ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ ANH ĐÀO
DẠY HỌC TÁC PHẨM KÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN LỚP 12, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TÁC GIẢ
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
DẠY HỌC TÁC PHẨM KÝ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12, TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG THEO PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TÁC GIẢ
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: PHƯƠNG PHÁP VÀ LÍ LUẬN DẠY HỌC
BỘ MƠN NGỮ VĂN
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG
HÀ NỘI – 2012
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
i
Danh mục các chữ viết tắt
ii
MỞ ĐẦU
trang 1
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
8
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về tiếp nhận tác phẩm văn chương
8
của học sinh trung học phổ thơng
1.1.1. Lí luận tiếp nhận với việc dạy học tác phẩm văn chương
8
1.1.2. Tâm lý tiếp nhận tác phẩm kí của học sinh trung học phổ thơng
9
1.2. Thể loại kí và đặc trưng thể loại kí văn học
10
1.2.1. Khái niệm
10
1.2.2. Đặc trưng thể loại kí văn học
13
1.2.3. Tiểu loại bút kí và tùy bút của thể kí văn học
19
1.3. Phong cách nghệ thuật nhà văn và đặc sắc phong cách nghệ thuật
25
của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
1.3.1. Khái niệm “ phong cách nghệ thuật nhà văn”
25
1.3.2. Đặc sắc phong cách tùy bút của Nguyễn Tuân
27
1.3.3. Đặc sắc phong cách bút kí của Hồng Phủ Ngọc Tường
35
Chương 2. Thực trạng và định hướng dạy học các tác phẩm kí
39
trong chương trình Ngữ Văn 12 theo phong cách nghệ thuật tác
giả
2.1. Thực trạng dạy học các tác phẩm kí trong chương trình
39
Ngữ Văn 12 trung học phổ thơng
2.1.1. Tác phẩm kí trong chương trình Ngữ Văn 12
39
2.1.2. Khảo sát q trình dạy học các tác phẩm kí trong chương trình
40
Ngữ Văn 12
2.1.3. Đánh giá chung về tình hình dạy học các tác phẩm kí trong
49
chương trình Ngữ Văn 12
2.1.4. Phân tích ngun nhân tình hình dạy học các tác phẩm kí trong
52
chương trình Ngữ Văn 12
2.2. Định hướng đổi mới dạy học các tác phẩm kí trong chương trình
53
Ngữ Văn 12 theo hướng phong cách nghệ thuật tác giả
2.2.1. Quá trình dạy học các tác phẩm kí cần phải theo đặc trưng thể
53
loại
2.2.2 Q trình dạy học các tác phẩm kí cần phải theo phong cách
57
nghệ thuật tác giả
2.2.3. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, chú trọng
66
hoạt động đọc văn của học sinh trong quá trình dạy học tác phẩm kí
2.2.4. Sử dụng đồ dùng trực quan, công nghệ dạy học hiện đại và tổ
71
chức các hoạt động ngoại khóa để tạo hứng thú cho học sinh trong q
trình dạy học các tác phẩm kí
2.2.5. Thiết kế giáo án thực nghiệm đoạn trích Người lái đị Sông Đà
72
của Nguyễn Tuân
2.2.6. Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học đoạn trích Ai đã đặt tên
87
cho dịng sơng? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Chương 3. Thực nghiệm dạy học
101
3.1. Những vấn đề chung
101
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
101
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
101
3.1.3. Nội dung thực nghiệm
102
3.2. Tiến trình thực nghiệm
102
3.2.1. Lên kế hoạch thực nghiệm
102
3.2.2. Làm việc với giáo viên dạy thực nghiệm
103
3.2.3. Tổ chức dạy thực nghiệm
103
3.3. Kết quả thực nghiệm
103
3.3.1. Tiến hành kiểm tra
103
3.3.2. Kết quả kiểm tra
106
3.4. Đánh giá quá trình thực nghiệm
107
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
113
PHỤ LỤC
115
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Một nền văn học khơng có sự góp mặt của các thể kí văn học,
chắc chắn khơng phải là một nền văn học cân đối, nhiều màu sắc và giàu
tính chiến đấu. Kí văn học đem lại cho người đọc một các nhìn chân thực
nhất, tươi mới nhất, sinh động nhất về hiện thực cuộc sống, cũng như nó vẫn
giữ được những âm vang sâu sắc nhất về nghệ thuật trong mình. Thế nhưng
trên thực tế, các tác phẩm kí văn học chỉ được “ sống là chính nó” trong lòng
một phần nhỏ độc giả - những nhà nghiên cứu phê bình văn học, cịn phần
lớn độc giả dường như đã lãng quên “ đứa con thứ tinh thần của các nhà
văn”.
1.2. Dạy học mơn Ngữ Văn nói chung và thể loại kí văn học nói riêng
trong nhà trường phổ thông cũng đang là một vấn đề nan giải đặt ra cho
chúng ta. Một trong những phương pháp tối ưu nhất của việc dạy học tác
phẩm văn chương là dạy học theo đặc trưng thể loại, theo phong cách nghệ
thuật tác giả nhất là đối với thể kí văn học.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Dạy học
tác phẩm kí trong chương trình Ngữ Văn 12, trung học phổ thông theo
phong cách nghệ thuật tác giả để tìm hiểu thêm về thực trạng của việc dạy
học tác phẩm kí, từ đó góp phần đề xuất phương hướng dạy học các tác
phẩm kí nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn Ngữ Văn nói chung và thể
loại kí nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về thể loại tùy bút và bút kí
nói chung cũng như các tác phẩm kí trong chương trình Ngữ Văn 12 nói
-5-
riêng. Tuy nhiên, tác phẩm văn học giống như một “ khối vuông Rubic” với
vô vàn cấu trúc mở, mà với mỗi cấu trúc mở đó lại cho chúng ta những cách
nhìn mới. Vì thế, sẽ là một nhận định sai lầm khi cho rằng: “mảnh đất” kí
văn học đã được “ cày xới” kĩ lưỡng, và đã tìm ra một phương pháp dạy học
tối ưu cho các đoạn trích kí trong chương trình Ngữ Văn lớp 12.
Trên cơ sở tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu đã có, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng trong q trình dạy học, đề tài Dạy học tác phẩm ký
trong chương trình Ngữ Văn 12, trung học phổ thông theo phong cách
nghệ thuật tác giả mong muốn được đóng góp thêm tiếng nói riêng của
mình vào “ mảnh đất” kí văn học, tạo ra những giờ học hấp dẫn sinh động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý luận về tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn chương, đặc
trưng thể loại kí văn học, phong cách nghệ thuật tác giả, để đề xuất các
phương pháp trong q trình dạy học các tác phẩm kí ở chương trình Ngữ
Văn lớp 12 nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận như: Đặc trưng thể loại kí văn học,
phong cách nghệ thuật tác giả.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học các tác phẩm kí trong chương trình Ngữ
Văn 12 của giáo viên và học sinh, tại trường THPT Nguyễn Khuyến, Nam
Định
- Vận dụng lý thuyết dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể
loại, phong cách nghệ thuật tác giả, các phương pháp dạy học vào thiết kế
các bài dạy: Người lái đị Sơng Đà và Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng kết quả nghiên cứu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-6-
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học các đoạn trích kí trong chương trình Ngữ Văn 12
Học sinh lớp 12, giáo viên dạy Ngữ văn 12, trường THPT Nguyễn
Khuyến, thành phố Nam Định, năm học 2012-2013
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Đặc trưng thể loại kí văn học, phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường và quá trình tổ chức hoạt
động dạy học các đoạn trích kí trong chương trình Ngữ Văn 12
Phạm vi thời gian: từ tháng 6/ 2012 đến tháng 11 /2012
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh, đối chiếu; Phương pháp khảo sát, thực nghiệm,
thống kê, phân tích; Phương pháp hệ thống hóa, nghiên cứu tiếp thu có chọn
lựa các cơng trình, tài liệu có liên quan đến luận văn
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng và định hướng dạy học tác phẩm kí trong
chương trình Ngữ Văn 12, trung học phổ thơng theo phong cách nghệ thuật
tác giả
Chương 3: Thực nghiệm dạy học
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về việc tiếp nhận tác phẩm văn
chƣơng của học sinh cấp trung học phổ thơng
1.1.1. Lí luận tiếp nhận với việc dạy học tác phẩm văn chương
-7-
Q trình dạy học văn chương trong trường phổ thơng cũng phải gắn
liền với quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung. Tuy nhiên chủ thể
tiếp nhận trong trường phổ thơng khá đặc biệt, đó chính là học sinh mang
những nét tâm lý đặc thù riêng.
Trong quá trình dạy học văn chương, người giáo viên phải giúp học
sinh “vừa thoát khỏi sự đè bẹp của “ kinh nghiệm” của nhà văn, vừa thoát
khỏi sự đè bẹp của “ kinh nghiệm” của ông thầy, để “kiến tạo” nên những tri
thức mới cho mình”. [5, tr.14]
1.1.2. Tâm lý tiếp nhận tác phẩm kí của học sinh trung học phổ thơng
Kí là một thể loại văn học mà học sinh đã từng biết đến trong chương
trình Ngữ Văn trung học cơ sở, cũng như, các em đã được làm quen với
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ Văn 11, vì
thế việc tìm hiểu đoạn trích: Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn cũng
có ít nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, với đoạn trích Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường thì là một thử thách lớn, bởi đây là lần
đầu tiên tác phẩm có mặt trong chương trình Ngữ Văn 12.
Ngồi ra, đặc trưng của thể loại kí khác xa với đặc trưng của thể loại
truyện ngắn hay thơ ca...- những thể loại quen thuộc với học sinh, vì thế
khiến cho khoảng cách thẩm mỹ giữa tác phẩm kí với bạn đọc học sinh có
phần hơi xa.
Bên cạnh đó, tâm lý của một số giáo viên trẻ và học sinh cho rằng loại
hình nghệ thuật này vừa khó vừa ít có khả năng “có mặt” trong đề thi của
các kì thi kiểm tra, tốt nghiệp, đại học, từ đó đã vơ tình nhân đơi sự khó khăn
cho q trình tiếp nhận tác phẩm thể kí.
1.2. Thể loại kí và đặc trƣng thể loại
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm “ thể loại văn học”
-8-
Theo Trần Đình Sử (chủ biên), giáo trình Lí luận văn học ( tập 2), “
Thể loại văn học là một hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học. Tác phẩm
văn học nào cũng có một hình thể, có một “ thể” cấu tạo, thể thức ngôn từ
nhất định. Các hình thức cá biệt ấy hết sức đa dạng. Song giữa các tác phẩm
khác biệt ấy lại thấy có những đặc điểm gần gũi nhau về ngơn từ, hình
tượng, cấu tạo, hình thành nên những “ loại” nhất định. “ Loại” đó là những
nét tương đồng loại hình làm nên thể loại văn học...Các thể loại chỉ bao gồm
những nét chung của các tác phẩm cụ thể, cá biệt, đa dạng. Trong mỗi “
loại” đó lại có thể chia ra các “ tiểu loại nhỏ hơn”. Như vậy, thể loại văn học
trước hết là một hiện tượng loại hình của hoạt động sáng tác và giao tiếp văn
học, được hình thành trên cơ sở lặp đi lặp lại có quy luật của các yếu tố tác
phẩm. Tuy nhiên thể loại văn học khơng đơn giản là loại hình và sự lặp lại.
Bởi sáng tác văn học là một quá trình sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Bên cạnh
những điểm giống nhau để đặt tác phẩm vào cùng một “ loại”, thì mỗi tác
phẩm văn học đều có những nét độc đáo để hình thành “ thể” của “ loại”.
1.2.1.2. Khái niệm “ thể loại kí văn học”
Trong cuốn Kí nghệ thuật Xơ viết – những vấn đề lí thuyết và nghệ
thuật thể loại, nhà nghiên cứu Xô viết Ruwbinxeps cho rằng: “ Về kí, thực tế
là khơng thể nói đến cái gì xác định được đặc trưng thể loại của nó”. Nhà
văn Tơ Hồi nói rằng: “ Kí cũng như truyện ngắn, truyện dài, hình thù nó
đấy, nhưng vóc dáng nó ln ln đổi mới, địi hỏi sáng tạo và thích ứng.
Cho nên càng chẳng nên trói nó vào một cái khn”. Cịn với Trần Đình Sử,
ơng cho rằng: “ Kí khơng phải giản đơn là nhóm tác phẩm văn xi khơng
quy được vào truyện, thơ, kịch thì quy vào kí”. Thiết nghĩ, đó là những quan
điểm chính xác. Bởi lẽ, “ kí có cái hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của
nó”, cũng giống như truyện có hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của
truyện, và thơ có đặc trưng riêng làm nên thơ ca.
-9-
1.2.2. Đặc trưng thể loại kí văn học
1.2.2.1. Kí lấy sự thật khách quan của đời sống và tính xác thực của đối
tượng làm cơ sở
Trong Tạp chí văn học số 154 năm 1964, Bùi Hiển nói: “ Chúng ta
nên nhớ là trong bút kí, phóng sự, tính xác thực của sự việc là một điều cốt
yếu. Thêm hư cấu để đưa đẩy sự việc, chỉ khiến cho sự việc trở thành thực
thực, hư hư trong trí người đọc, khơng có lợi”. Hồng Phủ Ngọc Tường và
nhiều tác giả trong Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, cũng cho rằng với thể
loại kí “ cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm”, hay như theo Nguyễn Xuân
Nam có viết trong Từ điển Văn học tập 1, “tính chính xác tối đa là đặc trưng
cơ bản của kí”. Nói một cách dễ hiểu, “ sự thật khách quan của đời sống”, “
tính xác thực của đối tượng”, chính là việc khắc họa lại, ghi lại những “ việc
thật”, “người thật” trong thể loại kí để từ đó tạo ra giá trị nhận thức, sức
thuyết phục, lay động đối với người đọc.
Tuy nhiên, việc phản ánh sự thật giữa kí báo chí và kí văn học có sự
khác nhau. Kí văn học cũng lấy việc tái tạo thông tin sự thật làm cơ sở, thế
nhưng nó khơng chỉ đơn thuần thơng tin về sự kiện xã hội mà còn nhằm
phản ánh cái hay cái đẹp, những giá trị, ý nghĩa xã hội – thẩm mĩ của con
người. Chính vì thế mà trong kí văn học các tác giả vẫn có thể vận dụng sức
tưởng tượng hư cấu để sáng tác, nhưng sự tưởng tượng, hư cấu đó khơng
tách rời khỏi cuộc sống thực tại.
1.2.2.2. Hình tượng tác giả trong thể loại kí
Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng cần có vai trị của tác giả,
bởi tác phẩm văn học là “ đứa con tinh thần” của các nhà văn. Thế nhưng so
với các loại tác phẩm tự sự, trữ tình hay kịch, hình tượng tác giả trong tác
phẩm kí có vị trí, vai trị đặc biệt nổi bật và quan trọng.
- 10 -
Tác giả kí có thể được so sánh như một chiếc “máy thu phát năng
lượng” nghệ thuật: vừa là người tiếp cận cuộc sống, vừa khái quát ý nghĩa xã
hội thẩm mĩ của các chi tiết, sự kiện, con người được ghi chép, phản ánh
trong tác phẩm. Để viết một tác phẩm kí hay có sức lơi cuốn người đọc,
người viết cần phải đi nhiều để hịa mình vào cuộc sống, để cảm nhận tất cả
những biến đổi của cuộc sống, phải nắm vững chính xác tới từng chi tiết đối
tượng mà mình phản ánh.
Bên cạnh đó, tác giả kí cũng là người phải tham gia vào thế giới hình
tượng nghệ thuật của tác phẩm, phát huy khả năng quan sát, liên tưởng,
tưởng tượng, kết nối các chi tiết, sự kiện và bày tỏ trực tiếp tư tưởng, tình
cảm của mình để dẫn dắt người đọc cảm thụ cuộc sống theo một hướng nhất
định nào đó.
1.2.2.3. Đặc điểm về văn phong, ngơn từ nghệ thuật của kí
Các nhà nghiên cứu cho rằng: cách diễn đạt của kí rất đa dạng và phức
tạp, cũng như: đặc điểm văn học của kí lộ rất rõ ở văn phong, ngôn từ nghệ
thuật.
Đặc điểm đầu tiên chúng ta có thể thấy là ngơn từ nghệ thuật của kí
vừa cụ thể, sinh động, đậm chất đời thường, vừa khái quát.
Đặc điểm thứ hai là ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí mang đậm
tính chủ thể, gắn liền với cá tính sáng tạo của tác giả.
Bên cạnh đó, chúng ta cịn thấy ngơn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí
cũng rất linh hoạt về giọng điệu. Khơng chỉ trần thuật mà trong kí, trần thuật
có thể kết hợp với phân tích, khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống
được đề cập, phản ánh trong tác phẩm.
Với ba đặc trưng cơ bản, chúng ta có thể khẳng định kí văn học có vai
trị quan trọng trong sự hình thành và phát triển của văn học. Đó khơng phải
là “ thể loại đàn em”, mà kí góp phần làm cho văn học nước nhà phát triển
- 11 -
hài hòa, phong phú, song hành cùng với cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu
của con người.
1.2.3. Tiểu loại bút kí và tùy bút của thể loại kí văn học
1.2.3.1. Tiểu loại bút kí
Theo Trần Đình Sử, bút kí “ là một thể loại phóng khống, tự do mà
cá tính nghệ sĩ trực tiếp tham gia vào đặc điểm thể loại” [20, tr.253]. Bên
cạnh việc ghi lại những chi tiết thực tế về cuộc sống và con người, bút kí
cũng ghi lại cảm nghĩ của tác giả về những sự việc, hiện tượng được phản
ánh, từ đó thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá, quan niệm của nhà văn. Trong
bút kí, yếu tố trữ tình ln xuất hiện xen kẽ với ghi, tả sự việc, hiện tượng.
Sức hấp dẫn của bút kí phụ thuộc vào cách nhìn, cách quan sát, cách
cảm nhận và đặc biệt là tài năng của người nghệ sĩ trong việc khám phá ra
các khía cạnh “ có vấn đề” của hiện thực cuộc sống.
1.2.3.2. Tiểu loại tùy bút
Tùy bút cũng là thể loại kí thiên về trữ tình. Với thể loại này, cái tơi
của người nghệ sĩ được bộc lộ rõ nét, nhà văn có cơ hội phóng bút viết theo
cảm hứng của mình, tùy cảnh, tùy việc để suy tưởng, đánh giá. Điểm khác
biệt của tiểu loại tùy bút so với các tiểu loại kí khác là những sự kiện, những
chi tiết xác thực về con người, cuộc sống được mô tả trong tác phẩm chỉ là
cái cớ để qua đó người nghệ sĩ bộc lộ cảm xúc, sự suy tư, đánh giá của tác
giả.
Chất trữ tình trong tùy bút chính là yếu tố có vai trò quan trọng trong
việc thống nhất tổ chức của tác phẩm, chi phối việc phản ánh chân thực cuộc
sống, con người, chi phối sự tác động của tác phẩm đến với người đọc.
Cái hay của tùy bút chính là qua tác phẩm, người nghệ sĩ đã tái hiện
lên một “ cái tôi” nhân cách, uyên bác, sắc sảo, tài hoa, giàu có về tâm hồn
và trí tuệ.
- 12 -
Cấu trúc của tùy bút ít bị ràng buộc bởi trình tự diễn biến của sự việc
hay quan hệ của những con người ngoài đời thực. Các sự kiện khách quan
trong tùy bút khơng được trình bày liên tục do sự đan xen xúc cảm của cá
nhân người viết, hoặc là do những sự kiện đề cập đến trong tác phẩm được
khai thác từ nhiều địa điểm, thời gian khác nhau, phụ thuộc vào dòng liên
tưởng của tác giả nhằm thể hiện cảm hứng chủ đạo, chủ đề nhất định.
Ngôn từ trong tùy bút thường giàu hình ảnh, chất thơ. Tác giả tùy bút
thường dùng hàng loạt từ đồng nghĩa để vừa đặc tả, xốy sâu, vừa tơ đậm ấn
tượng về những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống.
1.2.3.3. Phân biệt giữa tiểu loại bút kí và tùy bút
Điểm gặp gỡ chung của hai tiểu loại này là cái tôi của người nghệ sĩ
được thể hiện rõ nét qua tác phẩm, cũng như chất trữ tình, chất thơ trong
cách sử dụng ngơn từ, hình ảnh, nhạc điệu, câu văn và cả các biện pháp nghệ
thuật.
Tuy nhiên, giữa bút kí và tùy bút cũng có những điểm khác biệt nhau.
Nếu bút kí vẫn ln tơn trọng hiện thực khách quan, ghi lại các sự vật hiện
tượng theo trình tự mà nó diễn ra ngồi cuộc sống thì trong tùy bút hiện thực
khách quan chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ những suy nghĩ, những cảm xúc,
những trường liên tưởng của chính mình.
Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn là tác phẩm tùy bút pha bút
kí phóng túng, cịn Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc
Tường là tác phẩm bút kí thiên về tùy bút.
1.3. Phong cách nghệ thuật nhà văn và đặc sắc phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng
1.3.1. Khái niệm “ phong cách nghệ thuật nhà văn”
Nhà văn, V.Huygô đã từng viết: “ Tương lai chỉ thuộc về những ai
nắm được phong cách”. Điều đó cho thấy phong cách văn học, phong cách
- 13 -
nghệ thuật của nhà văn có vai trị quan trọng trong q trình phát triển văn
học, góp phần làm cho nền văn học trở nên phong phú, đa dạng. Cũng như
việc nắm được phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ trong quá trình
nghiên cứu tác phẩm, trong quá trình dạy học là vô cùng cần thiết.
Nếu phong cách văn học là tính độc đáo mang ý nghĩa thẩm mĩ của
một hiện tượng văn học, thì phong cách nghệ thuật của nhà văn chính là cá
tính sáng tạo được thể hiện rõ ở đề tài, cảm hứng, nét đặc sắc về bút pháp
nghệ thuật, giọng điệu và ngôn ngữ tác phẩm của nhà văn đó. Mỗi nhà văn,
nhà thơ đều có phong cách nghệ thuật riêng, khơng giống bất cứ ai.
Tuy nhiên, khơng phải cơng trình nghệ thuật nào, khơng phải nhà văn
nào cũng có phong cách. Tác phẩm có phong cách là khi tác phẩm đạt được
tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh
thể. Nhà văn có phong cách là khi nhà văn đó có sự đồng nhất từ cái nhìn
độc đáo, mới lạ, cá tính về hiện thực khách quan được phản ánh trong tác
phẩm tới sự độc đáo trong cách sử dụng các yếu tố nghệ thuật như ngôn ngữ,
giọng điệu, bút pháp nghệ thuật.
1.3.2. Đặc sắc phong cách nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân
Sự nghiệp và quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân có sự thay đổi từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nếu trước Cách mạng, Nguyễn Tn
ln tìm tới vẻ đẹp của một thời “ vang bóng”, tìm tới chủ nghĩa xê dịch cho
khuây khỏa cảm giác “ thiếu quê hương”, thì sau Cách mạng , nhà văn là
một con người luôn khát khao được hòa nhịp với cuộc sống mới. Tuy nhiên,
dù có sự thay đổi, song phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân vẫn thống
nhất ở những điểm sau:
Thứ nhất, Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác. Tài hoa thể hiện
trước tiên ở phương diện tiếp cận thế giới của nhà văn: Nguyễn Tuân quan
sát, nhìn ngắm mọi vật, mọi hiện tượng, con người dưới góc độ cái đẹp. Tiếp
- 14 -
cận sự vật hiện tượng ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, và tiếp cận con người
ở phương diện tài hoa thẩm mĩ. Nhà văn quan niệm “ con người tài hoa nghệ
sĩ” không chỉ là những người hoạt động trong ngành nghệ thuật mà bao gồm
tất cả những con người trong xã hội dù không làm nghệ thuật những vẫn có
thể nâng nghề nghiệp của mình lên tầng nghệ thuật khác thường. Sự uyên
bác của nhà văn thể hiện ở việc sử dụng những kiến thức trên nhiều ngành
nghề, lĩnh vực từ nghệ thuật tới khoa học để miêu tả, bàn bạc, triết lí các
hiện tượng, sự vật.
Thứ hai, Nguyễn Tuân luôn chọn lựa những hiện tượng, sự vật “ đập
mạnh” vào giác quan người đọc, phải thật điển hình, đậm nét chứ khơng
phải là sự chừng mực, ơn hòa.
Đặc điểm thứ ba trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là
cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật. Nguyễn Tuân được mệnh danh là “
người thầy ngôn ngữ”, bởi ông có một “kho tàng” từ vựng phong phú, có
một khả năng thiên phú về cách sử dụng ngôn từ, cách tổ chức các câu văn
xi giàu tính tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết “co duỗi nhịp nhàng”
như chính Nguyễn Tn đã từng nói.
Bên cạnh những đặc điểm chung về phong cách sáng tác, nhà văn còn
thể hiện “ cái tơi độc tấu” của mình lên thể loại tùy bút với những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, tùy bút của Nguyễn Tuân có nhiều yếu tố truyện, bởi lẽ nhà
văn tìm đến với truyện trước khi bén duyên với tùy bút.
Thứ hai, tùy bút của Nguyễn Tuân rất đậm chất kí, thể hiện qua việc
nhà văn đã khắc họa, miêu tả khá chính xác và tỉ mỉ các sự vật hiện tượng
diễn ra trong đời sống thực tế qua những trang văn của mình.
Đặc điểm thứ ba là tính tự do về phép tắc trong tùy bút. Nguyễn Tuân
để ngòi bút của mình đi theo sự “ soi đường” của trí nhớ, của xúc cảm, ơng
- 15 -
phát huy cao độ năng lực cảm thụ cái đẹp rất tài hoa nghệ sĩ của mình để
liên tưởng so sánh và tạo ra những “ đột phá” của hình ảnh, ngôn từ, nhưng
dù thế nào cũng không chệch khỏi “ đường ray” của nghệ thuật.
Bên cạnh đó, những trang văn tùy bút của Nguyễn Tuân mang đậm
chất trữ tình, chất thơ, mang đậm phẩm chất văn chương qua cách sử dụng
ngôn từ, qua cách đặt câu, cách diễn đạt.
1.3.3. Đặc sắc phong cách nghệ thuật bút kí của Hồng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên ở xứ Huế, và phần lớn
cuộc đời của ông cũng gắn liền với mảnh đất giàu truyền thống văn hóa này.
Chính vì thế mà Huế đã trở thành một phần sự sống trong tâm hồn nhà văn
và trong các sáng tác của ơng nhất là ở thể loại kí.
Khi tìm hiểu các bút kí nói chung và bút kí Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? nói riêng của Hồng Phủ Ngọc Tường, cần phải nắm được những đặc
điểm về phong cách bút kí của nhà văn. Sẽ khơng sai khi nói rằng: Kí của
Hồng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một trí tuệ sắc sảo, uyên bác. Các tác phẩm
kí chỉ thuyết phục người đọc khi nó đảm bảo tính xác thực, và tính xác thực
chỉ xuất hiện khi nhà văn am hiểu tường tận về đối tượng phản ánh của
mình. Hồng Phủ Ngọc Tường đã làm được điều đó. Nhà văn khơng chỉ am
hiểu mà cịn cung cấp cho người đọc một lượng thông tin khá lớn về đối
tượng phản ánh.
Đặc điểm thứ hai về phong cách kí của Hồng Phủ Ngọc Tường là:
tác phẩm kí của nhà văn thường thiên về tùy bút. Đọc những trang kí của
nhà văn, chúng ta nhận thấy sự đổi thay thú vị của kí. Mỗi một trang văn dù
là ghi chép các sự kiện có thực thì chúng ta vẫn thấy chúng thấm đượm chất
trầm tư, trữ tình.
Bên cạnh đó, kí của Hồng Phủ Ngọc Tường cịn có tính chất tản
mạn, tự do. Sự kiện đôi khi chỉ là cái cớ để nhà văn bộc lộ những cảm xúc,
- 16 -
suy nghĩ chủ quan của mình. Cách tổ chức văn bản kí của nhà văn mang tính
nghệ thuật cao, văn phong giàu chất thơ, hình ảnh gợi cảm.
Nguồn mạch xuyên suốt các tác phẩm kí của Hồng Phủ Ngọc Tường
là tình yêu quê hương đất nước, là tâm huyết với tinh hoa dân tộc. Ơng ln
gắn cái đẹp, gắn nghệ thuật với những truyền thống văn hóa của dân tộc.
Những tác phẩm kí của nhà văn dù viết về những năm tháng chiến tranh hay
cuộc sống đương đại đều lấp lánh niềm tự hào về những nét đẹp của quê
hương đất nước.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG DẠY HỌC TÁC PHẨM KÍ
TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12, TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THEO PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TÁC GIẢ
2.1. Thực trạng dạy học tác phẩm kí trong chƣơng trình Ngữ Văn lớp
12
2.1.1. Tác phẩm kí trong chương trình Ngữ Văn 12 trung học phổ thơng
Tác phẩm kí trong chương trình Ngữ Văn trung học phổ thơng nói
chung và lớp 12 nói riêng chiếm tỉ lệ nhỏ. Trong số 20 tác phẩm văn học
được đưa vào, chỉ có hai đoạn trích thuộc thể loại kí là Người lái đị Sơng
Đà của Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
Sự chênh lệch quá lớn về số lượng giữa các tác phẩm văn học đã vơ
tình khiến cho giáo viên và học sinh mất dần sự coi trọng trong việc dạy học
các tác phẩm kí. Nhất là với học sinh lớp 12, khi phải đối mặt với các kì thi
như tốt nghiệp, đại học thì việc học các tác phẩm kí sẽ chỉ là sự đối phó.
2.1.2. Khảo sát q trình dạy học các tác phẩm kí trong chương trình lớp
12
- 17 -
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát qua phiếu điều tra đối với 12 giáo
viên và 424 học sinh khối 12 trường THPT Nguyễn Khuyến, Nam Định.
Cũng như tiến hành dự giờ các tiết dạy học các tác phẩm kí tại 4 lớp 12A3,
12A4, 12A5, 12A6 vào tháng 10/ 2012.
2.1.3. Đánh giá về tình hình dạy học các tác phẩm kí trong chương trình
lớp 12
Qua hoạt động điều tra khảo sát, dự giờ thăm lớp, chúng tôi nhận
thấy: Bên cạnh một số những thành tựu nhất định, việc dạy học văn nói
chung và các tác phẩm kí nói riêng trong chương trình Ngữ Văn 12 vẫn cịn
một số hạn chế:
Hạn chế đầu tiên là phương pháp dạy học. Người giáo viên vẫn chú
trọng quá nhiều vào việc cung cấp kiến thức xoay quanh hai tác phẩm kí chứ
chưa chú trọng tới phương pháp dạy học. Trong các giờ dạy, phần lớn là
giáo viên thuyết trình về bài học, học sinh ghi lại lời giảng của giáo viên,
chứ học sinh không được làm việc theo nhóm, ít được trình bày những suy
nghĩ của bản thân...
Thứ hai: giáo viên chưa thật sự chú ý đến đặc trưng thể loại kí nên
chưa có cơ sở chắc chắn để đánh giá, phân tích tác phẩm. Vì vậy, dù có
những giờ dạy học đã diễn ra khá bài bản nhưng cuối cùng chính người dạy
cũng chưa thật sự hài lịng về nó, bởi người giáo viên chưa tìm thấy “ chiếc
chìa khóa” để mở “ cánh cửa” chứa ý đồ sáng tạo của nhà văn trong tác
phẩm kí.
Bên cạnh đó, người giáo viên vơ tình lãng quên phần hướng dẫn và
chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, cũng như chưa đổi mới cách thức chuẩn bị
bài, vẫn chỉ dừng lại ở việc trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài
của Sách giáo khoa.
- 18 -
Một hạn chế nữa là hệ thống câu hỏi giáo viên đưa ra khi thì q khó,
khi thì q dễ, hoặc thiếu chính xác khơng rõ ràng, khiến cho học sinh không
hiểu được câu hỏi dẫn tới không trả lời được.
2.1.4. Phân tích ngun nhân
Thứ nhất là do chương trình và sách giáo khoa chưa thực sự đổi mới,
chưa phù hợp với mục tiêu, nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay. Việc
phân bố thời gian dạy học các tác phẩm kí cũng rất hạn chế.
Việc sử dụng các cơng nghệ dạy học hiện đại trong q trình dạy học
Ngữ Văn nói chung và dạy các tác phẩm kí nói riêng chưa phát huy được
hiệu quả. Dường như những tiến bộ của khoa học kĩ thuật vẫn còn rất xa lạ
với quá trình dạy học, các phương tiện nghe, nhìn,... cũng chưa được áp
dụng một cách đầy đủ và chưa đáp ứng được nhu cầu dạy học.
Sự tác động của đời sống cơ chế thị trường cũng ảnh hưởng khơng
nhỏ tới q trình dạy học văn nói chung và các tác phẩm kí nói riêng. Xu
hướng phát triển của khoa học kĩ thuật, của các ngành khoa học tự nhiên
trong đời sống xã hội đã khiến cho một bộ phận học sinh cho rằng môn Ngữ
Văn và việc học Ngữ Văn trong nhà trường không quan trọng và hữu ích.
Bên cạnh đó, đời sống kinh tế khó khăn của giáo viên cũng khiến họ khơng
có hoặc ít có điều kiện đầu tư, nghiên cứu nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp trong q trình dạy học
khơng được đến nơi đến chốn, cũng là một nguyên nhân đáng kể làm khó
khăn thêm cho tình trạng dạy học các tác phẩm kí hiện nay.
2.2. Định hƣớng đổi mới dạy học các tác phẩm kí trong chƣơng trình
lớp 12
2.2.1. Quá trình dạy học các tác phẩm kí cần phải theo đặc trưng thể loại
Việc dạy học tác phẩm văn chương nói chung và các tác phẩm kí nói
riêng theo đặc trưng thể loại giúp người dạy cũng như người học củng cố
- 19 -
kiến thức lý luận văn học về thể loại văn học, từ đó có cái nhìn đúng đắn,
sâu rộng hơn về tác phẩm văn học và nâng cao mức độ lí giải, cảm thụ, phát
triển năng lực thưởng thức, phê bình tác phẩm.
Đoạn trích Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn là tùy bút trữ
tình. Chính vì thế, đoạn trích đã mang đậm tính chất chủ quan của Nguyễn
Tuân. Nhân vật trong đoạn trích chính là cái tơi của nhà văn, bộc lộ cảm xúc,
suy tư và nhận thức đánh giá của mình về hình ảnh dịng sơng Đà và người
lái đị sơng Đà. Nguyễn Tn khắc họa hình ảnh dịng sơng Đà khơng theo
thủy trình của nó mà theo sự cảm nhận của nhà văn.
Còn Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường là bút
kí thiên về tùy bút: giàu chất trữ tình và giàu lượng thông tin. Qua tác phẩm,
người đọc nhận thấy được tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu của Hoàng
Phủ Ngọc Tường - một trong những điểm làm nên phong cách nghệ thuật
của nhà văn.
Như vậy, khi dạy học tùy bút Người lái đị Sơng Đà hay bút kí Ai đã
đặt tên cho dịng sơng? người giáo viên cần phải làm nổi bật được nét đặc
trưng của thể loại tùy bút và bút kí như: cái tơi của tác giả, chất trữ tình
trong chính cách miêu tả các sự vật khách quan của đời sống, các biện pháp
nghệ thuật được tác giả sử dụng trong tác phẩm. Có như thế, giờ dạy học
mới có thể thu hút được sự chú ý của học sinh, mới có thể đạt hiệu quả cao.
2.2.2 Q trình dạy học các tác phẩm kí cần phải gắn với phong cách
nghệ thuật của các nhà văn
2.2.2.1. Đặc điểm phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tn qua tùy
bút Người lái đị Sơng Đà
Tùy bút Người lái đị Sơng Đà in lần đầu có tên là Sơng Đà, trích
trong tập tùy bút Sơng Đà của Nguyễn Tuân được in lần đầu vào năm 1960,
lần thứ hai năm 1978. Sông Đà bao gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác
- 20 -
thảo, là tác phẩm của nhà văn trong chuyến đi thực tế lên Tây Bắc vào tháng
10 năm 1958, giai đoạn Đảng và Nhà nước đang tiến hành xây dựng cuộc
sống mới ở miền Bắc. Đoạn trích Người lái đị Sông Đà trong sách giáo
khoa, nằm ở phần giữa của tác phẩm, là đoạn trích tiêu biểu cho tư tưởng và
phong cách của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tập tùy bút Người lái đị Sơng Đà, là tác phẩm thể hiện rõ nét nhất
phong cách nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Đó là một lối chơi “độc
tấu”, một “ cái tôi tài hoa, uyên bác” của nhà văn. Hình ảnh dịng sơng Đà
được Nguyễn Tn khắc họa ở nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực của các ngành
văn hóa, nghệ thuật từ lịch sử, địa lí tới khoa học quân sự, võ thuật, văn
chương, hội họa, âm nhạc, điện ảnh... Bên cạnh đó, hình ảnh ơng lão lái đò
đã được Nguyễn Tuân nâng tầm, trở thành một nghệ sĩ lái đò, một “ tay lái
ra hoa” và chèo đò đã trở thành một nghệ thuật.
Nét phong cách nghệ thuật thứ hai là nhà văn tập trung khai thác
những hiện tượng mạnh mẽ, dữ dội của thiên nhiên để “ đập mạnh” vào giác
quan của người nghệ sĩ, tạo nên những cảm giác mãnh liệt, gây những ấn
tượng đậm nét. Dịng sơng Đà dưới con mắt nhìn của Nguyễn Tuân không
chỉ êm đềm thơ mộng “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, với những “lá ngô non
đầu mùa”, những “nõn búp” mà sơng Đà cịn hiện lên với sự dữ dội, mãnh
liệt “ dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xuýt”, với tiếng thác nước
như tiếng rống của “ một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa...
Điểm thứ ba mà người đọc nhận thấy về phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân qua những trang tùy bút đó là sự kết hợp giữa chất bút kí và
- 21 -
tùy bút, vừa nghiêm túc chính xác về mặt tư liệu, vừa phóng túng trong hư
cấu nghệ thuật để tổ chức các tình huống xây dựng các nhân vật có đặc sắc
riêng.
Không chỉ tài hoa, uyên bác, không chỉ khai thác những hiện tượng có
khả năng “ đập mạnh” vào giác quan người nghệ sĩ, không chỉ là sự kết hợp
giữa tùy bút và bút kí, ... mà Người lái đị Sơng Đà cịn là những trang văn “
tuyệt cú” về cách sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân. Ngôn ngữ trong tác
phẩm rất giàu có, sắc bén, biến đổi linh hoạt, giàu hình ảnh, nhạc điệu, mới
lạ. Quá trình sáng tạo và sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân được so sánh
như cuộc thi tài giữa thiên nhiên, tạo hóa với kho từ vựng của nhà văn mà
cái đích đến là cảm xúc trong lòng độc giả.
2.2.2.2. Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua
bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
Đây là một bài kí độc đáo về sơng Hương. Dịng sơng khơi gợi cảm
hứng cho thơ ca nhạc họa đã được tác giả cảm nhận từ nhiều góc nhìn, đặc
biệt là từ góc nhìn tâm linh, mang những nét riêng của “ văn hóa Phú Xn”.
Đoạn trích trong sách giáo khoa nằm ở phần đầu của tác phẩm, có thiên
hướng thiên về tùy bút, “với nhịp điệu chậm rãi, với chất thơ thi vị ngọt
ngào”[20, tr.254]. Đoạn trích đã thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật của
Hồng Phủ Ngọc Tường.
Đó là một cái tôi tài hoa, mê đắm. Tài hoa của Hồng Phủ Ngọc
Tường, thể hiện ở chính cách nhìn và phát hiện vẻ đẹp của sông Hương.
Sông Hương không hiện lên trong sự nhất quán về một vẻ đẹp, mà sơng
Hương mang trong mình những vẻ đẹp khác nhau và mỗi vẻ đẹp đó lại đem
đến một trải nghiệm riêng thú vị cho chúng ta.
Nét tài hoa của cái tôi Hồng Phủ Ngọc Tường cịn thể hiện ở vẻ đẹp
ngơn từ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sơng
- 22 -
Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn
tượng, thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sơng xứ Huế. Chẳng
hạn như: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, ...”. Hay
như: “... sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một
lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm...”.
Dường như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành người họa sĩ mà mỗi câu
văn của ông như một nét vẽ tài hoa.
Nét tài hoa về ngơn ngữ của nhà văn cịn thể hiện ở việc sử dụng các
thủ pháp nghệ thuật – yếu tố khiến cho “ chiếc máy phát năng lượng” hoạt
động có hiệu quả nhất. Nhà văn đã sử dụng rất thành cơng biện pháp nhân
hóa và so sánh. Khơng cịn một sơng Hương vơ tri vơ giác, một tạo vật của
thiên nhiên nữa mà đã trở thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm
trạng như con người. Với các thủ pháp nghệ thuật đó mà những kiến thức
địa lý, lịch sử, văn hóa đã được thăng hoa để trở thành những tri thức nghệ
thuật đẹp về đất nước, con người, về dịng sơng u thương của Huế.
Đặc sắc phong cách nghệ thuật thứ hai của Hoàng Phủ Ngọc Tường
là: một cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Tác
phẩm là một bài bút kí pha tùy bút, vì thế thấm đượm chất trữ tình và sự
phóng khống, thế nhưng cái hồn cốt của thể loại khơng vì thế mà mất đi.
Hồng Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” xuất sắc bởi vốn hiểu biết sâu rộng
về địa lý, lịch sử, văn hóa của sơng Hương. Ơng tỏ ra am hiểu tường tận
những gì mình viết. Và ở từng lĩnh vực, nhà văn đều khám phá ra những vẻ
đẹp rất riêng của Sơng Hương.
Đó cịn là một cái tơi u quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với xứ
Huế. Phải u Huế, gắn bó với sơng Hương đến mức nào, Hoàng Phủ Ngọc
- 23 -
Tường mới có được những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa về
sông Hương như vậy.
2.2.3. Sử dụng linh hoạt, hợp lí các phương pháp dạy học tích cực, chú
trọng hoạt động đọc văn của học sinh trong q trình dạy học các tác
phẩm kí
Thực hiện dạy và học tích cực khơng có nghĩa là gạt bỏ các phương
pháp dạy học truyền thống. Điều quan trọng là phải linh hoạt trong quá trình
dạy học, để phát huy được ưu điểm, khắc phục được hạn chế của từng
phương pháp. Đối với môn Ngữ Văn cũng thế, trong quá trình dạy học một
tác phẩm thơ, truyện, kịch, hay kí, người giáo viên có thể linh hoạt sử dụng
các phương pháp dạy học như: thuyết trình, vấn đáp, gợi mở, nêu vấn đề,
làm việc nhóm...
Ngồi ra, người giáo viên cần phải chú trọng tới hoạt động đọc văn
của học sinh, nhất là hoạt động đọc diễn cảm tác phẩm văn chương. Mục
đích của đọc văn là để tiếp nhận, lĩnh hội văn bản, đọc văn để hiểu và cảm
nhận văn bản, có ấn tượng và định hình biểu tượng về tác phẩm. Người đọc
văn phải làm sống lại hình tượng nghệ thuật từ văn bản rồi chuyển hình
tượng đó vào trong đầu trở thành biểu tượng, ấn tượng của mình. Đọc văn
cịn để bộc lộ, trình bày kết quả cảm hiểu của mình với người khác và với
chính mình..
2.2.4. Sử dụng đồ dùng trực quan, công nghệ dạy học hiện đại và tổ chức
các hoạt động ngoại khóa để tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình
dạy học các tác phẩm kí
Trong q trình dạy học 2 đoạn trích kí Người lái đị Sơng Đà và Ai
đã đặt tên cho dịng sơng? người giáo viên có thể sử dụng đồ dùng trực
quan như những bức tranh đẹp về hai dịng sơng; cho học sinh xem những
đoạn clip ngắn để giới thiệu về dịng sơng Đà cùng với thiên nhiên Tây Bắc,
- 24 -