học – tự đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều GS đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội dung các bài viết, các bài
phát biểu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành
phải chăm lo xây dựng phong trào tự học toàn dân. Bộ trưởng Bộ giáo dục -
đào tạo Nguyễn Thị Bình nói: “Năng lực tự học – tự đào tạo đều tiềm ẩn
trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với
quan tâm tự học – tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra “nội
lực” cần thiết cho sự phát triển một con người và cho đất nước”. Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục số 2 năm 1998 đã đặc biệt quan tâm đăng tải một số bài

13
viết tiêu biểu trong hội thảo: “Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục” của GS.
Phan Trọng Luận, “Vì năng lực tự học sáng tạo của HS” của Nguyễn Nghĩa
Dân. Tiếp theo đó, tạp chí Nghiên cứu giáo dục đã có rất nhiều các bài viết
khác như bài của Thạc sĩ Thái Văn Long (Cà Mau) “Khơi dậy và phát huy
năng lực tự học sáng tạo của người học trong Giáo dục - đào tạo”, hay “Vị trí
của tự học, tự đào tạo trong quá trình dạy học, giáo dục và đào tạo” của GS.
Trần Bá Hoành, “Hồ Chí Minh với vấn đề tự học” của GS. Đặng Quốc Bảo.
Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự học” -
Nguyễn Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” - Nguyễn Hiến Lê,
“Luận bàn và kinh nghiệm tự học” - Nguyễn Cảnh Toàn Những cuốn sách
này chủ yếu đúc kết những kinh nghiệm quý báu trong quá trình tự học của
một số tác giả. Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho ra
mắt bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tạp chí này đã thu hút sự quan tâm chú ý và sự
tham gia luận bàn về vấn đề tự học của nhiều nhà khoa học, giáo sư, nhà
giáo Các tác giả đã cung cấp lý thuyết dạy tự học như thế nào, bên cạnh đó
có thể hiện thiết kế bài học một số môn. Tuy vậy, các cuốn sách hầu như mới

chỉ dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các
biện pháp cụ thể đối với từng môn học.
Cuốn “Học và dạy cách học” do tác giả Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên,
NXB ĐHSP, xuất bản 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt
Nam viết một cách có hệ thống về việc “học” và “dạy cách học”. Cuốn sách
này đã thực sự là tài liệu bổ ích cho yêu cầu cấp bách về đổi mới phương
pháp dạy và học ở Việt Nam, đặc biệt là quá trình dạy tự học.
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn.
Ngữ văn là một môn học có những đặc trưng riêng đòi hỏi người đọc
phải có sự liên tưởng, tưởng tượng, nên trong việc thay đổi phương pháp
giảng dạy thì giảng dạy môn Ngữ văn cũng là một vấn đề được quan tâm.
Cuốn “Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học” do nhóm tác
giả Trần Bá Hoành, Nguyễn Trí, Cao Đức Tiến, Nguyễn Trọng Hoàn biên

14
soạn do NXB ĐHSP Hà Nội xuất bản đã nói đến một trong những đặc trưng
của phương pháp tích cực đó là tự học. Các tác giả cũng nhấn mạnh đến nội
dung dạy và học tập trung vào HS. Ở đó, các tác giả không chỉ quan tâm đến
kiến thức, năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cuốn “Văn học giáo dục thế kỉ XXI” của GS Phan Trọng Luận, NXB
ĐHQG Hà Nội, 2002 có một số bài đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp
và vấn đề tự học. Với bài “Tự học – chuyện cũ mà mới”, tác giả đã đề cập đến
bí mật và bí quyết của tự học. Hay bài “Dạy cho sinh viên tự học và học sáng
tạo”, tác giả nhấn mạnh đến vấn đề: muốn cho sinh viên tự học và học sáng
tạo thì phải cải tiến lại nội dung bài giảng ở đại học, nâng cao hơn nữa chất
lượng bài giảng.
Như vậy, đã có rất nhiều những bài viết, những công trình đề cập đến
vấn đề tự học nói chung và tự học môn Ngữ văn nói riêng. Các bài viết đã chỉ
ra được mục tiêu, cách thức, biện pháp để dạy tự học. Tuy nhiên, các bài viết
còn thiên về mặt lí thuyết mà chưa cụ thể hoá đối với từng môn học, phân

môn của nhà trường phổ thông.
Ví dụ: đổi mới môn văn học mới chỉ tiếp cận về quá trình dạy tự học ở
góc độ giáo dục còn cụ thể với từng loại bài học như giảng văn, văn học sử,
tiếng Việt, tập làm văn thì chưa có bài viết nào đề cập đến một cách sát
thực, vẫn còn thiếu vắng những chuyên luận vừa mang tính lí luận vừa mang
tính thực tiễn, sát thực với từng phân môn cụ thể của nhà trường THPT.
Từ năm 1995 trở lại đây, nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng nghiên cứu
đến vấn đề tự học, tự nghiên cứu ví dụ như tác giả Lê Khánh Toàn với đề tài
“Hình thành năng lực nghiên cứu tự học cho học sinh THPT qua giờ Văn học
sử” hay như tác giả Phạm Kim Xuyến với đề tài “Rèn luyện năng lực tự học
cho học sinh THPT qua giờ văn học sử”.
Rất nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống các phương pháp dạy học
văn nói chung, vấn đề tự học, tự nghiên cứu nói riêng, nhưng phương pháp
dạy phần Đọc thêm trong chương trình phổ thông còn ít được chú trọng. Trên

15
cơ sở tiếp thu những người đi trước, chúng tôi chọn đề tài luận văn là : Dạy
học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình ngữ văn lớp 12
theo hướng tự học có hướng dẫn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Từ việc tìm hiểu đặc trưng của tác phẩm tự sự, khảo sát về việc dạy-
học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 trong trường THPT, luận văn đề
xuất PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 trong trường THPT
theo hướng tự học có hướng dẫn nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy -
học môn Ngữ văn nói chung và rèn năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh THPT nói riêng theo quan điểm dạy học hiện đại .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát về việc dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 trong

trường THPT.
- Đề xuất PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ
văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn .
- Hiện thực hóa PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình
Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn bằng hoạt động tổ chức dạy
học.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm. Kiểm chứng về mức độ đạt được khi áp dụng
PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12
theo hướng tự học có hướng dẫn qua thực nghiệm giảng dạy.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng.
Đối tượng mà đề tài hướng tới là PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự
sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
4.2. Phạm vi khảo sát.

16
-Trích đoạn tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng;
tác phẩm Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải (SGK Ngữ văn 12,
Ban cơ bản).
- Đối tượng khảo sát:
+ GV và HS trường THPT Mạc Đĩnh Chi - quận Dương Kinh - Hải Phòng.
+ GV và HS trường THPT Hải An - quận Hải An - Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra nhằm khảo sát phần đọc thêm ngữ văn, thăm dò, lấy ý
kiến giáo viên và học sinh
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Thử nghiệm sư phạm kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của vấn đề được đề
xuất trong luận văn.
6. Cấu trúc luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ
lục, danh mục viết tắt, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Đề xuất phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm
tự sự.
Chương 3 : Thực nghiệm sư phạm.








17
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.2. Xu hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học.
1.2.1. Xu hướng đổi mới.
Mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại là đổi mới phương pháp giáo
dục. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết
định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính
phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục.
Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng
dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho ng-
ười học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và
có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng c-
ường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học
tập, ”[7].

Theo PGS.TS. Trịnh Văn Biều[3], một số xu hướng đổi mới phương
pháp dạy học trên thế giới và trong nước ta hiện nay là :
1- Phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển
lối học từ thông báo tái hiện sang sáng tạo, tìm tòi, khám phá.
2- Cá thể hóa việc dạy học.
3- Sử dụng tối ưu các phương tiện dạy học đặc biệt là tin học và công nghệ
thông tin vào dạy học.
4- Tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào đời sống. Chuyển từ lối học
nặng nề về tiêu hóa kiến thức sang lối học coi trọng việc vận dụng kiến thức.
5- Cải tiến việc kiểm tra và đánh giá kiến thức .
6- Phục vụ ngày càng tốt hơn hoạt động tự học và phương châm tự học suốt
đời.

18
7- Gắn dạy học với nghiên cứu khoa học với mức độ ngày càng cao (theo sự
phát triển của HS, theo cấp học, bậc học).
Trong các xu hướng trên, có thể nói, việc phát huy tính tích cực chủ
động và khả năng tự học của học sinh là những xu hướng đổi mới quan trọng
về phương pháp dạy và học hiện nay. Tự học, tự đào tạo là một con đường
phát triển suốt đời của mỗi con người. Đó cũng là giáo dục được nâng cao khi
phát huy năng lực sáng tạo của người học, biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân
tự học. Vì vậy một cuộc vận động tích cực, có kế hoạch, kiên trì và khẩn
trương, thường xuyên và rộng khắp nhằm từng bước tạo ra năng lực tự học
cho học sinh cùng phong trào toàn dân tự học, tự đào tạo, mang lại chất lượng
đích thực cho giáo dục.
1.1.2. Một số quan niệm về dạy cách học:
Một số quan niệm về việc dạy học:
- Dạy là truyền đạt thông tin. Theo quan niệm này thì việc dạy học là việc lấy
thầy làm trung tâm, GV truyền cho học sinh càng nhiều thông tin càng tốt và

giáo viên không quan tâm tới việc HS nắm bắt được bao nhiêu % kiến thức từ
nguồn thông tin dồi dào đó.
- Dạy là truyền đạt kiến thức và thái độ đối với kiến thức đó: Theo quan niệm
này thì việc dạy học là việc lấy thầy làm trung tâm nhưng có nhấn mạnh việc
phát triển ở học sinh. Theo cách học này HS có khả năng xử lý tài liệu và áp
dụng được kiến thức, biết sử dụng thông tin một cách hữu hiệu.
- Dạy là giúp cho người học được học tập dễ dàng: Theo quan niệm này, việc
dạy của giáo viên được nhấn mạnh là việc giúp HS. GV giúp HS thông hiểu
vấn đề bằng cách trình bày lại nội dung ở mức độ thích hợp và có thể áp dụng
một cách linh hoạt và sáng tạo.
- Dạy là hỗ trợ cho việc học của học sinh: Theo quan niệm này thì việc dạy
được coi là hoạt động lấy trò làm trung tâm, trong đó người học chịu trách
nhiệm về việc học và nội dung học. Trách nhiệm của GV là giúp HS trong

19
việc lên kế hoạch, điều khiển và cung cấp những mối liên hệ ngược như phản
hồi. Cách học này phù hợp với SV trình độ đại học.
Hai quan niệm đầu là cách dạy thiên về số lượng, GV chỉ chú trọng đến
lượng kiến thức truyền đạt cho HS. Hai quan niệm cuối thiên về chất lượng.
Trọng điểm của việc dạy là thay đổi cách nhìn, cách dùng kiến thức. Việc dạy
của GV nhằm làm cho việc học được dễ dàng hơn.
1.1.4. Phương pháp dạy học tích cực.
1.1.3.1.Quan niệm về PPDH nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa
trái với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động

nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực
nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách
học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy
của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt
động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng
hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích
ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng
cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập
chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy
học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động

20
dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ
"Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Con người
không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có mà còn chủ động sản xuất ra của cải vật
chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, chủ động cải tạo môi
trường tự nhiên, xã hội.
Khơi dậy và phát huy tính tích cực là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của giáo dục hiện đại, nhằm đào tạo những con người năng động
góp phần phát triển xã hội.
1.1.3.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.
a, Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt
động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám
phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức

đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực
tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề
đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới,
vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo
những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức
mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học
sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của
cộng đồng.
b, Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một
mục tiêu dạy học.

21
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin,
khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét
vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy
cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao
hơn càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học
thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người,
kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn
mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến
từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay
trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả
trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
c, Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể

đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận
sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài
học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này
càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường
sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng
của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi
trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá
nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh
luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,
qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được
vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.

22
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động
hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học
tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự
nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt
động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của
mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh
thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ
làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã
hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc
gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà
nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
d, Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.

Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương
pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh
giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng
và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong
cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh
giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống thực tế.

23
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn
là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp
thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ
để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu
kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh
hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn
giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy
và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở,
xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng,
tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu
rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt

động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:

Dạy học cổ truyền
Các mô hình dạy học mới

Quan
niệm
Học là quá trình tiếp thu và
lĩnh hội, qua đó hình thành
kiến thức, kĩ năng, tư
tưởng, tình cảm.
Học là quá trình kiến tạo; học sinh
tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện
tập, khai thác và xử lý thông
tin,…tự hình thành hiểu biết, năng
lực và phẩm chất.
Bản
chất
Truyền thụ tri thức, truyền thụ
và chứng minh chân lí của giáo
viên.
Tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh. Dạy học sinh cách tìm ra
chân lí.


Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Học để đối phó
với thi cử. Sau khi thi xong

Chú trọng hình thành các năng lực
(sáng tạo, hợp tác,…), dạy phương
pháp và kĩ thuật lao động khoa

24
Mục
tiêu
những điều đã học thường bị
bỏ quên hoặc ít dùng đến.
học, dạy cách học. Học để đáp ứng
những yêu cầu của cuộc sống hiện
tại và tương lai. Những điều đã
học cần thiết, bổ ích cho bản thân
học sinh và cho sự phát triển xã
hội.


Nội
dung
Từ sách giáo khoa + giáo viên
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK,
GV, các tài liệu khoa học phù hợp,
thí nghiệm, thực tế…gắn với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của HS.
- Những vấn đề HS quan tâm.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và
môi trường địa phương.
Phương
pháp

Các phương pháp diễn giảng,
truyền thụ kiến thức một chiều.
Các phương pháp tìm tòi, điều tra,
phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy
học tương tác

Hình thức
tổ chức
Cố định: Giới hạn trong bốn
bức tường của lớp học, GV đối
diện với cả lớp.
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở
phòng thí nghiệm, hiện trường,
trong thực tế…, học cá nhân, đôi
bạn, nhóm, cả lớp đối diện với
GV.
1.3. Cơ sở lý luận về tự học.
1.3.1. Một số quan điểm về tự học.
Nhà tâm lý học N.A. Rubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự
học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong
thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh
nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến

25
tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của
chủ thể.
Theo GS. TS Nguyễn Cảnh Toàn : “Tự học – là tự mình dùng các giác
quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ
(quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp ) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử
dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả

nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh được một lĩnh vực hiểu biết nào
đó của nhân loại,một số kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân
loại hay cộng đồng biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới
cũng có thể coi là một hình thức tự học cao cấp”[32, tr. 407].
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn
về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra
tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải
quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân
hóa việc học”.
Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, tự học là một truyền thống tốt đẹp
được lưu giữ và học tập. Những tấm gương tự học nổi bật nhất như thày Chu
Văn An, trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Bác Hồ. Theo Bác tự học chính
là sự nỗ lực của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học một
cách có kế hoạch trên tinh thần tự động học tập. Người từng nói: "Còn sống
thì còn phải học".
Như vậy, tự học là khả năng tự tìm tòi, tự học hỏi, tự nghiên cứu những
tài liệu, những thông tin để biến tri thức của nhân loại thành tri thức của riêng
mình để tự phát triển trình độ, khả năng hiểu biết của mình về mọi lĩnh vực trong
cuộc sống: "Tự học, tự nghiên cứu là một quá trình, trong đó mỗi con người tự
suy nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và các phẩm chất của bản thân, tự khai
thác vận dụng những điều kiện vật chất có thể để biến kiến thức nào đó của
người khác để làm cho công việc của bản thân có hiệu quả hơn" [31].

26
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể thấy: Tự học là quá trình
cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh
vực nào đó trong cuộc sống, bằng hành động của chính mình nhằm đạt được
mục đích nhất định.
1.2.4. Các hình thức tự học.

Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
1.2.2.1. Tự học hoàn toàn (Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc
lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên).
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của
quá trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học
mới, đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được
dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng
thời phải có một vốn tri thức sâu rộng. Tới trình độ tự học này người học
không thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu
quả hoạt động của mình.
1.2.2.2. Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
- Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách
qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi
người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
- Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy
và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng
phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,
1.2.2.3. Tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ,
chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai
trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham

27
gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ
giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất
xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy,

nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ
năng của bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của
người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên,
được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học
thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự học của HS có
liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giáo viên và quá
trình tự học của HS.
1.2.5. Tự học có hướng dẫn.
Theo Luật Giáo dục, học từ xa, vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn
thuộc phương thức giáo dục không chính quy. Trong các hình thức giáo dục
này, người học chủ yếu phải tự học bằng sách giáo khoa, bằng các loại học
liệu, bằng kế hoạch và các điều kiện, phương tiện của mình để đạt được một
mục tiêu hay một chương trình đào tạo.
Tự học là một hình thức học. Vậy hoạt động tự học cũng phải có mục
đích, nội dung và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học có hướng dẫn vừa
phải đảm bảo thực hiện đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc
điểm nhận thức của HS.
Cần hiểu mối quan hệ giữa dạy và tự học là quan hệ giữa tác động bên
ngoài và hoạt động bên trong. Tác động dạy của GV là bên ngoài hỗ trợ cho
HS tự phát triển, chỉ có tự học của HS mới là nhân tố quyết định sự phát triển
của bản thân HS. Hình thức tự học có hướng dẫn là hướng dẫn để HS tự học.
Trong tự học có hướng dẫn, HS nhận được sự hướng dẫn từ hai nguồn : từ tài
liệu hướng dẫn và trực tiếp từ GV.

28
Hoạt động tự học của HS có nhiều khâu, nhiều bước, được tiến hành
thông qua các hoạt động học tập của chính bản thân họ. Đây là quá trình tự
giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của chính

mình hướng tới những mục đích nhất định. Vì vậy, quá trình tổ chức dạy học
phải làm cho hoạt động học của HS chuyển từ trạng thái bị động sang chủ
động. HS biết tự sắp xếp, bố trí các công việc sẽ tiến hành trong thời gian tự
học, biết huy động các điều kiện, phương tiện cần thiết để hoàn thành từng
công việc, biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả hoạt động tự học của chính
mình.
Như vậy hình thức tự học có hướng dẫn ở đây được hiểu là hoạt động
tự lực của HS để chiếm lĩnh tri thức khoa học đã được qui định thành kiến
thức học tập trong chương trình và SGK với sự hướng dẫn trực tiếp hoặc gián
tiếp của GV thông qua các phương tiện học tập như tài liệu tự học có hướng
dẫn, tài liệu tra cứu, giáo án điện tử,
1.2.4. Vai trò của tự học.
Khi bàn về vai trò của tự học, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát
biểu: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi
người, trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó
cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất
lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo
của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
Qui mô của giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học” (Trích
thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày
6/1/1998) [11].
Trong quá trình dạy học nói chung, giáo viên luôn giữ một vai trò quan
trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn,
chỉ đạo hoạt động học tập của HS. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giáo viên
có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng
học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân,

×